Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn sử dụng một số trò chơi vận động dân gian, trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số vào tiết học thể dục và các hoạt động ngoại khóa trong trường THCS dân tộc nội trú huyện quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.33 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT QUAN SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG
DÂN GIAN, TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG CỦA CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ VÀO TIẾT HỌC THỂ DỤC VÀ CÁC
HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA TRONG TRƯỜNG
THCS DÂN TỘC NỘI TRÚ HUYỆN QUAN SƠN

Người thực hiện: Nguyễn Xuân Huy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS – DTNT Quan
Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực: Thể dục

MỤC LỤC
THANH HOÁ, NĂM 2018


I. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................3
5. Những điểm mới trong sáng kiến kinh nghiệm.....................................3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM...................................................5
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm...............................................5
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm...............6


3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề......................................8
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm....................................................16
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ............................................................................18
1. Kết luận.................................................................................................18
2. Kiến nghị...............................................................................................18


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang tiếp tục đổi mới trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế chính trị
văn hoá xã hội với mục tiêu: Tiếp tục sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hoàn thành thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Thể dục thể thao (TDTT) là bộ môn quan trọng của nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa, là một trong những phương tiện để phát triển con người toàn diện,
củng cố và tăng cường sức khoẻ cho nhân dân lao động góp phần nâng cao đời
sống văn hoá, tinh thần cho con người.
Từ khi đất nước mới độc lập Bác Hồ đã nói về vấn đề sức khoẻ của con
người rất sâu sắc và nhất quán: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời
sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi một người dân
mạnh khoẻ tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ. Luyện tập thể dục, bồi bổ
sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”.
Phát triển sức khoẻ con người là một trong những mục đích hàng đầu
trong TDTT của mỗi Quốc gia, mỗi dân tộc. Trong những năm gần đây được sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, xã hội ta đã có một bước chuyển mình mạnh
mẽ. Công cuộc đổi mới đất nước đã làm thay đổi từng ngày từng giờ về các mặt
kinh tế, văn hoá, xã hội, ngoại giao. Trong công cuộc đổi mới cùng với sự phát
triển đó sự nghiệp TDTT nước ta cũng đang dần dần được đổi mới cho phù hợp
và tiến kịp theo với bạn bè năm châu, đặc biệt là các nước trong khu vực và châu
lục.

Như vậy, có thể nói rằng vai trò của TDTT là rất to lớn trong việc củng
cố, giữ gìn và nâng cao sức khoẻ cho mọi người, mọi lứa tuổi khác nhau mà đặc
biệt là thế hệ trẻ - Những người xây dựng, làm chủ và bảo vệ đất nước xã hội
chủ nghĩa trong tương lai.
Mục đích của giáo dục thể chất ở nước ta là: "Bồi dưỡng thế hệ trẻ trở
thành những con người toàn diện, có sức khoẻ dồi dào, có thể lực cường tráng và
có dũng khí kiên cường để tiếp tục sự nghiệp Cách mạng của Đảng và sống một
cuộc sống vui tươi lành mạnh". Để đảm bảo nhiệm vụ to lớn ấy, ngành Giáo dục
- Đào tạo đã phối hợp với các bộ ngành liên quan đưa môn Thể dục là một môn
học bắt buộc cho tất cả các bậc học từ Mầm non đến Đại học.
Nhà trường phổ thông là nơi trang bị những kiến thức văn hóa cơ bản
đồng thời còn thực hiện nhiệm vụ giáo dục thể chất cho các em học sinh. Giáo
dục thể chất trong nhà trường phổ thông góp phần giáo dục đạo đức, xây dựng

1


nhân cách, nâng cao dân trí. Trong giai đoạn hiện nay học tập và giáo dục thể
chất trong nhà trường là điều kiện hết sức cần thiết.
Riêng đối với các em ở lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở (THCS), về vấn
đề nâng cao sức khoẻ để phục vụ cho nhiệm vụ học tập là rất cần thiết. Việc
luyện tập thể dục thường xuyên giúp các em phát triển cân đối về hình thái và
chức năng cơ thể, phát triển toàn diện năng lực thể chất, tăng cường sức khoẻ và
tạo khả năng chống đỡ những tác động có hại của môi trường. Hình thành và
hoàn thiện cho các em những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản. Hình thành thói
quen giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể thường xuyên, giáo dục phẩm chất ý
chí, đồng thời xây dựng niềm tin khát vọng sống lành mạnh trong mỗi học sinh.
Do đó, vai trò của môn học Thể dục ở các trường THCS là vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay các trường THCS ở cả nước có nhiều sự khác biệt,
khác biệt ở chỗ giữa các trường ở nông thôn và thành thị; các trường đồng bằng

và miền núi. Do đó mỗi vùng miền và địa phương (có các cơ sở giáo dục) phải
có nội dung, cách thức, phương pháp giáo dục phù hợp với điều kiện, phong tục
tập quán ở mỗi địa phương đó. Đối với Trường THCS - DTNT cũng như các
trường THCS trên toàn huyện Quan Sơn khác với các trường miền xuôi là trong
mỗi trường, mỗi lớp có đa phần học sinh là người dân tộc thiểu số khác nhau
dẫn đến sự thiếu mạnh rạn kết nối với nhau khi mới vào học chung ở đầu cấp
học, giữa các học sinh trong lớp cũng như trong trường. Để tạo được hứng thú
và mối đoàn kết giữa học sinh các dân tộc trong nhà trường mà vẫn đảm bảo
được lượng vận động trong tiết dạy thể dục và các hoạt động ngoại khóa thì chỉ
có trò chơi vận động mới tạo được sự gần gủi, gắn kết được các em, sẽ giúp giáo
viên giải quyết được vấn đề này. Chính vì lý do đó mà tôi mạnh dạn nghiên cứu
đề tài:
“SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG DÂN GIAN, TRÒ CHƠI
VẬN ĐỘNG CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀO TIẾT HỌC THỂ DỤC
VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ
SỞ DÂN TỘC NỘI TRÚ HUYỆN QUAN SƠN”
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm:
- Tạo sự hứng thú trong tiết học thể dục và các hoạt động ngoại khóa.
- Tạo sự đoàn kết, hiểu biết và gắn kết các học sinh trong lớp và trong
trường góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.
- Giúp học sinh biết chơi các trò chơi và liên hệ thực tế tại địa phương
mình.

