Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn khai thác bài tập đọc để nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.5 KB, 17 trang )

1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài:
Mơn Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng trong chương trình
giáo dục ở tiểu học. Qua việc học mơn Tiếng Việt giúp học sinh rèn được các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết, giao tiếp,…Trong môn Tiếng Việt ở lớp 5 lại có nhiều
phân mơn: Tập đọc, Tập làm văn, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Theo
quan điểm biên soạn chương trình sách giáo khoa hiện nay có sự tích hợp, liên hệ,
bổ trợ lẫn nhau về kiến thức và kĩ năng giữa các phân môn trong cùng một chủ
điểm. Tuy nhiên trong thực tế dạy học, nhiều giáo viên hoặc là quên, hoặc là ngại,
hoặc là chưa nhận thức đầy đủ, rõ ràng vấn đề này. Chẳng hạn khi dạy các bài tập
đọc thể loại miêu tả, một số giáo viên chỉ chú trọng rèn kĩ năng đọc và tìm hiểu nội
dung bài mà chưa khai thác thêm về cách quan sát tinh tế, cách dùng các từ ngữ gợi
tả, gợi cảm,... để giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong bài qua các
biện pháp nghệ thuật của tác giả. Do đó học sinh chưa nhận thấy và học hỏi được
những biện pháp nghệ thuật, sẽ gặp khó khăn khi học các giờ Tập làm văn miêu tả.
Vì vậy các bài văn miêu tả của học sinh thường khơ khan, ít hình ảnh.
Xuất phát từ những lí do trên, qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy khối 5 đặc
biệt là dạy môn Tiếng Việt, nhằm góp phần bồi dưỡng năng khiếu Tập làm văn cho
học sinh, tôi quyết định chọn sáng kiến với tiêu đề: “Khai thác bài Tập đọc để
nâng cao hiệu quả dạy làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng dạy học phân mơn Tập làm văn, tìm hiểu ngun nhân
dẫn đến những hạn chế của học sinh khi làm văn tả cảnh. Từ đó tìm ra giải pháp
giúp học sinh có khả năng làm văn tả cảnh tốt hơn, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học môn Tiếng Việt ở lớp 5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các bài Tập đọc thể loại tả cảnh, các bài Tập làm văn tả cảnh và phương
pháp dạy học những bài này trong môn Tiếng Việt ở khối lớp 5 nói chung và lớp
5A nói riêng tại Trường Tiểu học Trung Tiến, năm học 2017 - 2018
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra


- Phương pháp luyện tập thực hành
- Phương pháp kiểm tra đánh giá


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận:
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là mơn học có nhiều phân mơn và
có số tiết chiếm tỉ lệ cao nhất. Nhiệm vụ trọng tâm của môn Tiếng Việt là cung cấp
kiến thức và rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt thành thạo cho học sinh. Đó
chính là điều kiện cơ bản, bắt đầu để các em tiếp cận với tri thức của các bộ mơn
khác. Mỗi phân mơn, ngồi việc thực hiện nhiệm vụ của riêng mình cịn có nhiệm
vụ chung của môn Tiếng Việt. Nếu phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng
vốn từ, rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu thì phân mơn Tập đọc ngồi việc rèn kĩ năng
đọc học sinh còn cung cấp cho các các em kiến thức văn học, kiến thức đời sống về
con người, thiên nhiên. Thì các bài tập đọc trong phân mơn Tập đọc cũng chính là
những bài văn thuộc các thể loại khác nhau. Và Tập làm văn là phân mơn tổng hợp
tri thức các phân mơn đó. Mỗi một bài văn của các em là một quá trình tích luỹ các
kiến thức, kĩ năng đã học từ các phân môn khác. Phân môn Tập đọc nếu chỉ dạy với
yêu cầu, mục đích của một tiết dạy tập đọc theo chương trình thì khó có thể hướng
dẫn học sinh hiểu hết được nội dung cũng như nắm bắt được hết giá trị nghệ thuật
của văn bản nghệ thuật trong phân mơn Tập đọc. Do đó sẽ khó giúp các em cảm
thụ hết cái hay, cái đẹp của bài tập đọc, bởi một bài tập đọc chính là một văn bản
nghệ thuật. Như thế sẽ khó giúp các em nắm được bố cục, trình tự, nghệ thuật của
bài tập đọc để các em học hỏi và vận dụng khi làm bài Tập làm văn.
Mặt khác, thiên nhiên và con người Việt Nam luôn là đề tài bất tận cho
chúng ta khám phá. Vì vậy ở mỗi thể loại văn đều có vơ số đề bài u cầu học sinh
viết thành những bài văn khác nhau về tả cảnh, tả người… Nhưng với học sinh tiểu
học, hiểu biết và trải nghiệm của các em còn hạn chế, sự tưởng tượng của các em
chưa phong phú. Có những cảnh các em chưa được biết đến, có những người các
em chưa được tiếp xúc, có những con vật, cây cối, đồ vật các em chưa được nhìn

