Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Hành vi nguy cơ cao nhiễm HIV ở nhóm nam quan hệ đồng giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.88 KB, 19 trang )

HÀNH VI NGUY CƠ LÂY NHIỄM HIV TRONG NHÓM NAM QUAN HỆ
TÌNH DỤC ĐỒNG GIỚI (MSM) TẠI HÀ NỘI NĂM 2017
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Thanh Thủy – A27969
MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với mọi quốc gia, mọi
dân tộc trên toàn thế giới. Nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển trên mọi lĩnh vực
trong đời sống văn hóa, xã hội của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của tất cả
các quốc gia. Đáng lo ngại hơn, HIV/AIDS ngày càng luồn lách, lan tràn ở khắp các
vùng miền từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến hải đảo xa xôi.
Hiện nay, HIV đang có xu hướng tiến triển và lây lan trong nhóm nam quan hệ
tình dục đồng giới (MSM) trên toàn cầu. Trên phạm vi toàn thế giới, khoảng 5-10%
các trường hợp nhiễm HIV là do lây truyền qua đường tình dục đồng giới nam, và tỷ lệ
này thay đổi theo từng khu vực [8]
Tình hình lây nhiễm HIV ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn tập trung, với tỷ
lệ hiện nhiễm HIV cao nhất được tìm thấy trong một số nhóm cụ thể – đó là người
tiêm chích ma túy (TCMT), phụ nữ mại dâm (PNMD), bên cạnh đó là nhóm nam quan
hệ tình dục với nam (MSM) đang có chiều hướng gia tăng. Kết quả báo cáo nghiên
cứu HSS 2011 tại 5 tỉnh cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM cao ở một số tỉnh
như TP Hồ Chí Minh (14%), Hà Nội (6.7%), An Giang (3%) [3]. Hai tỉnh còn lại có tỷ
lệ nhiễm HIV tương đối thấp như Hải Dương (1.2%), Đà Nẵng (0%). Năm 2013, theo
kết quả giám sát trọng điểm nhóm MSM ở 16 tỉnh cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV trong
nhóm MSM là 3,3%, cao hơn so với năm 2012 (2,3%) [4]. Qua nhiều nghiên cứu đánh
giá cho thấy, đa số MSM có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV, đó là do quan hệ tình dục
qua hậu môn không sử dụng bao cao su hoặc sử dụng bao cao su không thường xuyên.
MSM còn tham gia cả hoạt động mại dâm (cả mua lẫn bán), tùy theo từng tỉnh thành
phố tỷ lệ này dao động từ 22%-52,4%.
Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam. Hà Nội nằm giữa đồng bằng sông Hồng trù
phú, nơi đây đã sớm trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Việt


Nam. Với vị trí đó Hà Nội có điều kiện thuận lợi thu hút các nguồn lực để thúc đẩy
nhanh sự phát triển kinh tế. Do là những yếu tố thuận lợi để Hà Nội phát triểu mạnh và
bền vững về kinh tế - xã hội khiến đời sống của nhân dân được nâng cấp. Vì vậy, nguy
cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới có thể tăng cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và xuất phát từ cơ sở khoa học
và yêu cầu thực tiễn chúng tôi đã chọn đề tài: “HÀNH VI NGUY CƠ LÂY NHIỄM
HIV TRONG NHÓM NAM QUAN HỆ TÌNH DỤC ĐỒNG GIỚI (MSM) TẠI
HÀ NỘI NĂM 2017” để có cái nhìn tổng quát về các đặc điểm nhân khẩu, xã hội học
của nhóm MSM, đồng thời cung cấp thông tin khoa học về các hành vi lây nhiễm HIV
(bao gồm QHTD và sử dụng ma túy) trong nhóm này. Kết quả nghiên cứu có thể sẽ
2


cung cấp những thông tin quan trọng cho việc xây dựng kế hoạch can thiệp, theo dõi,
dự báo và đánh giá tình hình HIV/AIDS tại Hà Nội.

3


CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
1. Vì sao HIV/AIDS lại xảy ra trong nhóm nam quan hệ tính dục đồng giới?
2. Các hành vi nguy cơ nào có thể làm gia tăng lây nhiễm HIV/AIDS trong nhóm
nam quan hệ tình dục đồng giới?
3. Một số yếu tố như giới tính, lứa tuổi, nơi cư trú, trình độ học vấn, đặc điểm
nghề nghiệp ảnh hưởng đến nhận thức của cộng đồng về HIV/AIDS,
4. Đặc điểm nhân khẩu – xã hội học của nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới có
ảnh hưởng đến nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS như thế nào?
5. Thực trạng lây nhiễm HIV của nhóm nam quan hệ tính dục đồng giới tại Hà
Nội năm 2017?
6. Kiến thức – thái độ và thực hành của nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới với

HIV như thế nào?

4


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả đặc điểm nhân khẩu, xã hội học của nhóm nam quan hệ tình dục đồng
giới tại Hà Nội năm 2017.
2. Phân tích các hành vi nguy cơ trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới tại
Hà Nội năm 2017.