2


2.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện đề tài này nhiệm vụ được đặt ra cần giải quyết là:

- Điều tra thực trạng học sinh.
- Thực nghiệm vận dụng trong giảng dạy và hoạt động.
- Đánh giá kết quả.
3. Đối tượng nghiên cứu
Áp dụng, lồng ghép các trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận động
của các dân tộc thiểu số như: (Thái, H’ Mông, Mường...). Vào các tiết học thể
dục và các hoạt động ngoại khóa trong trường THCS – DTNT Quan Sơn. Qua
đó năng cao chất lượng giáo dục, sự hiểu biết ham thích và tinh thần đoàn kết
của học sinh giữa các dân tộc anh, em. Thực hiện nhiệm vụ "giáo dục truyền
thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, niềm tự hào về việc
giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, ... tôn vinh bản sắc văn hoá
dân tộc".
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu mà người ta đưa vào
quá trình giảng dạy - huấn luyện những nhân tố mới được nghiên cứu và làm
sáng tỏ tính ưu việt của chúng so với những nhân tố khác.
Nhân tố mới của đề tài nghiên cứu là: Đưa trò chơi vận động dân gian và
trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số vào tiết học thể dục và các hoạt động
ngoại khóa trong nhà trường.
4.2. Phương pháp phỏng vấn:
Phỏng vấn nhằm thu thập thông tin thông qua hỏi - trả lời, giữa giáo viên
và các học sinh khác nhau về vấn đề nghiên cứu.
4.3. Phương pháp toán học thống kế, xử lý số liệu:
- Để xử lý các số liệu của quá trình nghiên cứu.
- Sử dụng toán học thống kê để tính tỷ lệ % kết quả kiểm tra.
5. Những điểm mới của SKKN
Đề tài nghiên cứu này đã được tôi nghiên cứu trước đây hai năm khi đang
còn công tác tại trường THCS Sơn Lư là một trường chỉ có các học sinh chủ yếu
là 2 dân tộc đó là dân tộc Thái, Mường chiếm khoảng trên 65% học sinh toàn

trường. Từ tháng 01/2017 tôi đã chuyển công tác về trường THCS - DTNT là
trường có trên 95% học sinh là người dân tộc như: Thái, Mường, H ’Mông, các
trò chơi vận động đưa vào sáng kiến đa số cũng là những trò chơi của ba dân tộc
này. Bản thân được phân công vừa trực tiếp dạy môn Thể dục vừa làm Tổng phụ
trách đội thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoai khóa cho học sinh. Đa số

3


học sinh của trường xa nhà ở các xã trong toàn huyện tập trung về học các em
phải ở lại kí túc xá nhà trường, một tháng mới được nghỉ về nhà một lần thời
gian ở trường nhiều, nên ngoài các buổi học chính khóa cần phải tổ chức các
hoạt động ngoại khóa để các em đỡ buồn chán, tránh xa được các tệ nạn xã hội,
rèn luyện sức khỏe, được biết và tham gia các trò chơi vận động của dân tộc
cùng các bạn khác tăng sự giao lưu học hỏi, tinh thần đoàn kết cùng giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ hơn trong học tập. Vì vậy tôi tiếp tục nghiên cứu, phát triển
thêm đề tài: “Sử dụng một số trò chơi vận động dân gian, trò chơi vận động của
các dân tộc thiểu số vào tiết học thể dục và các hoạt động ngoại khóa trong
Trường trung học cơ sở dân tộc nội trú Huyện Quan Sơn”.

4


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG DÂN GIAN, TRÒ CHƠI
VẬN ĐỘNG CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀO TIẾT HỌC THỂ DỤC
VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ
SỞ DÂN TỘC NỘI TRÚ HUYỆN QUAN SƠN”
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
1.1.Trò chơi:

Trò chơi là: “Hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí”. Trong cuộc sống, ở
lứa tuổi nào con người cũng cần được vui chơi. Trò chơi là một hoạt động tự
nhiên và cần thiết nhằm thỏa mãn những nhu cầu (giao lưu, giải trí, vận động,
nhận thức, giáo dục, v.v...), đa dạng của con người. Xét về mặt hình thức, vui
chơi có khi thoải mái, không câu nệ vào luật lệ, quy định, cấu trúc chặt chẽ, chế
ước giữa các thành viên. Và ngược lại, có khi phải “giao ước” với nhau thế này
thế nọ, không được “phá luật”, nếu không thì “cuộc chơi” sẽ tan vỡ. Đó là
trường hợp “trò chơi”. Như vậy, đã gọi là “trò chơi” thì phải tiến hành có “các
bước” nhất định, có “quy ước” hay “luật” bất thành văn, phải tuân theo “đạt” thì
“thắng” (được), không “đạt” thì “thua” (không được). Nếu không theo những “lệ
luật” đó thì các thành viên sẽ “không chơi nữa”, trò chơi “phá sản”. Mục đích
của trò chơi không đạt được.
1.2. Trò chơi “dân gian”:
Trò chơi ngày nay của trẻ em có loại do người lớn tổ chức, hướng dẫn
(như trường hợp các trò chơi của học sinh ở trường mẫu giáo hay tiểu học); có
loại do các em tự tổ chức vui chơi với nhau (trong nhà, ngoài sân, ngõ xóm, sân
đình, bãi cỏ, sân trường, v.v...). Trước đây, trẻ em chơi những trò chơi được lưu
truyền từ ông bà, cha mẹ, anh chị; tức là lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác; từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Cách thức lưu truyền là thế hệ trước
“truyền dạy” và thế hệ sau “học - bắt chước”. Và mỗi thế hệ lại “bổ sung, sáng
tạo thêm” những yếu tố mới vào các trò chơi đó cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh, sở thích, nhu cầu, nguyện vọng, môi trường sống mới. Nguồn gốc của trò
chơi có thể do người lớn “nghĩ ra”; cũng có thể hoàn toàn do các em “sáng tạo
ra”. Rồi ngày một “hoàn thiện”. Tóm lại, đây là những trò chơi “dân gian”, đồng
sáng tạo của một cộng đồng người, trải qua nhiều lớp người.
1.3.Trò chơi vận động:
Là một hoạt động của con người, nó được cấu thành bởi 2 yếu tố:
- Vui chơi giải trí, thoả mãn nhu cầu về mặt tinh thần.