thấy. Vậy nên việc cung cấp cho các em hiểu và biết được vấn đề đó thơng qua các
bài Tập đọc để làm bài Tập làm văn là một việc làm hết sức cần thiết. Đây quả là
một vấn đề mà những giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt ở lớp 5 luôn
quan tâm trăn trở.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Cùng với yêu cầu đổi mới hiện nay, giáo viên phải tạo mơi trường khuyến
khích học sinh chủ động và tích cực học tập, thể hiện năng lực từng cá nhân nhằm
khơi dậy trong học sinh tính tị mị, tự khám phá để tìm ra những kiến thức mới.
Học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, cịn giáo viên có quyền lựa
chọn phương pháp cho từng bài học. Giáo viên tránh nói nhiều, tránh làm thay học
sinh, cần tổ chức cho học sinh cùng làm việc dưới sự hướng dẫn của mình đó là xu
hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học.


Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy cũng như qua dự giờ đồng nghiệp, bản thân
tơi nhận thấy có những khó khăn nhất định so với yêu cầu đổi mới hiện nay trong
môn Tiếng Việt. Nguyên nhân chủ yếu là:
* Về phía giáo viên:
- Tiếng Việt là mơn học khó, nhất là phân mơn Tập làm văn địi hỏi người
giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú, phải có vốn sống thực tế.
- Trong chương trình mơn Tiếng Việt lớp 5, giữa Tập đọc và Tập làm văn có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Cụ thể trong cùng một tuần, cứ sau hai tiết Tập đọc
là đến các tiết Tập làm văn. Các bài Tập làm văn thường gắn với chủ điểm đang
học ở các bài Tập đọc. Trong những bài văn, bài thơ, đoạn văn mẫu trong phân môn
Tập đọc, phân môn Tập làm văn, tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ như: so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hốn dụ, liên tưởng, đảo ngữ, điệp ngữ, điệp từ,… nhưng
một số giáo viên chưa hiểu hết tác dụng của nó.
- Và thực tế ở trường Tiểu học Trung Tiến hầu hết giáo viên dạy Tập đọc chỉ
dừng lại ở mục tiêu cơ bản của tiết dạy là luyện đọc và trả lời câu hỏi theo yêu cầu
sách giáo khoa mà chưa đi sâu vào hướng dẫn các em cảm thụ hết cái hay cái đẹp

từ các biện pháp nghệ thuật tác giả đã sử dụng để làm toát lên nội dung của bài,
chưa hướng dẫn học sinh nhận dạng xem bài Tập đọc đó thuộc thể loại văn gì.
- Khơng ít giáo viên chưa hiểu hết tầm quan trọng của phân môn Tập đọc và
Tập làm văn, cịn xem nhẹ mơn học này nên trong các buổi học chính khố cũng
như các tiết hướng dẫn tự học vào buổi thứ hai, nhiều giáo viên chưa đầu tư nội
dung bài soạn.
- Một số giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học cho các tiết hướng dẫn tự học
vào buổi thứ hai nhưng không biết dạy nội dung gì? Dạy như thế nào?
* Về phía học sinh:
Ngay từ đầu năm học tôi được nhà trường phân công dạy lớp 5A, qua việc
giảng dạy tôi nhận thấy thực trạng học sinh trong lớp:
- Đa số các em rất ngại học phân mơn Tập làm văn, vì đây là phân mơn địi
hỏi phải dùng ngơn ngữ viết để trình bày bài làm của mình nhưng vốn Tiếng Việt
và từ ngữ của học sinh lớp tơi phụ trách nói riêng và học sinh khối 5 trường Tiểu
học Trung Tiến nói chung cịn rất hạn chế do Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai mà khi
bước vào lớp 1 học sinh mới bắt đầu tiếp cận với Tiếng Việt.
- Tập làm văn là một phân mơn địi hỏi học sinh phải thực sự có năng khiếu
mới có kĩ năng viết văn hay nhưng thực tế học sinh rất ít em có khả năng làm được
điều đó. Nhiều bài viết của các em cịn khơ khan, trình tự sắp xếp cịn lộn xộn, bố
cục thiếu chặt chẽ, bài văn chưa có trọng tâm...
- Mặt khác, khả năng cảm thụ văn học của học sinh chưa cao, chưa biết sử
dụng các biện pháp nghệ thuật vào trong bài viết của mình nên hầu hết các bài văn
đều chưa có cảm xúc và chưa lơi cuốn người đọc.
- Một số học sinh cịn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Phần