5


TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Một số khái niệm liên quan đến nghiên cứu
1.1. HIV/AIDS
HIV là virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. HIV gây
tổn thương hệ thống miễn dịch của cơ thể và làm cho cơ thể không còn khả năng
chống lại các tác nhân gây bệnh dẫn đến chết người.[5]
AIDS là giai đoạn cuối cùng của quá trình nhiễm HIV được thể hiện bởi các bệnh
nhiễm trùng cơ hội, ung thư và các bệnh liên quan đến rối loạn miễn dịch dẫn đến tử
vong. Thời gian từ khi nhiễm HIV đến biến chuyển thành bệnh AIDS tùy thuộc vào
hành vi và đáp ứng miễn dịch của từng người nhưng tựu chung lại trong khoảng thời
gian trung bình là 5 năm.[5]
1.2. Giới tính và Giới
Giới tính (sex): Chỉ các đặc điểm sinh học của cơ thể nam và nữ. Ví dụ: Phụ nữ
có âm hộ, âm đạo, buồng trứng; nam giới có dương vật, tinh hoàn, tinh trùng hay phụ
nữ có thể mang thai, nam giới không thể mang thai… [11]
Giới (gender): Là quan niệm xã hội về vai trò, hành vi, hoạt động, đặc điểm được

coi là phù hợp với nam và nữ. Ví dụ: Nam giới thì phải mạnh mẽ, giữ vai trò trụ cột
kinh tế, kết hôn/quan hệ tình dục với phụ nữ. Ngược lại, phụ nữ thì phải dịu dàng,
chăm chỉ, kết hôn/quan hệ tình dục với nam giới, v.v. [11]
1.3. Quan hệ tình dục (sexual/intercouse)
Còn gọi là giao hợp hay giao cấu, thường chỉ hành vi đưa bộ phận sinh dục nam
vào trong bộ phận sinh dục nữ. Quan hệ tình dục (QHTD) cũng có thể là giữa những
người khác hoặc cùng giới tính hoặc lưỡng tính. Những năm gần đây, việc thực hiện
QHTD với những bộ phận không phải là bộ phận sinh dục (quan hệ đường miệng,
đường hậu môn, hoặc dùng ngón tay) cũng được bao gồm trong định nghĩa này[9].
QHTD an toàn: Là QHTD không dẫn đến mang thai ngoài ý muốn và/hoặc lây
nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs) như: HIV, lậu, giang mai… Các
biện pháp đảm bảo QHTD an toàn như sử dụng bao cao su (BCS) bất kỳ khi nào có
QHTD, sống chung thủy và kiểm tra sức khỏe định kỳ QHTD không bảo vệ: Là không
dùng hoặc dùng không thường xuyên BCS khi QHTD [11].
1.4. Nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM)
Theo Vũ Ngọc Bảo và Philippe Girault [12], thuật ngữ MSM được du nhập vào
Việt Nam từ thập kỷ 1990 cùng với dịch HIV. Cụm từ này được dịch ra tiếng Việt là
“nam có quan hệ tình dục với nam”. Trong những nghiên cứu gần đây, ISDS [7] và
6


FHI tại Việt Nam đã dịch cụm từ MSM là “nam quan hệ tình dục đồng giới”. Khung
hướng dẫn Hành động của UNAIDS về tiếp cận phổ cập đối với nhóm nam quan hệ
tình dục đồng giới và người chuyển giới [10] đã định nghĩa 2 nhóm này như sau: Nam
quan hệ tình dục đồng giới là những người nam giới có quan hệ tình dục với những
người nam khác, bất kể họ có quan hệ tình dục với phụ nữ hay không hoặc có những
nhân dạng cá nhân hay nhân dạng xă hội liên quan tới hành vi đó, như là “gay” hoặc
“lưỡng tính”.
1.5. Nam bán dâm đồng giới
Bán dâm là hành vi QHTD của một người với người khác để được trả tiền hoặc

lợi ích vật chất khác [11].
Nam bán dâm đồng giới được định nghĩa là nam giới (về mặt giới tính) có
QHTD với một người nam giới khác để nhận tiền hoặc vật chất (chỗ ở, thức ăn, ma
túy…).

7


1.6. Khung lý thuyết

8


Hành vi lây nhiễm HIV
- Hành vi QHTD và việc sử dụng bao cao su, chất bôi trơn
- Hành vi sử dụng chất gây nghiện, TCMT và sử dụng bơm kim tiêm s
- Tiếp cận dịch vụ phòng lây nhiễm HIV

Hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm MSM
Yếu tố xã hội:
- Kênh cung cấp vật phẩm, thông tin
- Dịch vụ tư vấn, khám điều trị STI
- Dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV
- Dịch vụ hỗ trợ khác cho MSM