5



- Giáo dục, giáo dưỡng thể chất (góp phần giáo dục đạo đức, ý chí, hình
thành và phát triển các tố chất, kỹ năng, kỹ sảo cần thiết trong cuộc sống).
Trò chơi vận động là một phương tiện hỗ trợ cho việc phát triển các tố
chất sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự khéo léo, hỗ trợ trực tiếp cho các môn thể
thao, làm rút ngắn quá trình hình thành và phát triển kỹ năng, kỹ xảo vận động
cần thiết cho một môn thể thao nhất định.
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi Trung học cơ sở ở miền núi:
Học sinh miền núi luôn có tính thẳng thắn, thật thà và tự trọng. Các em
học sinh miền núi có khi không vừa ý thường tỏ thái độ ngay. Đặc điểm thẳng
thắn và thật thà cộng với khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn hạn chế,
có những lúc làm cho giáo viên nếu mới vào nghề sẽ thấy “Bất ngờ” hay “Nóng
mặt”; nếu như giáo viên thiếu am hiểu tường tận và thông cảm sâu sắc thì dễ kết
luận đó là những hành vi “Thiếu lễ độ”. Vì vậy, giáo viên cần nắm vững đặc
điểm này, thận trọng suy xét trong quá trình đánh giá phẩm chất đạo đức của
từng em. Các em học sinh miền núi thường có lòng tự trọng cao, nếu các em gặp
phải những lời phê bình nặng nề, gay gắt hoặc khi kết quả học tập kém, bị dư
luận bạn bè chê cười,... các em dễ xa lánh thầy cô giáo và bạn bè hoặc bỏ học.
Nếu giáo viên không hiểu rõ thì có thể cho rằng các em hay tự ti. Từ đó giáo
viên thiếu nhiệt tình cần thiết để tìm ra phương hướng và biện pháp giải quyết
những vướng mắc của các em.
Thực tiễn có tác dụng thuyết phục rất lớn đối với các em. Các em sống rất
thực tế, những điển hình gần gũi đều có tác dụng thuyết phục rất lớn. Trong các
tiết lên lớp, những vấn đề kiến thức có liên hệ thực tế đến bản thân học sinh thì
sẽ sôi nổi và hiệu quả. Do đó giáo viên cần lưu ý việc nêu gương những điển
hình tốt của học sinh trong lớp, trong trường về mọi mặt như trung thực, đoàn
kết, giúp đỡ mọi người, vượt qua mọi khó khăn để đến lớp,... Đó là những minh
chứng cụ thể nhằm dần dần hình thành cho các em những biểu tượng và khái
niệm về phẩm chất đạo đức tốt, đồng thời khắc phục dần những tàn dư lạc hậu

cũ rơi rớt trong nhận thức của một số em.Và đặc biệt là những bất đồng trong
một lớp nói riêng hay trong trường nói chung giữa các em khác dân tộc thiểu số
với nhau.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong những năm qua ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Quan Sơn đã
tích cực hưởng ứng, tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” và đạt được một số kết quả bước đầu, một số nội
dung trong phong trào thi đua đã đạt được kết quả tốt; tuy nhiên, việc thực hiện
5 nội dung của phong trào thi đua nói chung, đặc biệt việc tổ chức các trò chơi

6


dân gian trong các cơ sở giáo dục hiện nay còn nhiều hạn chế. Để tiếp tục thực
hiện hiệu quả phong trào thi đua góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện trong các trường học, đáp ứng yêu cầu “Đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục Việt Nam” trong giai đoạn tới, việc tổ chức các trò chơi dân gian trong
trường học là cần thiết và phải được duy trì thường xuyên. Để đưa trò chơi dân
gian và trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số vào trường học có hiệu quả,
vấn đề đặt ra đối với các nhà lãnh đạo, quản lý giáo dục, các thầy, cô giáo các
trường học cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục đích của trò
chơi dân gian, trò chơi của các dân tộc thiểu số; thực hiện hiệu quả việc khai
thác và phương pháp tổ chức trò chơi dân gian trò chơi vận động của các dân tộc
thiểu số; phân loại, lựa chọn trò chơi cho phù hợp tâm lý lứa tuổi và mục tiêu
đào tạo học sinh từng cấp học; việc bố trí thời lượng tổ chức các trò chơi; công
tác bồi dưỡng, tập huấn,... nhằm mang lại hiệu quả cao nhất việc hình thành và
phát triển nhân cách cho học sinh đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực có
chất lượng phục vụ đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên thực tế tại địa phương tôi đang công tác tại trường THCS - DTNT
huyện Quan Sơn Tỉnh Thanh Hóa là Huyện miền núi có 4 dân tộc anh em chung

sống là: Thái, H’Mông, Mường, Kinh. Địa phương đã tổ chức các phong trào
văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao và các lễ hội có các trò chơi vận động dân
gian và các dân tộc anh em trên địa phương. Nhưng số lần tổ chưc trong mỗi
một năm còn ít chủ yếu được tổ chức vào các dịp lễ hội trong năm, số lượng học
sinh Trung học cơ sở được tham gia còn hạn chế.
Đối với Trường THCS - DTNT Huyện Quan Sơn các em học sinh là
người dân tộc như: Thái, HMông, Mường chiếm 95% tổng số học sinh toàn
trường các hoạt động giáo dục có đưa các trò chơi dân gian và trò chơi vận động
của các dân tộc thiểu số cũng chưa phổ biến nhiều, chỉ có số ít các em tự chơi
theo nhóm chung dân tộc.
Đối với chương trình bộ môn Thể dục lượng thời gian giành cho trò chơi
nhiều nhưng số lượng trò chơi trong quy định còn hạn chế, không có trò chơi
vận động dân gian và trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số.
Khi xây dựng đề tài này tôi đã tìm hiểu nhận biết của học sinh qua phỏng
vấn, khảo sát và đề ra một số tiêu chí của 40 học sinh là người dân tộc (chọn
ngẫu nhiên) về các trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận động của các dân
tộc thiểu số ở địa phương mình công tác như sau:

7


Bảng 1:
Nội dung phỏng vấn
và khảo sát
Ham thích trò chơi vận động
dân gian và trò chơi vận động
của các dân tộc thiểu số
Hiểu biết về trò chơi vận động
dân gian và trò chơi vận động
của các dân tộc thiểu số

Mạnh dạn tự tin tham gia hoạt
động trò chơi
Thể hiện tinh thần đoàn kết
Biết tự tổ chức trò chơi đã được
tham gia
Sáng tạo trong khi chơi trò chơi
Kết quả học tập môn thể dục

Số lượng
tích cực
(đạt)

Số lượng chưa
tích cực
(chưa đạt)

18/40 (45,0%)

22/40 (55,0%)

13/40 (32,5%)

27/40 (67,5%)

10/40 (25,0%)
12/40 (30,0%)
10/40 (25,0%)

Ghi chú


30/40 (75,0%)
28/40 (70,0%)
30/40 (75,0%)

9/40 (22,5%)

31/40 (77,5%)

25/40 (62,5%)

15/40 (37,5%)

Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực trạng trên có thể xác định hiệu
quả của việc giảng dạy sử dụng các trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận
động của các dân tộc thiểu số trong công tác giáo dục học sinh phát triển toàn
diện.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
a. Quy trình thực hiện:
* Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi, trò chơi của
dân tộc nào.
* Bước 2: Hướng dẫn chơi: Bước này bao gồm những việc làm sau:
- Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia phải tương xứng
giữa nam, nữ 1 đội phải có đầy đủ học sinh các dân tộc có trong lớp, số đội tham
gia (mấy đội chơi), quản trò, trọng tài.
- Các dụng cụ dùng để chơi.
- Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian
chơi, những điều người chơi không được làm…
- Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, cách giải của cuộc chơi
(nếu có).
* Bước 3: Thực hiện trò chơi.