lớn học sinh thường dùng lời cô, thầy hướng dẫn để viết thành bài văn của mình
nên các bài làm thường na ná nhau mà chưa có nét riêng.
Từ những lí do trên, ngay từ đầu năm học, tơi đã tiến hành cho học sinh làm

một số bài văn tả cảnh và thống kê thực trạng bài làm học sinh để tìm ra hạn chế,
tìm giải pháp khắc phục.
Kết quả như sau:
Tổng số
Bài làm hay
Bài làm nhiều từ ngữ
Trình tự miêu tả
HS
giàu cảm xúc
gợi tả, gợi cảm có
chưa hợp lí
hình ảnh phù hợp
SL
TL %
SL
TL%
SL
TL%
10em
1
10
2
20
7
70
Trước thực trạng đó, tơi thiết nghĩ mình cần phải thay đổi cách thức dạy học
mới để góp phần nâng cao hiệu quả phân mơn Tập làm văn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
- Hiệu quả của việc dạy học không chỉ phụ thuộc vào nội dung mà còn phụ
thuộc rất nhiều vào phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Điều chỉnh thời

lượng giữa các tiết dạy như thế nào? Thiết kế nội dung bài dạy trong các tiết học
buổi chính khố, các tiết hướng dẫn tự học ra sao? Tất cả những điều đó đều phản
ánh nghệ thuật của người giáo viên ở các tiết dạy trên lớp. Trong q trình giảng
dạy, tơi đã sử dụng các bài Tập đọc thuộc văn bản nghệ thuật, coi đó là những bài
văn mẫu để dạy học sinh một phần ở tiết dạy chính khố và phần cịn lại ở tiết
hướng dẫn tự học.
- Với khuôn khổ nội dung của bài viết này, tơi chỉ xin đưa ra một vài ví dụ về
phương pháp dạy Tập làm văn từ cách khai thác các bài Tập đọc của thể loại tả
cảnh ở lớp 5. Vì đây là thể loại văn chiếm nhiều thời lượng nhất trong chương
trình, đồng thời đây cũng là đề tài vô cùng phong phú mà các nhà văn, nhà thơ ln
tìm tịi, khám phá và sáng tạo. Hơn nữa, thể loại văn này các em được học xuyên
suốt bắt đầu từ lớp 2 cho đến mãi về sau.
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Khai thác bài Tập đọc để vận dụng làm bài Tập làm
văn
Lớp năm là lớp cuối bậc tiểu học, các em đã lớn, kĩ năng đọc đã khá tốt nên
việc học tập đọc khá nhẹ nhàng. Trong khi đó ở phân mơn Tập làm văn, kiến thức
lại khá nặng. Các em phải tập làm nhiều dạng bài: tả cảnh, tả người, báo cáo thống
kê, thuyết trình tranh luận, làm biên bản cuộc họp, lập chương trình hoạt động, tập
viết đoạn đối thoại. Ngồi ra học sinh cịn phải ôn luyện về làm văn kể chuyện, tả
con vật, tả đồ vật, tả cây cối, làm đơn,. Trong mỗi tiết Tập làm văn lại thường có
hai bài tập để khai thác kiến thức rồi mới đến bài tập luyện lập dàn ý hay viết đoạn
văn, bài văn. Do đó áp lực về mặt kiến thức và thời gian là khơng nhỏ. Vì vậy trong
các tiết Tập đọc tơi thường khai thác thêm các kiến thức để giúp học sinh vận dụng
vào học làm văn.


Ví dụ: Bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa (Tập đọc, SGK TV5, tập I, trang 10)
Trước khi cho học sinh trả lời câu hỏi 1 (SGK), tôi gọi học sinh đọc to câu
đầu của bài văn.
Sau đó hỏi:

+ Câu văn này giới thiệu điều gì?
- Tác giả giới thiệu màu sắc bao trùm cảnh làng quê ngày mùa, đó là màu vàng.
+ Đây là phần nào của bài văn miêu tả?
- Phần mở bài của bài văn miêu tả
+ Kể tên những sự vật trong bài có màu vàng và từ chỉ màu vàng đó.
- Lúa - vàng xuộm; nắng - vàng hoe; quả xoan - vàng lịm; lá mít, lá chuối - vàng ối;
tàu đu đủ, lá sắn héo - vàng tươi; quả chuối - chín vàng; bụi mía - vàng xọng; rơm
và thóc - vàng giịn; con gà, con chó - vàng mượt; mái nhà rơm – vàng mới; tất cả một màu vàng trù phú, đầm ấm
+ Hãy chọn một từ chỉ màu vàng trong bài và cho biết từ đó gợi cho em cảm giác
gì?
* Chẳng hạn:
- Lúa: vàng xuộm - lúa đã chín kĩ, màu vàng đậm
- Gà, chó: vàng mượt - gợi cảm giác những con vật béo tốt, có bộ lơng óng ả, mượt
mà.
- Tất cả: vàng trù phú, đầm ấm - màu vàng gợi sự giàu có, ấm no
- ......
+ Những chi tiết nào về thời tiết và con người đã làm cho bức tranh làng quê thêm
đẹp và sinh động?
- Thời tiết: khơng nắng, khơng mưa, khơng có cảm giác héo tàn hanh hao.
- Con người: Mải miết làm việc không tưởng tới ngày hay đêm.
+ Nếu như câu đầu tiên là phần mở đầu thì phần tìm hiểu vừa rồi thuộc phần nào
của bài văn?
- Phần thân bài
+ Bài văn thể hiện tình cảm gì của tác giả đối với quê hương?
- Tác giả rất yêu quê hương nên mới viết được một bài văn tả cảnh ngày mùa trên
quê hương hay như thế.
* Tuy tác giả không trực tiếp thể hiện tình yêu quê hương nhưng qua cách quan sát,
miêu tả cảnh vật, con người tác giả đã thể hiện điều đó. (Tác giả đã lồng cảm xúc
của mình vào từng cảnh tả). Đây chính là phần kết bài.
+ Tác giả đã tả cảnh làng quê theo trình tự nào?

- Tác giả tả từng phần của cảnh, tả các màu vàng rất khác nhau, tả hoạt động của
con người, sự thay đổi về thời tiết.
+ Em có nhận xét gì về cách quan sát và dùng từ ngữ của tác giả?
- Tác giả đã quan sát tinh tế cảnh vật bằng nhiều giác quan và dùng từ ngữ miêu tả
rất chọn lọc, chính xác, gợi cảm.
+ Bài văn tả cảnh gì, như thế nào và qua đó tác giả muốn nói lên điều gì?


- Bài văn miêu tả quang cảnh làng mạc giữa ngày mùa, làm hiện lên một bức tranh
làng quê thật đẹp, sinh động và trù phú, qua đó thể hiện tình yêu tha thiết của tác
giả với quê hương.
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài xong, tơi giới thiệu cho học sinh
biết đây chính là một bài văn tả cảnh, một thể loại mà các em được học nhiều nhất
ở chương trình Tập làm văn lớp 5.
Qua bài học, giúp các em cảm nhận được rằng: bằng nghệ thuật quan sát rất
tinh tế, cách dùng từ chính xác và đầy sáng tạo, tác giả đã vẽ lên bằng lời một bức
tranh sinh động về làng quê vào ngày mùa toàn màu vàng với vẻ đẹp đặc sắc và
sống động.
Sau khi dạy xong tiết Tập đọc Quang cảnh làng mạc ngày mùa đến tiết
Tập làm văn tiếp theo Cấu tạo của bài văn tả cảnh tôi thấy, khi vừa mới nêu
yêu cầu của bài tập 1: Đọc và tìm các phần mở bài, thân bài, kết bài của bài văn
Hồng hơn trên sơng Hương đa số học sinh đã tìm đúng các phần của bài văn.
Chuyển sang bài tập 2: Thứ tự miêu tả trong bài văn trên có gì khác với bài
Quang cảnh làng mạc ngày mùa? Từ hai bài văn đó, hãy rút ra nhận xét về cấu tạo
của bài văn tả cảnh.
Học sinh đã không phải mất nhiều thời gian để suy nghĩ, hầu như tất cả các
em đều tìm ra được sự khác nhau. Đó là:
Bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa tả từng phần của cảnh.
- Đoạn 1: Tả sự vật và các màu sắc của chúng.
- Đoạn 2: Tả thời tiết, tả con người.