2. Tình hình dịch HIV/AIDS hiện nay
2.1. Trên thế giới
Đã qua tròn hai thập kỷ kể từ khi trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện
tại Mỹ, loài người hiện nay vẫn đang đứng trước hiểm họa của đại dịch HIV/AIDS.
Trên thế giới kể từ 6/1981, phát hiện được 5 thanh niên có quan hệ tình dục đồng

giới ở Los Algeles (Mỹ) cùng mắc một chứng bệnh giống nhau và cùng tử vong. Đến
tháng 5/1983 thì phát hiện gia virus HIV tại viện Pasteur Paris (Pháp), đến tháng
6/2006 theo ước tính cuả Tổ chức Y tế Thế giới AIDS đã lan tràn tới 180 quốc gia và
trên 60 triệu người đã bị nhiễm vi rút này [13].
Hiện có hơn 33 triệu người sống chung với HIV, đó là con số báo cáo của
Chương trình phối hợp phòng, chống AIDS của liên hợp quốc (UNAIDS) công bố
trước thềm hội nghị quốc tế về AIDS tại Mexico.Theo báo cáo, các nỗ lực mạnh mẽ
trên toàn cầu trong cuộc chiến chống lại căn bệnh thế kỷ đặt kết quả, số người bị chết
vì AIDS trên thế giới giảm liên tiếp trong hai năm (2006 – 2007), sau hơn hai thập
niên gia tăng. Khoảng hai triệu người trên thế giới đã chết vì AIDS trong năm 2007,
giảm so với mức 2,1 triệu người năm 2006. Tuy nhiên UNAIDS khảng định còn nhiều
việc cần phải làm để đối phó với dịch AIDS. Trong số 33 triệu người sống chung với
9


AIDS năm 2007, có 2,7 triệu ca nhiễm mới, trong khi số ca nhiễm mới HIV giảm ở
một số nước như Campuchia, Myanmar và Thái Lan thì nó lại tăng lên ở nhiều nước
như Trung Quốc, Indonosia, Kenya, Mozambique, Papua New Guinea, Nga, Ukraine
và Việt Nam. Thậm chí tại một số nước giàu như Đức, Anh...Số ca nhiễm mới HIV
cũng tăng năm 2007. Những khu vực có nhiều người sống chung với HIV/AIDS nhất
vẫn là khu vực miền nam châu Phi, chiếm hai phần ba số trường hợp nhiễm HIV/AIDS
toàn cầu (tương đương 22 triệu ca), tiếp đó là khu vực Nam và Đông – Nam Á (4,2
triệu ca), Mỹ la tinh 1,7 triệu ca...Báo cáo cho biết tại châu Á, gần một nửa số bị
nhiễm HIV ở Trung Quốc năm 2006 được cho là do sử dụng các dụng cụ tiêm chích bị
nhiễm HIV. Việc sử dụng chung kim tiêm có HIV và quan hệ tình dục không an toàn
cũng là nguyên nhân chủ yếu làm lây lan đại dịch này tại Việt Nam và Malaysia, nơi
hai phần ba các trường hợp nhiễm HIV [13].
2.2. Tại Việt Nam
Dịch HIV/AIDS tại Việt Nam đã và đang trở thành hiểm hoạ của mỗi cá nhân,
gia đình và cộng đồng. Kể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Thành

phố Hồ Chí Minh vào cuối tháng 12 năm 1990, đến năm 1993 dịch bắt đầu bùng nổ,
phát hiện 1.100 người nhiễm, tập trung trong nhóm nghiện chích ma tuý tại Thành phố
Hồ Chí Minh. Chỉ sau 5 năm, dịch đã lan tràn mạnh mẽ trên phạm vi cả nước. Kể từ
năm 2000 đến năm 2005, số người nhiễm HIV tăng gấp đôi, mỗi năm Việt Nam phát
hiện thêm trung bình 12.000 đến 15.000 trường hợp nhiễm HIV. Tính đến nay, Việt
Nam có 149, 653 người nhiễm HIV hiện còn sống, 32, 400 người bị nhiễm AIDS và
43, 265 người tử vong do AIDS. ước tính đến năm 2010, Việt Nam có khoảng 311.500
người bị nhiễm HIV/AIDS và trong số đó sẽ có trên 100 nghìn người tử vong. Các tỉnh
miền núi, biên giới phía Bắc hiện là những địa phương có số lượng người nhiễm
HIV/AIDS tăng nhanh. Trong tổng số 10 tỉnh, thành có tỷ lệ người nhiễm HIV cao
nhất nước có tới 5 tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó, Sơn La và Điện Biên có tỷ lệ
người nhiễm HIV nhiều chỉ đứng sau thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp là các tỉnh, Yên
Bái, Cao Bằng và Bắc Kạn. Đáng mừng là Hà Nội, Quảng Ninh vốn là nững nơi có
đông người nhiễm HIV/AIDS nay đã giảm đáng kể. Quảng Ninh đứng ở vị trí thứ 7,
sau Hải Phòng và Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu. [13]
Trong 6 tháng đầu năm nay, đại dịch HIV ở nước ta đang gia tăng với tốc độ
chóng mặt. Số ca nhiễm HIV đã tăng cao gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2007. Bộ
trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu cho biết “ Trong số ca nhiễm HIV thì có tới 83,3%
ở độ tuổi 20 – 39 ; Tỷ lệ nam giới cao gấp 4 lần so với nữ giới”. Những con số thống
kê cho thấy nguy cơ báo động về lực lượng lao động của nước ta trước mối đe doạ của
đại dịch này, theo thống kê từ Cục phòng chống HIV/AIDS, đa phần các trường hợp
10


nhiễm HIV ở nước ta nghiện chích ma tuý hoặc liên quan đến ma tuý, con đường lây
nhiễm bệnh chủ yếu hiện nay là do sử dụng chung bơm kim tiêm và quan hệ tình dục
không an toàn; 100% tỉnh/ thành nước ta có người nhiễm HIV. Tại một số địa phương,
tỷ lệ người nghiện chích ma tuý quan hệ tình dục với gái mại dâm cũng đang tăng
mạnh như: An Giang (43,3%), Đà Nẵng (35,2%), Cần Thơ(28,9%)...Đại dịch đã tràn
vào nước ta tới mức đáng lo ngại thế nhưng, đến nay có 32% xã phường triển khai