8


* Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm
sau:
- Giáo viên hoặc trọng tài là học sinh nhận xét về thái độ tham gia trò chơi
của từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm.
+ Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần
thưởng cho đội đoạt giải.
+ Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể
hiện.
b. Lựa chọn một số các trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận
động của các dân tộc thiểu số tại địa phương để đưa vào tiết dạy môn Thể
dục và các hoạt động ngoại khóa trong nhà trường
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tôi đã tìm hiểu, tham khảo và lựa chọn
được một số trò chơi phù hợp với việc luyện tập thể lực cũng như việc rèn luyện
đạo đức, tinh thần đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau của học sinh các dân tộc như sau:
*Trò chơi 1: “Rồng ấp trứng” là trò chơi dân gian truyền thống của dân
tộc H’ Mông.
- Mục đích:
Đây là trò chơi thể hiện sức khỏe, sự khéo léo, nhanh trí, thông minh của
người cướp trứng và sự nhanh nhẹn, dẻo dai của người giữ trứng.
- Chuẩn bị: Mỗi đội tham gia chơi Rồng ấp trứng có 4 người.
Trước khi bước vào trò chơi, cần có một bãi đất bằng phẳng, rộng rãi và
sạch sẽ để vẽ vòng ấp trứng. Đường kính vòng ấp trứng khoảng 2 mét, vòng
cướp trứng bao bọc lấy vòng ấp có đường kính lớn hơn cỡ khoảng 5 mét. Tâm
vòng ấp trứng đường kính 0,5m.
Trứng là những hòn sỏi to, thậm chí bằng đá được bà con mài dũa nhẵn
nhụi to hơn quả trứng gà, 6 quả trứng như vậy được đặt trong tâm vòng ấp
trứng.

- Cách chơi: Trò chơi chia làm hai đội. Trong đó, đội một có nhiệm vụ cử
một người “giữ trứng”.
Với nhiệm vụ “đặc biệt quan trọng” này, đòi hỏi người giữ trứng phải lực
lưỡng, nhanh nhẹn. Có như thế, họ mới đảm trách được sự tấn công hung hãn
của những "kẻ thù" muốn xâm hại ổ trứng. Với trò chơi này, người giữ trứng
luôn ở thế hai tay chống xuống đất hai chân choài phía sau trong vòng tròn 2
mét, bụng gần như úp lên trứng và đánh trả người cướp trứng bằng chân trong
vòng tròn 2 mét. Tuy nhiên, luật chơi quy định người giữ trứng không được đá
vào mặt người cướp trứng, cũng như không được dùng tay đánh trả người cướp
trứng.

9


Trong khi đội một là người giữ trứng thì đội hai cử ba người cướp trứng.
Theo quy định mỗi lần cướp chỉ được 01 quả. Quá trình cướp trứng, người cướp
có thể tránh sự đánh trả của người ấp trứng. Họ đứng ở ngoài vòng tròn 5m để
chạy vào vòng tròn 2m cướp trứng.
Nếu người cướp trứng bị người ấp trứng đánh trúng hoặc chạm vào bất kỳ
bộ phận nào của cơ thể thì người đó bị loại khỏi cuộc chơi.
Sau khi đội 2 thua, phải cử người giữ trứng; đội một cử người cướp trứng,
trò chơi cứ thế diễn ra, 2 đội đổi nhau luân phiên, người nào cũng được giữ
trứng và cướp trứng.
Theo luật chơi, tổng số trứng cướp được từ 04 quả trở lên trong thời gian
03 phút thì đội đó thắng hiệp.
Đây là một môn thể thao, một trò chơi dân gian truyền thống hiện vẫn
được bảo tồn, phát huy trong các thôn bản, xã, huyện.
Sau hết 1 lượt 8 hiệp, đội nào có nhiều hiệp thắng hơn thì thắng cuộc và
đội thua phải cõng đội thắng đi 1 vòng quanh sân, hoặc đội thua phải chịu úp
bụng chống đẩy 10 lần hoặc nhiều hơn tùy theo quy định từ ban đầu của hai đội

tham gia chơi.
* Trò chơi 2: “Tó má lẹ” là trò chơi dân gian truyền thống của dân tộc
Thái. Tó má lẹ theo tiếng Thái có nghĩa là đánh (hoặc chơi) má lẹ. Má lẹ là tên
một loại quả rừng có vỏ cứng, tròn và dẹt như hình chiếc bánh giầy nhỏ. Trò
chơi Tó má lẹ đơn giản, tất cả mọi người đều có thể tham gia.
- Mục đích: Đây là một trò chơi thể hiện sự khéo léo, chính xác, bình tĩnh
của người chơi.
- Chuẩn bị: Người ta dùng những quả má lẹ đã được mài bằng một cạnh
để dựng lên trên sân chơi gọi là Cái. Những quả má lẹ còn nguyên hình tròn
được dùng làm Con, dùng để đánh vào Cái. Để chơi trò này, chỉ cần một bãi đất
nhỏ. Chơi trò này, ít nhất cần có 2 người, chia ra làm 2 đội. Nếu càng đông
người thì trò chơi càng vui. Trò chơi Tó má lẹ có luật chơi đơn giản, trên sân
người ta kẻ ra 3 vạch. Vạch thứ nhất - vạch xuất phát được kẻ ở đầu sân là chỗ
đứng của người chơi. Vạch thứ 2 là vạch để người chơi đánh dấu điểm đánh và
đặt Cái. Vạch thứ 3 (vạch đánh) ở giữa vạch thứ nhất và vạch thứ 2, khoảng
cách từ vạch đánh đến điểm đánh tùy vào khả năng của các đội chơi.
- Cách chơi: Tó má lẹ có nhiều bước chơi nhưng thông thường người ta
chơi theo 5 bước:
+ Bước thứ nhất người chơi đặt má lẹ lên đầu gối, dùng ngón cái bật má lẹ
sao cho trúng má lẹ đội bạn và bay đến đích hoặc quá đích theo quy định.

10


+ Bước thứ hai người chơi đúng ở vạch quy định tung má lẹ về phía hàng
má lẹ đội bạn, má lẹ dừng ở điểm nào, lấy điểm đó làm điểm để đánh.
+ Bước thứ ba người chơi dùng tay búng má lẹ từ điểm đánh sao cho
trúng má lẹ Cái của đội bạn.
+ Bước thứ tư, đặt má lẹ lên mu bàn chân, vừa nhảy vừa dùng chân đánh
má lẹ sao cho má lẹ bắn vào má lẹ đội bạn.