Bài Hồng hơn trên sơng Hương tả sự thay đổi của cảnh theo thời gian:
- Đoạn 1: Nêu nhận xét chung về sự n tĩnh của Huế lúc hồng hơn.
- Đoạn 2: Tả sự thay đổi sắc màu của sông Hương từ lúc bắt đầu hồng hơn
đến lúc tối hẳn.
- Đoạn 3: Tả hoạt động của con người bên bờ sơng, trên mặt sơng từ lúc bắt
đầu hồng hơn đến lúc thành phố lên đèn.
- Đoạn 4: Nhận xét về sự thức dậy của Huế sau hồng hơn.
Cùng với những kiến thức đã được cung cấp trong tiết Tập đọc trước, các em
đã rút ra được nhận xét về cấu tạo của bài văn tả cảnh gồm có ba phần:
- Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh được tả.
- Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo trình tự
thời gian
- Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Cảm thụ bài Tập đọc để vận dụng vào học Tập làm văn
trong tiết hướng dẫn tự học
+ Tôi hướng dẫn học sinh tự học bằng các câu hỏi gợi ý sau:
Tìm và phân tích các biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng để làm nổi
bật vẻ đẹp của cảnh tả ở bài Tập đọc Quang cảnh làng mạc ngày mùa
+ Nêu các từ chỉ màu vàng có trong bài.


- vàng xuộm, vàng hoe, vàng lịm, vàng ối, vàng tươi, vàng, vàng xọng, vàng
giòn, vàng mượt, vàng mới, màu vàng trù phú, đầm ấm.
+ Những từ cùng chỉ màu vàng đó gọi chung là từ gì?
- Từ đồng nghĩa
+ Nêu tác dụng của việc dùng từ đồng nghĩa trong đoạn văn trên.
- Tác giả đã sử dụng một loạt từ đồng nghĩa để miêu tả được các màu vàng
khác nhau của sự vật nhằm làm sinh động và nổi bật quang cảnh làng mạc ngày
mùa, đồng thời làm cho cảnh được tả trở nên đa dạng, phong phú.
* Đây chính là nghệ thuật dùng từ đặc tả để làm một bài văn mà các em cần phải

học tập.
+ Ngoài màu vàng, tác giả cịn nói tới màu sắc gì nữa của cảnh vật?
- Màu đỏ của lá lụi, màu đỏ chót của quả ớt
+ Tác giả cịn sử dụng biện pháp nghệ thuật nào nữa trong bài văn tả cảnh?
- Biện pháp so sánh.
+ Nêu các hình ảnh so sánh có trong bài.
- Những chùm quả xoan vàng lịm như những tràng hạt bồ đề treo lơ lửng;
những tàu lá chuối vàng ối xõa xuống như những đuôi áo, vạt áo; nắng vườn chuối
đương có gió lẫn với lá vàng như những vạt áo nắng, đuôi áo nắng, vẫy vẫy.
* Để bài văn tả cảnh được sinh động và gợi cảm các em cần sử dụng các từ đồng
nghĩa nhằm làm nổi bật sắc thái riêng của từng cảnh tả, kết hợp với các biện pháp
so sánh, nhân hóa, liên tưởng.
+ Ngồi việc dùng thị giác, tác giả cịn quan sát sự vật bằng giác quan nào nữa?
- Khứu giác: hơi thở của đất trời, mặt nước thơm thơm, nhè nhẹ.
* Khi quan sát cảnh tả, các em cần quan sát bằng tất cả các giác quan để miêu tả hết
vẻ đẹp của cảnh vật.
+ Thời gian, thời tiết và hoạt động của con người đã làm cho bài văn trở nên như
thế nào?
- Cảnh tả về thời tiết và con người giúp ta cảm nhận được bức tranh làng mạc
ngày mùa rất hữu tình: thời tiết đẹp, con người siêng năng, gợi lên cảnh làng quê
thật ấm no, góp phần làm cho bài tả sâu hơn.
* Vì vậy, khi làm bài văn tả cảnh các em cần xen tả hoạt động của con người, con
vật và thời tiết để làm cho bài văn thêm sống động, đồng thời làm cho bài văn giàu
sắc thái biểu cảm.
+ Vì sao có thể nói bài văn thể hiện tình u tha thiết của tác giả đối với quê
hương?
+ Phải thực sự yêu cảnh tả thiết tha thì tác giả mới say sưa quan sát và dùng những
từ ngữ chính xác, những hình ảnh đẹp nhất khi miêu tả quang cảnh làng mạc ngày
mùa.
* Để bài văn có cảm xúc, trước hết các em phải yêu cảnh tả, có cảm xúc thực sự về

cảnh, tập trung quan sát cảnh thật cụ thể bằng nhiều giác quan và bằng tất cả tình
cảm của mình, phải thả "hồn" của mình vào trong từng cảnh tả.