Chương trình bao cao su; 19% xã phường triển khai Chương trình bơm kim tiêm và
lượng bơm kim tiêm phát ra chỉ đáp ứng được khoảng 15% - 20% nhu cầu thực tế [13]
Đối tượng nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam đa dạng, có ở mọi địa phương, diễn
biến phức tạp. Đối tượng nhiễm HIV ở Việt Nam không còn tập trung trong một số
nhóm nguy cơ cao mà đã xuất hiện trong tất cả các thành phần, tầng lớp xã hội như:
nông dân, học sinh, sinh viên, tân binh, thậm chí trong giới công chức cũng đã phát
hiện nhiều trường hợp nhiễm HIV [13].
Theo báo cáo của Bộ y tế, hiện nay cả 64/64 tỉnh thành phố trên toàn quốc đều đã
phát hiện có người nhiễm HIV/AIDS, 93% số quận/huyện và 49% số xã/phường, một
số tỉnh/thành phố có 100% số xã/phường đã có người nhiễm HIV/AIDS. Hiện nay dịch
HIV/AIDS vẫn có nguy cơ tiếp tục gia tăng, diễn biến của dịch ngày càng phức tạp về
quy mô, diện mắc và hình thái lây truyền. Theo số liệu của Uỷ ban quốc gia phòng
chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm đến 31/3/2009, 10 tỉnh ở Việt
Nam có số người nhiễm HIV cao nhất.
Bảng 1. Tình hình nhiễm HIV/AIDS tại một số tỉnh, thành phố
(Số liệu tính đến ngày 31/3/2009)
STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.

Địa phương
Thành phố Hồ Chí Minh

Quảng Ninh
Hà Nội
Hải Phòng
Nghệ An
Thái Nguyên
Bà Rịa – Vũng Tàu
An Giang
Cần Thơ
Sơn La

Số nhiễm HIV/AIDS
37.585
606,71
14.419
6.288
3.370
4.531
3.231
3.617
108,78
6.584

11


3. Tình hình nhiễm HIV/AIDS trong nhóm MSM
3.1. Trên thế giới
Hiện tại trên thế giới cũng như ở Việt Nam vẫn chưa có thông tin chính xác về tỷ
lệ nam có quan hệ tình dục đồng giới (MSM) trong cộng đồng vì nam giới thường
không nhận mình là đồng tính hay lưỡng tính hoặc có hành vi QHTD với nam giới

khác. Tuy nhiên, con số có thể khác nhau giữa các quốc gia và các khu vực, nhưng ít
nhất 5-10% các ca nhiễm HIV trên toàn thế giới là do quan hệ tình dục đồng giới nam
[9].
Ở Trung và Đông Âu, tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nam có quan hệ tình dục đồng giới
thường cao hơn nhiều so với cộng đồng dân cư chung. Ở châu Á, nam có quan hệ tình
dục đồng giới bị ảnh hưởng nặng nề bởi HIV. Ước tính tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong
quần thể này ở Phnom Penh, Campuchia là 14%; ở Andrha Pradesh, Ấn Độ là 16%; và
ở Bangkok, Thái Lan lên tới 28%. Hiện vẫn chưa có thông tin về tỷ lệ này ở châu Phi
và những nơi khác trên thế giới, vì nam giới ở những nơi này không tự nhận mình là
đồng tính (gay) hoặc quan hệ với cả hai giới. Trong các hoàn cảnh như trại giam hoặc
doanh trại quân đội, nam giới cũng có thể có quan hệ tình dục với những người nam
giới khác [9].
Dù các “cộng đồng” nam có quan hệ tình dục đồng giới ở các nước khác nhau, và
môi trường họ đang sinh sống cũng khác nhau, nhóm này có thể có nguy cơ lây nhiễm
HIV và mắc các bệnh nhiễm trùng lây qua đường tình dục (STIs). Chương trình và
chính sách liên quan đến HIV không thể bỏ qua nhóm nam có quan hệ tình dục đồng
giới (MSM), đặc biệt khi nhóm này vẫn thường có các mối quan hệ mật thiết với các
nhóm dân cư có nguy cơ lây nhiễm HIV khác hoặc có thể có nguy cơ lây nhiễm HIV
và STIs, như: vợ, bạn tình nữ, nữ mại dâm, con cái của những người nam có quan hệ
tình dục đồng giới bị lây HIV qua mẹ, những người tiêm chích ma túy ở nơi những
người nam có quan hệ tình dục đồng giới tiêm chích ma túy [9].
3.2. Tại Việt Nam
Quan hệ tình dục trong nhóm MSM là quan hệ qua hậu môn do không phải là lối
quan hệ tự nhiên nên nguy cơ rách hậu môn gây nhiễm trùng, lây truyền HIV và các
bệnh có hại cho sức khỏe, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM tại các tỉnh phía nam,
miền trung và miền Bắc lên đến khoảng 20%[7]. MSM ở Việt Nam đa dạng về đặc
tính tình dục, bao gồm 3 nhóm: “Bóng lộ” là nam mặc quần áo nữ và tự thể hiện mình
là nữ. “Bóng kín” là nam mặc quần áo nam và không thể xác định được họ là người
quan hệ tình dục đồng giới. “Nam ẩn” quan hệ tình dục lưỡng giới cả nam và nữ, quan
hệ tình dục với nữ có thể do hấp dẫn với nữ hoặc vì muốn giữ vẻ bên ngoài là người