+ Bước cuối cùng người đánh tung má lẹ đánh dấu vạch đánh, rồi từ vạch
đánh dùng má lẹ của mình đánh cho trúng má lẹ đội bạn. Người nào, đội nào
vượt qua được cả năm bước chơi trên sẽ thắng cuộc.
* Trò chơi 3: “Ném còn” là trò chơi truyền thống của dân tộc Tày, Thái,
Mường.
- Mục đích: Đây là một trò chơi thể hiện sự khéo léo, chính xác, bình tĩnh
của người chơi.
- Chuẩn bị: Cần 5-10 quả còn nhỏ, quả còn được khâu bằng vải, hình
tròn hay hình vuông bên trong bỏ cát hay vật liệu tùy theo… để tạo trọng lượng
khi tung , bên trong chứa khoảng 200gr. Quả còn có gắn dây quay, trọng lượng,
kích thước không quy định hình dáng tùy theo bản sắc từng dân tộc. Sân là bãi
cỏ bằng phẳng, chiều dài tối thiểu 30m, chiều rộng 10m. Cột đỡ vòng tròn để
tung còn cao 8-10 (tùy theo độ tuổi, thể hình người chơi có thể làm thấp hơn).
Được cố định thẳng đứng với mặt sân. Vòng tung còn làm bằng tre, luồng hay
mây hoặc có thể bằng sắt có viền tua bằng vải màu, chắc chắn không đung đưa,
gắn trên đỉnh cột, đường kính 70-100 cm tùy theo điều lệ giải lễ, hội tổ chức quy
định.
- Cách chơi: Người chơi được chia làm hai nhóm đứng đối diên nhau,
cách cột khoảng 7m trở lên (tùy theo đối tượng người chơi). Mỗi nhóm cử từng
người lần lượt ném quả còn, sao cho quả còn chui qua vòng treo trên ngọn cây là
được điểm. Khi ném, người chơi cầm dây quay trái còn lấy đà, nhắm kĩ và ném.
Bên đối phương sẽ bắt còn của đội bạn ném qua nếu bắt được cũng tính điểm.
Sau khi có còn trong tay bên đối phương ném còn qua vòng để lấy điểm. Đội
nào được nhiều điểm, đội đó thắng cuộc.
* Trò chơi 4: “Cướp cờ”
- Mục đích: Đây là một trò chơi thể hiện sự khéo léo, chính xác, bình tĩnh
của người chơi. Đây là trò chơi không cầu kỳ chuẩn bị, phù hợp với nhiều đối
tương vì nó dễ chơi dễ tổ chức sân bãi chơi không cần rộng. Học sinh có thể
chơi ở trường, ở nhà và nơi có sân chơi phù hợp là có thể chơi.
- Chuẩn bị:

+ Một cái khăn bất kì tượng trưng cho cờ.

11


+ Một vòng tròn.
+ Vạch xuất phát củng là đích của 2 đội.
+ Quản trò (trọng tài) chia tập thể chơi thành hai đội, có số lượng bằng
nhau mỗi đội có từ 5 - 6 bạn, đứng hàng ngang ở vạp xuất phát của đội mình.
Đếm theo số thứ tự 1,2,3,4,5… các bạn phải nhớ số của mình.
+ Khi quản trò (trọng tài) gọi tới số nào thì số đó của hai đội nhanh chóng
chạy đến vòng và cướp cờ.
+ Khi quản trò gọi số nào về thì số đó phải về.
+ Một lúc quản trò có thể gọi hai ba bốn số.
- Cách chơi:
+ Khi đang cầm cờ nếu bị bạn vỗ, chạm tay vào người thì bị thua cuộc.
+ Khi lấy được cờ chạy về vạch xuất phát của đội mình không bị đội bạn
vỗ, chạm tay vào người thì thắng cuộc.
+ Khi có nguy cơ bị vỗ vào người thì được phép bỏ cờ xuống đất để tránh
bị thua.
+ Số nào vỗ, chạm số đó không được vỗ, chạm vào số khác. Nếu bị số
khác vỗ, chạm vào thì không bị thua.
+ Số nào bị thua rồi “bị chết” quản trò (trọng tài) không gọi số đó chơi
nữa.
+ Người chơi không được ôm, giữ nhau cho bạn cướp cờ.
+ Người chơi tìm cách lừa đối phương để mang cờ về, lựa chọn sân bải
phù hợp để tránh nguy cơ, cờ ra khỏi vòng tròn, để cờ lại vòng tròn chỉ được
cướp cờ trong vòng tròn.
+ Khoảng cách cờ (vòng tròn để cờ) đến hai đội bằng nhau.
*Trò chơi 5: “Đẩy gậy”

- Mục đích: Đẩy gậy vừa là trò chơi dân gian, vừa là môn thể thao truyền
thống, thường được tổ chức vào dịp đầu xuân, trong những ngày Tết, ngày Hội
văn hoá - thể thao…Vào những dịp này, Đẩy gậy đã tạo nên vẻ đẹp mang đậm
màu sắc dân tộc và là hình ảnh đặc trưng của lễ hội miền núi. Môn thể thao này
phù hợp với tố chất của đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó góp phần đẩy mạnh
phong trào TDTT, làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần ở thôn - bản,
đối với học sinh tham gia tập luyện, chơi môn đẩy gậy tăng cường sức khỏe, ý
chí, sự quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách. Ở đâu có đồng bào dân tộc thiểu
số sinh sống thì ở đó - môn thể thao này được phát triển mạnh hơn.
- Chuẩn bị: Để tổ chức thi đấu môn Đẩy gậy chỉ cần có gậy thi đấu làm
bằng tre già (tre đực) thẳng hay những thanh gỗ tốt có chiều dài 2m, đường kính
từ 4- 5cm, được sơn 2 màu đỏ và trắng (mỗi màu 1m); đầu và thân gậy phải