Ngồi ra trong q trình giảng dạy trên lớp tơi rất trú trọng tới việc truyền
hưng phấn, tình cảm của mình cho học sinh. Qua đó đã góp phần giúp các em làm
được những bài văn có cảm xúc hơn.
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh vận dụng vào viết đoạn văn tả
cảnh
Sau khi học sinh cảm nhận và nắm được cách quan sát, cách tả một cảnh cũng
như các biện pháp nghệ thuật thường sử dụng trong bài văn tả cảnh, tôi cho các em
vận dụng vào viết một đoạn văn tả cảnh.
Chẳng hạn tôi đã giao một bài tập về nhà như sau:
Đề bài: Hãy viết một đoạn văn (khoảng 5 đến 7 câu) tả cảnh trường em trước buổi
học.
Sau đó, bằng hệ thống câu hỏi gợi ý, tôi hướng dẫn cho học sinh về cách quan
sát, trình tự tả (theo thời gian hoặc theo từng bộ phận của cảnh), lựa chọn những
đặc điểm tiêu biểu của cảnh, lựa chọn từ ngữ gợi tả cho chính xác để đặt câu, cách
viết câu mở đoạn, câu kết đoạn và những biện pháp nghệ thuật cần áp dụng (so
sánh, nhân hóa, liên tưởng). Đặc biệt lưu ý học sinh không nên chỉ liệt kê các bộ
phận của cảnh mà cần miêu tả cụ thể, làm bài cần có cảm xúc thực sự, phải toát lên
vẻ đẹp của cảnh và tình cảm của người viết đối với cảnh trường của mình.
2.3.4. Giải pháp thứ tư: Nhận xét đánh giá sửa lỗi cho học sinh
Để học sinh có thời gian quan sát lại cảnh trường, hai hôm sau tôi mới thu bài
về chấm. Kết quả bài làm của các em đã có sự tiến bộ nhất định. Trong đó có nhiều
bài làm khá tốt nhưng vẫn có một số bài làm chưa đạt. Ví dụ có bài làm chưa đạt
như sau:
“ Trường em có nhiều cây bàng, cây phượng và cây xà cừ to cao. Trường em
cịn có các bồn hoa. Dãy phòng học một tầng đã hơi cũ. Trước buổi học, có bạn thì
qt trực nhật, có bạn thì đang chơi dưới sân trường.”

Trong buổi hướng dẫn tự học tiếp theo tôi trả bài cho học sinh. Tôi tiến hành
nhận xét cụ thể những ưu điểm cần phát huy, đặc biệt tập trung vào việc làm rõ
những hạn chế cần khắc phục để học sinh nhận thấy. Tôi phân chia bài làm chưa tốt
thành các nhóm có những hạn chế như nhau rồi tổ chức cho học sinh sửa lỗi. Đồng
thời tôi cũng đọc một vài bài làm tốt để học sinh nhận thấy cái hay cần bắt chước.
2.3.5. Giải pháp thứ năm: Hướng dẫn viết lại đoạn văn lần hai
Nếu chỉ dừng lại ở việc chữa lỗi trong bài làm cho học sinh thì có rất ít tác
dụng. Vì vậy tơi đã u cầu tất cả các em đều viết lại đoạn văn tả cảnh trường em
trước buổi học và hơm sau sẽ thu bài (nếu khơng nói thu bài thì nhiều học sinh sẽ
khơng làm). Tiết trước, những học sinh nào viết chưa được thì viết lại để đạt mức
hoàn thành, những học sinh nào viết tốt rồi thì viết lại cho hay hơn.
Hơm sau tơi thu bài làm về kiểm tra. Kết quả lần này đã có sự thay đổi rõ rệt
hơn. Nhiều bài làm đã tốt hơn, hay hơn, bởi vì các em đã biết dựa vào những nhận
xét, cách hướng dẫn sửa lỗi trong bài lần trước của giáo viên, học hỏi bài làm hay


của bạn và rút kinh nghiệm của chính bản thân mình. Chẳng hạn có nhiều bài đã
sửa và làm lại được như sau:
“Nhìn từ xa, trường em như một khu công viên thu nhỏ. Khi vào trường,
chúng ta bước qua bước qua hai cánh cổng sừng sững như hai chú lính đứng gác.
Trường em có khoảng sân rợp bóng bởi những tán lá bàng xanh màu ngọc bích, lá
phượng xanh non đan xen và đối xứng nhau như hai hàng qn danh dự đón chào.
Trên những cành cây cịn đọng những giọt sương mai long lanh như những viên
ngọc quý đang đu đưa theo gió, vài chú chim đang truyền cành như trốn tìm với lũ
sâu líu lo trong vịm lá. Trước dãy phòng học hai tầng là những bồn hoa cây cảnh
được thiết kế theo kiểu hình lục lăng với những đóa hoa nở sớm đang tươi cười
trong nắng. Trên sân trường từng tốp học sinh đang ríu rít như bầy chim non tiếng
nói cười, rộn ràng vui vẻ. Một khung cảnh thật trong lành, thật đẹp và cũng thật
vui nhộn.
Trường em đẹp quá! Đẹp quá!