đàn ông “đích thực”[7]. Qua nhiều nghiên cứu đánh giá cho thấy, đa số MSM có hành
12


vi nguy cơ lây nhiễm HIV, đó là do quan hệ tình dục qua hậu môn không sử dụng bao
cao su hoặc sử dụng bao cao su không thường xuyên. MSM còn tham gia cả hoạt động
mại dâm (cả mua lẫn bán), quan hệ tình dục cả với nữ bán dâm và nam bán dâm.
Mặc dù đồng tính vẫn chưa được quan tâm đầy đủ ở Việt Nam, nhóm hành vi
MSM luôn luôn tồn tại và có những nguy cơ lây nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình
dục. MSM được xếp vào nhóm có nguy cơ cao lây nhiễm HIV/AIDS vì một bộ phận
MSM có nhiều bạn tình và không ý thức đầy đủ về các nguy cơ lây nhiễm để áp dụng
biện pháp an toàn. Những nhóm nguy cơ khác là người tiêm chích ma túy dùng chung
kim tiêm, người mua hoặc bán dâm, người thường xuyên tiếp xúc với vết thương, máu
hoặc dụng cụ y tế mà không đảm bảo an toàn và một số nhóm khác[9].
Tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2007, Hà Nội: lũy tích người nhiễm HIV 13.318
người trong đó có khoảng 1.000 người đồng tính nam. Năm 2006, Viện Vệ sinh Dịch
tễ Trung ương và tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI, Family Health
International) nghiên cứu 397 MSM ở Hà Nội và 393 MSM ở Thành phố Hồ Chí
Minh. Theo kết quả nghiên cứu này, trong tháng gần nhất, 43,7% MSM ở Hà Nội và
70,2% MSM ở Thành phố Hồ Chí Minh đã trả lời là có ít nhất 2 bạn tình và 21,8%
MSM ở Hà Nội và 40,7% MSM ở Thành phố Hồ Chí Minh bán dâm cho ít nhất 2 bạn
tình nam. Trong số những người bán dâm, 44,2% ở Hà Nội và 28,5% ở Thành phố Hồ
Chí Minh không dùng bao cao su trong lần quan hệ gần đây nhất. Khoảng 1/5 MSM ở
cả Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh từng dùng ma túy và 9,2% ở Hà Nội và 3,8% ở
Thành phố Hồ Chí Minh từng tiêm ma túy. Có 9,4% trong mẫu ở Hà Nội và 5,3%
trong mẫu ở Thành phố Hồ Chí Minh có HIV [14].
Những nghiên cứu khác cho thấy trong mẫu MSM được nghiên cứu ở Thành phố
Hồ Chí Minh năm 2005 có 8,0% nhiễm HIV và mẫu MSM ở Khánh Hòa có 0% nhiễm
HIV [2]. Từ tháng 11 năm 2008 đến tháng 2 năm 2009, những MSM vào 5 diễn đàn
internet dành cho người đồng tính nam phổ biến nhất được mời trả lời bảng câu hỏi về

đặc điểm xã hội-nhân khẩu và hành vi tình dục. Có 1453 bảng trả lời phân biệt với đầy
đủ thông tin về hành vi tình dục. Tuổi trung bình là 23, hơn 80% từng học đại học, cao
đẳng. 66,7% tự nhận là người đồng tính nam. 85,4% từng lên mạng để tìm kiếm bạn
trai trong 12 tháng gần nhất. 59% nghĩ rằng họ không có nguy cơ nhiễm HIV. Trong 6
tháng gần nhất, 75,8% từng quan hệ tình dục chỉ với nam và 7,6% cũng từng quan hệ
với nữ. Trong nhóm những người có quan hệ này trong 6 tháng gần đây này, 48% có
nhiều hơn một bạn tình nam và 72,1% có quan hệ hậu môn. Trong số nhóm có quan hệ
hậu môn đó, 40% không dùng bao cao su trong lần quan hệ hậu môn gần nhất. Một kết
luận đáng lo ngại là: mặc dù từng học cao đẳng và đại học, nhiều MSM trẻ dùng