12


được bào nhẵn và có đường kính bằng nhau. Sân thi đấu là một vòng tròn có
đường kính 5m, vạch giới hạn rộng 5 cm nằm trong phạm vi của sân có mầu
trắng hoặc khác với màu nền sân!
- Cách chơi: Sau khi các VĐV đã hoàn tất thủ tục chuẩn bị thi đấu, trọng
tài chính dùng khẩu lệnh “cầm gậy”, các VĐV mới được phép cầm gậy theo quy
định của luật; trọng tài chính một tay cầm chính giữa gậy, khi các VĐV đã ở tư
thế sẵn sàng, đúng luật, hô dự lệnh “chuẩn bị”, sau đó thổi một hồi còi phát lệnh
cho hiệp đấu bắt đầu, đồng thời buông tay cầm gậy ra. Theo quy định luật chơi,
bên nào chân chạm vào vạch hoặc bị đẩy ra khỏi vòng tròn trước là thua cuộc.
Mỗi cuộc thi đẩy gậy thường diễn ra trong 2 - 3 hiệp. Khi kết thúc trận đấu,
trọng tài chính và 2 VĐV mặt hướng về BTC, trọng tài chính hai tay cầm tay 2
VĐV, giơ tay VĐV thắng cuộc lên cao, sau đó các VĐV rời sân.
Đẩy gậy là môn thể thao cần đến sức khoẻ và sự khéo léo của VĐV. Tuy
cần nhiều sức mạnh nhưng để thắng được đối thủ, người chơi cũng cần có

kỹ - chiến thuật, sự khéo léo, dẻo dai và tâm lý thi đấu ổn định. Đã có không ít
những VĐV “thấp bé nhẹ cân” mà thắng được nhiều đối thủ “to con” hơn mình!
Người chơi “cao thủ” là người luôn giữ được bình tĩnh, ghìm đầu gậy bên phần
mình xuống và đẩy đầu gậy của đối phương lên cao để tạo đà cho mình có cơ
hội chiến thắng đối phương. Có những cuộc đẩy gậy giữa những “cao thủ”
ngang tài, ngang sức, giằng co không phân thắng bại. Lại có những cặp chỉ ngay
sau cái phất tay của trọng tài, đấu thủ đã bay vèo ra khỏi vòng, khiến người xem
càng cảm thấy thích thú. Không chỉ những người trực tiếp tham gia chơi mà
ngay chính khán giả cũng có những diễn biến tâm trạng theo từng hiệp đấu, lúc
thì xuýt xoa tiếc rẻ, lúc lại reo lên sảng khoái, xen lẫn tiếng trống khi đổ dồn
dập… Nhưng thắng - thua cũng chỉ là góp vui cho ngày hội! Sau cuộc đấu các
đối thủ lại khoác tay nhau, cùng nâng chén rượu, tấm tắc khen tài nhau, nhiều
khi nhờ đó mà thêm bạn, thêm bè…
Hiện nay, không chỉ dừng lại ở trò chơi môn Đẩy gậy đã được đưa vào thi
đấu mang tính chuyên nghiệp trong các cuộc thi thể thao. Là một môn thể thao
dân tộc được phát triển trong thời gian gần đây, Đẩy gậy đã chính thức là một
trong số 40 môn thể thao nằm trong hệ thống thi đấu của Đại hội TDTT toàn
quốc lần thứ VI - năm 2010, là môn thể thao đưa vào thi đấu tại hội khỏe phù
đổng Tỉnh lần thứ IX năm 2015 và hội khỏe phù đổng toàn Quốc lần thứ IX năm
2016, đánh dấu bước ngoặt phát triển cho môn thể thao dân tộc này!
*Trò chơi 6: “Kéo co”
- Mục đích: Trò chơi kéo co ở mỗi nơi có những lối chơi khác nhau,
nhưng bao giờ số người chơi cũng chia làm hai phe, mỗi phe cùng dùng sức

13


mạnh ý chí, kỹ thuật, tinh thần đoàn kết để kéo cho được bên kia ngã về phía
mình và giành chiến thắng.
- Chuẩn bị: Có khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ. Trong

trường hợp bên nam bên nữ, dân làng thường chọn những trai gái chưa vợ chưa
chồng.
Một cột trụ để ở giữa sân chơi, có dây thừng buộc dài hay dây song, dây tre hoặc
cây tre, thường dài khoảng 20m căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau nắm lấy
dây thừng để kéo. Một vị chức sắc, bô lão hay trọng tài cầm trịch ra hiệu lệnh (ở
các hội làng).
Hiện nay thường sử dụng dây thừng to chia 2 đội để kéo có vạch ở giữa
sân, có thể chia 2 đội theo số lượng người bằng nhau hoặc chia 2 đội theo cân
năng tương đương nhau để kéo.
- Cách chơi: Hai bên ra sức kéo, sao cho cột trụ kéo về bên mình là
thắng. Bên ngoài dân làng cổ vũ hai bên bằng tiếng “dô ta”, “cố lên”.
Có nơi người ta lấy tay người, sức người trực tiếp kéo co. Hai người đứng
đầu hai bên nắm lấy tay nhau, còn các người sau ôm bụng người trước mà kéo.
Đang giữa cuộc, một người bên nào bị đứt dây là thua bên kia. Kéo co cũng kéo
ba keo.
Hiện nay kéo co cũng đã đưa vào các cuộc thi ở các xã, huyện, tỉnh.
Không đơn thuần giành cho người lớn mà lứa tuổi học sinh cũng được tham gia
và tập luyện. Tổ chức chơi trong các giờ học, hoạt động ngoại khóa hoặc thi đấu
vào các dịp lễ, Tết, các dịp kỷ niệm trong năm.
*Trò chơi 7: “Đi cà kheo”
- Mục đích: Đi cà kheo không chỉ là trò chơi mà còn được tổ chức như lễ
hội thi biểu diễn cà kheo như: làm xiếc, múa rồng, nhào lộn xà đơn, xà kép, đấu
võ, đấu kiếm, khiêu vũ, đá bóng…
- Chuẩn bị: Trong trò chơi người ta dùng 2 cây tre già và chắc, dài từ 2m
trở lên. Độ cao của bệ đặt chân cách mặt đất khoảng 1,5m, cột 2 cái khấc cũng
bằng tre làm bàn đạp để đứng lên đó đi thay chân, hai tay bám chắc vào thân cây
tre tạo thế cân bằng. Chỗ đặt bàn chân do chịu cả lực đẩy và trọng lượng của cơ
thể nên chọn được một bộ cà kheo ưng ý để đi thi đấu phải mất rất nhiều công
phu.
- Cách chơi: Trò chơi này thường được chơi ở, sân đất, sân đình, bãi biển.

Người chơi có thể chia làm hai đội để thi đấu với nhau (ví dụ thi chạy…). Cây
cà kheo được làm bằng tre, độ cao của bệ đặt chân cách mặt đất khá cao khoảng
1,5m – 2m. Mỗi người sẽ đi trên cây cà kheo để thi đấu.