Sau khi áp dụng các giải pháp nêu trên tôi tiến hành khảo sát học sinh lớp tôi
đến thời điểm cuối tháng ba. Kết quả thu được như sau:
Bài làm nhiều từ ngữ
Tổng số
Bài làm hay
Trình tự miêu tả chưa
gợi tả, gợi cảm có
HS
giàu cảm xúc
hợp lí
hình ảnh phù hợp
SL
TL %
SL
TL%
SL
TL%
10em
5
50
5
50
0
0
Khi học sinh đã viết được đoạn văn khá tốt rồi thì các em sẽ viết được cả bài
văn dễ dàng hơn.
Đối với những thể loại làm văn khác tôi cũng vận dụng phương pháp dạy
tương tự như dạy dạng bài văn tả cảnh và kết quả cũng rất khả quan.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
2.4. 1. Đối với học sinh trong lớp:

Với phương pháp dạy học xây dựng kiến thức Tập làm văn trên nền kiến
thức của phân môn Tập đọc đã tạo cho các em một thói quen trong học tập về tính
tích cực, tự giác. Tơi nhận thấy ngồi nhiệm vụ chính là biết làm một bài văn, học
sinh được chủ động, tự do thể hiện cái tôi của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái
riêng của mình một cách trọn vẹn, khơng cịn phụ thuộc vào các bài văn mẫu. Các
em đã có sự học hỏi cách miêu tả của tác giả trong các bài Tập đọc để làm bài văn
tả cảnh theo ý riêng của mình.
Trong các tiết Tập làm văn thuộc chương trình chính khóa, các em thể hiện
được khả năng làm bài của mình cao hơn. Do đó đã giảm được tình trạng
trạng thích học Toán hơn học Tiếng Việt như trước đây.


Qua việc chấm bài kiểm tra thường xuyên cũng như bài kiểm tra định kì cuối
kì I, tơi thấy khả năng viết văn của các em đã được nâng lên rõ rệt và bài làm của
các em có những ưu điểm sau:
+ Bài văn có ba phần rõ rệt, bố cục rõ ràng, rành mạch, cân đối, chặt chẽ,
diễn đạt rõ ý.
+ Bài làm có trọng tâm, nhiều bài văn giàu cảm xúc bài làm nhiều từ ngữ gợi
tả, gợi cảm và có hình ảnh. Những học sinh trước đây làm bài rất khô khan, chủ
yếu là liệt kê các sự việc thì nay đã viết được câu văn hay có hình ảnh, giàu cảm
xúc, biết sử dụng các biện pháp nhân hoá, so sánh, liên tưởng …khiến bài văn trở
nên vừa hồn nhiên vừa sinh động.
+ Những hình ảnh, màu sắc, âm thanh và hoạt động được các em miêu tả hịa
quyện với nhau đã làm tốt lên bức tranh muôn màu muôn vẻ.
+ Các từ ngữ gợi tả, gợi cảm được sử dụng đúng chỗ nên lời văn của các em
trở nên trong sáng.
+ Các em đã biết gửi gắm tình cảm của mình vào từng cảnh tả, biết kết hợp
đan xen tả với thể hiện cảm xúc một cách chân thật, tự nhiên gắn liền với từng sự
vật cụ thể nên bài văn có sức lơi cuốn người đọc.
2.4.2. Đối với bản thân:

Sau một thời gian nghiên cứu nghiêm túc và vận dụng thành công các giải
pháp đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc dạy học làm văn tả cảnh cho học sinh, bản
thân tôi cảm thấy rất hài lịng. Từ đây tơi đã tích lũy thêm cho mình một kinh
nghiệm q báu khơng chỉ dạy tập làm văn dạng bài tả cảnh cho học sinh lớp 5, mà
cịn có thể vận dụng cho việc dạy những thể loại văn khác.
4.3. Đối với đồng nghiệp và nhà trường:
Sau hơn một học kì thực hiện phương pháp trên, tôi đã trao đổi kinh nghiệm
với đồng nghiệp trong các buổi sinh hoạt tổ. Một số giáo viên đã mạnh dạn vận
dụng phương pháp này vào trong quá trình giảng dạy trên lớp. Hầu hết giáo viên đã
có nhận thức đúng về việc đổi mới phương pháp dạy học và đã thực sự đầu tư thời
gian, phát huy khả năng sáng tạo của mình trong việc soạn giảng. Từ đó đã bước
đầu nâng cao được chất lượng dạy học trong trường, giảm đi sự chênh lệch giữa
mơn Tốn và môn Tiếng Việt.