13


internet này vẫn nghĩ rằng họ không có nguy cơ lây bệnh nếu quan hệ với người cùng
giới, và do vậy đã quan hệ tình dục không an toàn.
Kết quả báo cáo nghiên cứu HSS 2011 tại 5 tỉnh cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV trong
nhóm MSM cao ở một số tỉnh như TP Hồ Chí Minh (14%), Hà Nội (6.7%), An Giang
(3%). Hai tỉnh còn lại có tỷ lệ nhiễm HIV tương đối thấp như Hải Dương (1.2%), Đà
Nẵng (0%) [3].
4. Các hành vi nguy cơ trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM)
4.1. Hành vi quan hệ tình dục
Nguy cơ lây nhiễm HIV và STIs thể hiện qua số bạn tình cũng như sự đa dạng
của các loại bạn tình trên nhóm MSM bán dâm cũng đã được nhiều nghiên cứu đề cập.
Nhóm MSM bán dâm không chỉ QHTD với nam mà còn QHTD với nữ. Nói cách
khác, tình dục lưỡng giới ở nhóm MSM bán dâm là khá phổ biến, đồng thời càng
nhiều khách nam giới trong năm qua thì nguy cơ nhiễm HIV và các STIs càng cao.
Một nghiên cứu tại Hoa Kỳ (2008) cho kết quả trong 12 tháng qua số bạn tình
trung bình của MSM bán dâm là 46, trong đó 19% có QHTD không an toàn qua đường
âm đạo hoặc hậu môn.
Trung bình một tuần, nam bán dâm ở Bangladesh tiếp từ 5,6 đến 9,5 khách, tỷ lệ

sử dụng BCS ở mức thấp từ 1,8% đến 9,9% . Số liệu một nghiên cứu tại Nga (2004)
trên 434 nam giới có QHTD đồng giới, trong 96 đối tượng có bán dâm thì trung bình
mỗi đối tượng có 74 bạn tình nam trong đời và có 4,1 bạn tình nam trong 3 tháng qua.
Ngoài ra, trong nhóm MSM bán dâm, do có QHTD vì mục đích kinh tế nên số lượng
bạn tình nam trong tháng qua tăng hơn đáng kể so với nhóm MSM không bán dâm (31
bạn tình so với 4 bạn tình).
Tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu IBBS năm 2012, phần lớn MSM tham gia
nghiên cứu có quan hệ tình dục qua đường hậu môn ở độ tuổi dưới 25 tuổi (86,2%),
chỉ có 7,9% có quan hệ tình dục lần đầu ở độ tuổi từ 25 đến dưới 30 tuổi và 6% ở độ
tuổi từ 30 tuổi trở lên. Tỷ lệ MSM đã có thời gian quan hệ tình dục qua đường hậu
môn trên 3 năm chiếm 46,5%, nhóm từ 3 năm trở xuống chiếm 53,5%. Tuy nhiên,
phân bố theo thời gian đã có quan hệ tình dục qua đường hâu môn trong nhóm này có
sự khác biệt giữa các tỉnh: ở phần lớn các tỉnh, tỷ lệ MSM có thời gian quan hệ tình
dục dưới 3 năm chiếm phần lớn trong số MSM tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ MSM có
thời gian quan hệ tình dục dưới 3 năm cao nhất ở Cần Thơ (71,4%), tiếp đến là Khánh
Hòa (59,3%), Hà Nội (56%), Đà Nẵng (53,4%). Ngược lại, một số tỉnh có tỷ lệ MSM
có thời gian quan hệ tình dục qua đường hậu môn trên 3 năm chiếm tỷ lệ cao như Sóc
Trăng (63,6%), TP. Hồ Chí Minh (50,2%) [2].
14


4.2. Hành vi sử dụng BCS trong QHTD
Có rất nhiều yếu tố dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm MSM qua
đường tình dục. Trước hết là thiếu hiểu biết và nhận thức sai lầm về nguy cơ và cách
dự phòng. Có người cho rằng, quan hệ tình dục đồng giới không có nguy cơ lây nhiễm
HIV, trừ khi bạn tình của họ có sử dụng ma túy hoặc đã từng quan hệ với gái bán dâm.
Mặt khác, còn gặp nhiều rào cản về sử dụng bao cao su. Họ cho rằng, dùng bao cao su
giảm khoái cảm, cỡ to, mùi khó chịu, không có sẵn khi cần, ngại mua và mang sẵn
trong túi, không dám đề nghị bạn tình sử dụng.
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu chuyên sâu về MSM cho thấy tỷ lệ QHTD qua