14


Nếu ai ngã khi đang thi đấu hoặc không kịp thời gian thi đấu thì bị phạt
theo quy định của cuộc chơi.
Đây là trò chơi tập thể, thường được chơi ở các sân đất, sân đình hay bãi
biển trong các dịp lễ hội trong năm, chủ yếu dành cho các bạn nam nữ thanh
niên tham gia. Để đi được trên cà kheo đòi hỏi người chơi phải lấy được thế cân
bằng, có bước đi chính xác, sức khoẻ tốt và phải khéo léo kết hợp nhịp nhàng cả
chân lẫn tay.
Trong cuộc thi tuỳ theo độ cao của cà kheo để trọng tài phân cấp người
thi. Người chơi thường chia làm hai đội để thi đấu với nhau. Trước khi chơi,
trọng tài thường đề ra luật chơi nếu ai ngã khi đang thi đấu hoặc không kịp thời
gian thi đấu thì bị phạt theo quy định của cuộc chơi. Đi cà kheo thường có các
kiểu thi như thi đi bộ, thi chạy. Các vận động viên phải thi đấu qua các nội dung
như đi nhanh, đi vào chỗ khó, chỗ gập ghềnh hoặc ruộng nước và thi đẩy nhau.
Cuộc thi thường tạo được tiếng cười sảng khoái cho cả người chơi và khán giả
bởi những tình tiết lý thú của các môn thi. Sau khi chọn được đội thắng cuộc, họ
sang các thôn, làng, bản khác để thi tiếp.
*Trò chơi 8: “Bịt mắt bắt dê”
- Mục đích: Trẻ hay học sinh từ 6 đến 15 tuổi hay chơi trò bịt mắt bắt dê.
Một người xung phong để mọi người bịt mắt lại bằng một chiếc khăn để không
nhìn thấy, những người còn lại đứng thành vòng tròn quanh người bị bịt mắt,
người bị bịt mắt cần tập chung cao độ, sử dụng tai nghe để phán đoán, để “bắt
dê”.
- Chuẩn bị: Một cái khăn để bịt mắt người chơi. Một vòng tròn rộng,

hoặc chơi ở sân trường. Đánh dấu tâm giữa vòng tròn cũng là vị trí đứng của
người bị bịt mắt. Cử một học sinh làm trọng tài hoặc giáo viên làm trọng tài điều
khiển học sinh chơi.
- Cách chơi: Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào
người đó hô “bắt đầu” hoặc “đứng lại”, có thể sử dụng hiệu lệnh còi thì tất cả
mọi người phải đứng lại, không được di chuyển nữa. Lúc này người bị bịt mắt
bắt đầu lần đi xung quanh để bắt được ai đó, mọi người thì cố tránh để không bị
bắt và tạo ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng. Đến khi ai đó bị bắt và người
bị bịt mắt đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt dê”, nếu đoán sai lại bị bịt
mắt lại và làm tiếp.
Có ai đó muốn ra chơi cùng thì phải vào làm luôn, người đang bị bịt mắt
lúc này được ra ngoài hoặc là phải oẳn tù tì xem ai thắng.
Để đánh giá hiệu quả của các trò chơi vận động dân gian của dân tộc thiểu
số vào các tiết dạy môn Thể dục và các hoạt động ngoại khóa để thực nghiệm.

15


Tổng thời gian thực nghiệm: 15 tuần, từ ngày 13/11/2017 đến 17/03/2018
với số tiết là 30 tiết (trừ 4 tuần trong đó: 2 tuần ôn tập và thi học kì I và 2 tuần
nghỉ tết nguyên Đán).
Từ kết quả thu được qua phỏng vấn và khảo sát 40 học sinh như sau:
Bảng 2:

Nội dung phỏng vấn và khảo
sát
Ham thích trò chơi vận động
dân gian và trò chơi vận động
của các dân tộc thiểu số
Hiểu biết về trò chơi vận động

dân gian và trò chơi vận động
của các dân tộc thiểu số
Mạnh dạn tự tin tham gia hoạt
động trò chơi
Thể hiện tinh thần đoàn kết
Biết tự tổ chức trò chơi đã
được tham gia
Sáng tạo trong khi chơi trò
chơi
Kết quả học tập môn thể dục

Số lượng tích
cực (đạt)

Số lượng
chưa tích cực
(chưa đạt)

36/40 (90,0%)

4/40 (10,0%)

37/40 (92,5%)

3/40 (7,5%)

34/40 (85,0%)

6/40 (15,0%)


35/40 (87,5%)

5/40 (12,5%)

30/40 (70,0%)

10/40 (30,0%)

30/40 (75,0%)

10/40 (25,0%)

39/40 (97,5%)

01/40 (2,5%)

Ghi chú

4. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường
Từ kết quả thu được ở bảng 2 cho thấy: Số lượng học sinh thay đổi theo
chiều hướng tích cực được nâng lên so với kết quả trước thực nghiệm. Số lượng
học sinh tích cực tham gia đã thay đổi rõ rệt theo chiều hướng tích cực. Vì vậy
mà các tiết học thể dục và các hoạt động ngoại khóa có chất lượng nâng lên
đáng kể học sinh tham gia học tập với tinh thần vui vẻ, đoàn kết, kỉ luật không
chỉ với những học sinh tham gia học tập các tiết học thể dục, mà các môn học
khác đa phần khi kiểm tra điểm đạt từ khá và giỏi nhiều, ngoài ra bản thân cũng
đã trực tiếp tập luyện cho các em học sinh tham gia thi hội khỏe phù đổng
Huyện lần thứ V đạt được nhiều thành tích cao mà môn đẩy gậy đóng góp nhiều
thành tích cho trường nhà, huấn luyện 4 học sinh của trường tham gia thi HKPĐ

lần thứ IX của Tỉnh môn đẩy gậy đạt được 4 giải: 2 huy chương bạc, 1 huy
chương đồng và 1 giải khuyến khích đó là một thành tích cao của toàn thể nhà
trường lần đầu tiên đạt được. Một điều đặc biệt hơn nữa là có 1 học sinh được
16


tuyển chọn vào đội tuyển của Tỉnh đi thi hội khỏe phù đổng toàn Quốc lần thứ
IX năm 2016 và đã đạt được 1 huy chương đồng môn đẩy gậy góp phần vào
thành tích chung của Tỉnh. Qua những kết quả đạt được của học sinh như vậy
bản thân cũng thấy được kết quả của việc đưa sáng kiến kinh nghiệm vào giảng
dạy là phù hợp, mang lại hiệu quả tích cực được đồng nghiệp đánh giá cao.
Không những có sức ảnh hưởng từ những tiết học, những cuộc thi đấu mà còn
có ảnh hưởng đến các phong trào do nhà trường, đoàn - đội, ban ngoại khóa tổ
chức cho học sinh toàn trường các môn TDTT và các trò chơi vận động như:
Kéo co, đẩy gậy, ném còn, đi kà kheo, tó má lẹ, rồng ấp trứng, … trong các ngày
lễ, tết, ngoại khóa, các ngày kỉ niệm trong năm học như: 2/9, 20/10, 20/11,
22/12, 8/3, 26/3, 30/4, 15/5, lễ hội mùa Xuân hàng năm…được tất cả học sinh
trong nhà trường tham gia đông đảo, vui vẻ giúp các em nâng cao sức khỏe,
tham gia tốt việc học tập và rèn luyện trong một năm học. Nhà trường đã chỉ đạo
cho bộ phận chuyên môn, các tổ khối thành lập được nhiều câu lạc bộ ở các môn
văn hóa, văn nghệ và TDTT giao cho các thầy, cô giáo có năng lực để phát hiện
và bồi dưỡng những em học sinh có năng khiếu tập luyện, thi đấu trong các cuộc
thi do các ban ngành trong huyện tổ chức. Bản thân cũng tích cực tham mưu với
các ban ngành đoàn thể trong nhà trường, Huyện để thường xuyên tổ chức các
trò chơi, môn thể thao dân tộc, hoạt động ngoại khóa vào các dịp lễ, hội ở địa
phương như: Ném còn, kéo co, đẩy gậy, tó má lẹ, rồng ấp trứng, đi cà kheo,…
để tăng tình đoàn kết dân tộc, phát huy và giữ gìn các trò chơi, các môn thể thao
của dân tộc mình.
Qua đó các em học sinh được tham gia nhiều hơn, được giao lưu với
nhiều bạn trong cùng huyện để tăng thêm tình hưu nghị, đoàn kết, giao lưu, học