đường hậu môn không bảo vệ tương đối cao từ 13,0% đến 78,5%. QHTD qua đường
hậu môn là nguy cơ chủ yếu lây truyền HIV và STIs trong nhóm MSM. Số lần QHTD
không bảo vệ (đó là không dùng hoặc dùng không thường xuyên BCS) qua đường hậu
môn làm tăng nguy cơ lây truyền HIV và STIs. Tỷ lệ những người đàn ông có QHTD
qua đường hậu môn thay đổi tùy theo từng nơi và phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó
có yếu tố văn hóa. Ở châu Mỹ La tinh, ước tính một nửa số ca nhiễm HIV trong khu
vực do QHTD qua đường hậu môn không bảo vệ giữa những người đàn ông với
nhau.
Tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu IBBS năm 2012, tỷ lệ MSM dùng bao cao su
với bạn tình nam trong lần quan hệ tình dục gần đây nhất qua đường hậu môn tương
đối thấp, chỉ có 64,3% MSM cho biết có sử dụng bao cao su trong lần quan hệ tình dục
gần đây nhất. Tỷ lệ này có sự khác nhau ở các tỉnh, cao nhất ở Đà Nẵng (85%), tiếp
đến là Kiên Giang (81,7%), Hà Nội (75,5%). Sóc Trăng là tỉnh có tỷ lệ MSM sử dụng
bao cao su trong lần quan hệ tình dục gần đây nhất thấp nhất (chỉ chiếm 30%). So sánh
với năm 2011, tỷ lệ sử dụng bao cao su trong lần quan hệ tình dục gần nhất qua đường
hậu môn với bạn tình nam trong điều tra năm 2012 thấp hơn 9% (tỷ lệ sử dụng bao cao
su trong lần quan hệ tình dục gần nhất năm 2011 là 73,3%). Tỷ lệ này giảm ở các tỉnh
như Đà Nẵng (từ 91% năm 2011 giảm xuống 85% trong năm 2012), TP. Hồ Chí Minh
(từ 68% năm 2011 giảm xuống 85% năm 2012), An Giang (từ 76,5% năm 2011 giảm
xuống 68,3% năm 2012). Hà Nội là tỉnh duy nhất có tỷ lệ này tăng nhẹ (từ 73,3%
tăng lệ còn 75,5%) [3].
Tỷ lệ MSM sử dụng bao cao su thường xuyên khi quan hệ tình dục với tất cả bạn
tình nam trong 1 tháng qua rất thấp (41,1%). Đặc biệt, trong số 13% MSM bán dâm
trong 12 tháng qua chỉ có 31,3% MSM thường xuyên sử dụng bao cao su với khách
hàng nam giới. Sóc Trăng là tỉnh có tỷ lệ MSM bán dâm thường xuyên sử dụng bao
cao su với khách hàng nam thấp nhất (10%), An Giang (18,2%), Kiên Giang (31%),
Cần Thơ (33,3%). So sánh với năm 2011, tỷ lệ MSM bán dâm thường xuyên sử dụng
15



bao cao su khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn với khách hàng giảm từ 57,1%
năm 2011 xuống còn 31,3% năm 2012. Điều này cảnh báo nguy cơ rất lớn về lây
nhiễm HIV trong nhóm này. 4,7% MSM tham gia nghiên cứu cho biết đã từng tiêm
chích ma túy, trong đó 68,5% cho biết có tiêm chích ma túy trong 12 tháng qua [3].
Trong nghiên cứu HSS 2012 cho kết quả, tỷ lệ MSM sử dụng BCS trong lần
QHTD đường hậu môn gần đây nhất với bạn tình nam là 71.3%, cao nhất ở Đà Nẵng
(91%) tiếp đến là An Giang (76.5%), Hà Nội (73.3%), Hải Dương (69.3%), thấp nhất
là TP Hồ Chí Minh (68%). Bên cạnh đó, tỷ lệ MSM báo cáo sử dụng BCS thường
xuyên khi QHTD qua đường hậu môn với bạn tình nam giới trong tháng qua tương đối
thấp (43,3%, dao động từ 17,3% đến 84%). Trong số MSM tham gia nghiên cứu,
27.5% (dao động từ 3% đến 52,7%) có bán dâm trong 12 tháng qua; 8.5% (dao động
từ 0,3% đến 16,7%) có tiêm chính ma túy. Bằng chứng này cho thấy tiềm ẩn nguy cơ
lây nhiễm HIV rất lớn qua đường máu và quan hệ tình dục ở nhóm đặc biệt này[2].
4.3. Hành vi sử dụng chất gây nghiện
Tại Peru (2008), có tới 36,0% MSM bán dâm sử dụng ma túy, chủ yếu là
marijuana và cocain [33]. Nghiên cứu khác tại Pakistan (2011) trên 300 MSM bán
dâm được phỏng vấn thì một nửa sử dụng ma túy, đa số sử dụng cần sa (42,0%), 8,0%
sử dụng heroin, tiêm chích ma túy rất ít.
Tại Córdoba, Argentina năm 2001, 17,2% MSM bán dâm báo cáo sử dụng cần sa
ít nhất mỗi tuần một lần. Ngoài ra còn sử dụng một số loại khác như cocaine,
benzodiazepines, thuốc giảm đau, ecstasy. Không ai trong số những người tham gia
khai báo cáo sử dụng heroin hoặc methadone.
Tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu IBBS năm 2012, tỷ lệ MSM có tiêm chích ma
túy sử dụng bơm kim tiêm sạch trong lần tiêm chích gần nhất tương đối cao (91,7%).
Tỷ lệ này đạt 100% ở các tỉnh Hà Nội, An Giang, thấp nhất là Kiên Giang (75%) [2].
Tuy nhiên, so sánh với kết quả điều tra năm 2011, tỷ lệ MSM có tiêm chích ma túy sử
dụng bơm kim tiêm sạch trong lần tiêm chích gần nhất giảm (từ 97,2% năm 2011 giảm
xuống 91,7% năm 2012). Tỷ lệ này ở TP. Hồ Chí Minh giảm từ 97,2% năm 2011 giảm
xuống 80,6% năm 2012. Ngược lại, ở An Giang tỷ lệ này lại được cải thiện (tăng từ
86,7% năm 2011 lên 100% năm 2012) [2].