hỏi và hiểu biết lẫn nhau của mọi người, của các dân tộc anh, em.

17


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Cơ sở lý luận, thực trạng là những căn cứ đặc biệt quan trọng trong việc
lựa chọn chính xác các trò chơi thực nghiệm.
Qua thực tế nghiên cứu và áp dụng trò chơi tôi nhận thấy việc tổ chức
lồng ghép các trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận động của các dân tộc
thiểu số vào các tiết học thể dục và các hoạt động ngoại khóa là vô cùng quan
trọng nhất là đối với thực tế các trường THCS trên địa bàn các huyện Quan Sơn
nói chung đối với trường THCS – DTNT Quan Sơn nói riêng. Vì nhà trường là
nơi đào tạo, dạy dỗ học sinh đa phần là con em của các dân tộc thiểu số trong
toàn huyện. Tôi nhận thấy đề tài này có thể áp dụng cho các trường THCS trong
toàn huyện và rộng hơn có thể áp dụng cho các trường THCS ở các huyện miền
núi của Tỉnh thanh Hóa.
Hiệu quả phát triển nhân cách học sinh cần phải kết hợp hài hòa tất cả các
môn học trong chương trình giáo dục phổ thông. Trong đó có môn Thể dục, cần
chú ý đến học sinh để phát triển không chỉ mình thể chất mà còn giáo dục về
đức, trí, thể, mĩ. Trò chơi dân gian và trò chơi của các dân tộc thiểu số phản ánh
nét văn hoá cộng đồng của dân tộc, khu vực hoặc vùng miền vì thế việc tổ chức
cho các em học sinh chơi các trò chơi dân gian và trò chơi của các dân tộc thiểu
số là một trong những cách thức giáo dục, hình thành nét nhân cách mang bản
sắc văn hoá dân tộc cho các thế hệ học sinh hiện nay. Thực hiện nhiệm vụ "giáo
dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, niềm tự hào
về việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, ... tôn vinh bản sắc
văn hoá dân tộc".
2. Kiến nghị

Để công tác giảng dạy môn Thể dục nói riêng, các hoạt động ngoại khóa
và các môn học khác trong nhà trường THCS được thuận lợi, nâng cao chất
lượng. Tôi đề xuất các cơ quan ban ngành có liên quan tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, tinh thần, trang thiết bị cần thiết, sân bãi, tạo điều kiện về mặt thời gian để
giáo viên và học sinh các trường THCS trong toàn huyện nói chung và trường
THCS - DTNT nói riêng được dạy và học môn thể dục và các hoạt động ngoại
khóa thuận lợi, có hứng thú tham gia học tập, vui chơi, đạt được hiệu quả trong
các giờ học và thành tích cao trong quá trình tập luyện, thi đấu.
Do đề tài nghiên cứu rộng, thời gian nghiên cứu ngắn, bước đầu mới thu
được một số kết quả nhất định. Tôi mong muốn được tiếp tục nghiên cứu một
cách lâu dài và rộng hơn.Trong thời gian thực hiện đề tài này được BGH nhà
18


trường và các giáo viên tạo điều kiện về vật chất và tinh thần giúp đỡ nhiệt tình,
nên đề tài đã hoàn thành đúng thời gian.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan sáng kiến trên không
sao chép của người khác nếu sai tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm!
Tác giả

NGUYỄN XUÂN HUY

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên môn Thể dục 6, 7, 8, 9
2. Phân phối chương trình môn thể dục
3. Tài liệu lí luận và phương pháp giảng dạy thể dục thể thao
4. Tài liệu truyền thống về các môn TDTT dân tộc của Xã, Huyện
5. Trò chơi vận động dân gian và dân tộc thiểu số
6. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục ở trường THCS
7. Luật thi đấu các môn TDTT dân tộc
8. Luật thi đấu kéo co (26/4/2014)
9. Luật thi đấu đẩy gậy (26/4/2014)
10. Hướng dẫn giảng dạy TDTT; Tác giả GS – TS: Trịnh Trung Hiếu

20


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐƯỢC HỘI ĐỒNG CẤP PHÒNG
GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
1. Đề tài SKKN: “Phương pháp giảng dạy môn thể thao tự chọn”, đạt
loại C cấp Phòng GD&ĐT năm học 2007 - 2008
2. Đề tài SKKN: “Một số phương pháp tập luyện tích cực trong giờ thể
dục”, đạt loại A cấp Phòng GD&ĐT năm học 2009 - 2010
3. Đề tài SKKN: “Sử dụng phương pháp trò chơi trong giảng dạy cự ly
ngắn 60m đối với học sinh khối 9”, đạt loại B cấp Phòng GD&ĐT năm học
2010 - 2011
4. Đề tài SKKN: “Sử dụng phương pháp trò chơi trong giảng dạy chạy
THCS cự li ngắn 60m đối với học sinh khối 9”, đạt loại A cấp Phòng GD&ĐT,
đạt loại C Cấp Sở GD&ĐT năm học 2011 - 2012
5. Đề tài SKKN: “Sử dụng các bài tập bổ trợ trong các giờ dạy nhảy xa
đối với học sinh khối 9 trường THCS Sơn Lư”, đạt loại A cấp Phòng GD&ĐT

năm học 2013 - 2014
6. Đề tài SKKN: “Sử dụng một số trò chơi vận động dân gian và trò chơi
vận động của các dân tộc thiểu số vào các tiết học thể dục trong trường THCS
Sơn Lư”, đạt loại A cấp Phòng GD&ĐT, đạt loại C cấp Sở GD&ĐT năm học
2015 – 2016.

21



×