Nghiên cứu “Sử dụng chất gây nghiện và nguy cơ trong nhóm nam quan hệ tình
dục đồng giới, mại dâm nam và người chuyển giới tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh” năm 2009 của tác giả Vũ Ngọc Bảo cho thấy việc sử dụng chất gây nghiện là
phổ biến và chiếm khoảng 2/3 số người tham gia nghiên cứu. Các dạng chất gây
nghiện khác nhau được sử dụng bao gồm: heroin, thuốc lắc, đá, Ke (ketamin), bồ
16


đà/tài mà. Đồng thời cũng chỉ ra mối liên kết giữa bán dâm và sử dụng chất gây nghiện
- đặc biệt là tiêm chích heroin [12].
5. Thông tin về địa bàn nghiên cứu
Nằm chếch về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng,
Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' độ kinh Đông,
tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía
Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía
Tây. Diện tích tự nhiên là 3.329 km², tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, dân số Hà
Nội là 7.558.956 người, mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 1.979 người/km² cao
hơn so với mật độ chung toàn quốc. Năm 2014, kinh tế của thủ đô tiếp tục duy trì mức
tăng trưởng khá, ước tính cả năm 2014 tăng 8,8%. Đáng chú ý, tất cả các ngành, lĩnh
vực chủ yếu đều lấy lại đà tăng trưởng: giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng tăng
8,4%, trong đó, riêng xây dựng tăng 9,9%, là mức tăng cao nhất trong 3 năm gần đây;
thị trường bất động sản đã có sự chuyển biến, lượng hàng tồn kho giảm. Giá trị gia tăng
ngành nông nghiệp ước tăng 2%; giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trên diện tích đất
nông nghiệp ước đạt 231 triệu đồng/ha (cao hơn năm trước 4 triệu đồng).[1]
Hà Nội hiện có 12.904 người nghiện và sử dụng ma tuý; xu hướng sử dụng các
loại ma tuý tổng hợp trong giới trẻ có xu hướng gia tăng. Hoạt động mại dâm tuy
không còn công khai nhưng thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó phát hiện và khó xử lý.
Trên toàn Thành phố đã phát hiện mới 982 trường hợp nhiễm HIV; 88 trường hợp tử
vong do AIDS. Tích luỹ đến thời điểm hiện tại, 20.033 người nhiễm HIV/AIDS còn
sống, số bệnh nhân tử vong là 4.683 người…


17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bách khoa toàn thư mở />2.(15). Bộ Y tế và Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung Ương (2012), Kết quả giám sát kết hợp
hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam - Vòng II–2012.
3.(16.) Bộ Y tế và Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung Ương (2012), Báo cáo tóm tắt mở rộng
chương trình thí điểm lồng ghép một số câu hỏi hành vi vào chương trình giám sát
trọng điểm HIV/STI trong các nhóm nguy cơ cao ở Việt Nam năm 2011 (HSS+).
4.(5). Cục phòng chống HIV/AIDS (2014), Báo cáo công tác phòng chống HIV/AIDS
6 tháng đầu năm 2014, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2014 và định hướng
2015.
5.(2.) Cục phòng, chống HIV/AIDS – Bộ Y tế
6.(10.) ISDS (2010) “Tìm hiểu và giảm kỳ thị liên quan đến nhóm nam quan hệ tình
dục đồng giới và HIV”. Bộ công cụ hướng dẫn hành động. Hà Nội.
7.(7.) ISDS (2010) “Tìm hiểu và giảm kỳ thị liên quan đến nhóm nam quan hệ tình dục
đồng giới và HIV”. Bộ công cụ hướng dẫn hành động. Hà Nội.
8.(1.) Nguyễn Thị Phương Hoa - Luận án tiến sỹ Y Tế Công Cộng “Thực trạng và một
số yếu tố ảnh hưởng đến lây nhiễm HIV và một số nhiễm trùng lây qua đường tình dục
ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại Hà Nội 2009-2010”
9.(10.) UNAIDS (2006), HIV và nam giới có quan hệ tình dục đồng giới ở Châu Á Thái Bình Dương.
10.(9.) UNAIDS (2009) “Khung hành động của UNAIDS về Tiếp cận phổ quát đối với
những nam quan hệ tt́nh dục đồng giới và những người chuyển giới”.
11.(13.) Phạm Quỳnh Phương (2013), “Người đồng tính, song tính và chuyển giới ở
Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, tr. 242.
12.(4.) Vũ Ngọc Bảo và Philippe Girault. Đối mặt với sự thật: Tình dục đồng giới nam
(MSM) và HIV/AIDS ở Việt Nam. Nhà xuất bản Thế giới. Hà Nội, 2005.
13.(42.) Vũ Văn Xuân-Luận văn Thạc sĩ Y học: Đặc điểm lây nhiễm ở người nhiễm
HIV/ AIDS và sự quan tâm chăm sóc hỗ trợ, điều trị của cộng đồng tại phòng khám

ngoại trú Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang
14.(8.) FHI tại Việt Nam (2008) “Trao đổi với nam tình dục đồng giới: Các quan điểm
của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV”

18


/> /> /> /> /> />
19



×