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Để nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn trên cơ sở khai thác kiến thức
từ bài Tập đọc giáo viên cần:
- Nắm chắc nội dung của mơn Tiếng Việt nói chung, của các phân mơn Tập
đọc, Tập làm văn nói riêng trong từng chủ điểm; ln chú ý sự tích hợp, liên hệ, bổ
trợ lẫn nhau về kiến thức và kĩ năng giữa các phân môn trong cùng một chủ điểm.
- Dành thời gian để nghiên cứu bài, lập kế hoạch bài dạy.
- Phải mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học; vận dụng linh hoạt các hình
thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Phải vững về kiến thức, kỹ năng thực hành Tiếng Việt; có vốn sống, vốn
cảm xúc phong phú; phải thực sự yêu nghề và có tâm huyết say mê với cơng tác;
phải ln nghiên cứu, tìm tịi, sáng tạo; trau dồi kiến thức.
- Đầu tư nghiên cứu soạn bài một cách khoa học, lôgic của từng phần học có
liên quan chặt chẽ với nhau.



- Phải gần gũi tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh; khơi dậy
niềm say mê, hứng thú của học sinh đối với môn học.
- Hướng dẫn học sinh biết cách tự học, tự nghiên cứu bằng nhiều con đường
khác nhau có thể từ thầy cơ, bạn bè, từ sách vở.
Kiến thức là không giới hạn, phương pháp dạy học là nghệ thuật. Trong môn
TiếngViệt, phân môn Tập đọc và Tập làm văn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì
vậy nếu mỗi chúng ta thật sự mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, linh hoạt và
sáng tạo trong việc thiết kế bài giảng phân mơn Tập đọc thì chắc chắn hiệu quả
phân mơn Tập làm văn sẽ được nâng cao. Đó là thành cơng lớn khơng chỉ đối với
học sinh mà nó cịn có ý nghĩa thiết thực đối với giáo viên, đối với hoạt động
chuyên môn của mỗi nhà trường, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh.
3.2 Kiến nghị:
Từ kết quả đạt được trong quá trình áp dụng vào thực tiễn dạy học, tôi xin đề
xuất với các cấp quản lí một số ý kiến nhằm khắc phục những tồn tại góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh.
- Đối với nhà trường cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh.
- Phòng giáo dục cần tổ chức hội thảo những sáng kiến có chất lượng để cán
bộ, giáo viên học tập, trao đổi và áp dụng trên diện rộng.
Với năng lực của bản thân còn hạn chế. Nhưng đó là cả q trình nghiên cứu
của bản thân tơi rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và Hội đồng khoa
học các cấp để sáng kiến này hồn thiện hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM HIỆU

Trung Tiến, ngày 19 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

khơng sao chép nội dung của người khác.
Người thự hiện

Lê Thị Thắng



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD& ĐT VÀ CÁC CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Thắng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Trung Tiến

ST
T

1

2

Tên đề tài SKKN
Để dạy tốt môn Luyện từ
và câu cho học sinh lớp 4
Dạng bài mở rộng vốn từ
Cơng tác giáo dục học
sinh gặp khó khăn trong
rèn luyện đạo đức ở nhà
trường.


Cấp đánh giá
xếp
loại(Phòng,
Sở, Tỉnh...)

Kết
quả
đánh
giá Năm học
xếp loại
đánh giá
(A, B,
xếp loại
hoặc C)

Phòng
GD&ĐT

c

2006
2007

-

Phòng
GD& ĐT

c


2014
2015

-


PHỤ LỤC
+ Các tài liệu bản thân đã nghiên cứu và sử dụng trong quá trình làm sáng
kiến kinh nghiệm:
- Một số Văn bản hướng dẫn thực hiện chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Các tài liệu hướng dẫn dạy học môn Tiếng Việt
- Phương pháp dạy học tiếng Việt của PGS - TS Lê Phương Nga, Nguyễn Trí.
- Chuyên đề bồi dưỡng Văn - Tiếng Việt lớp 5 của Nguyễn Thị Kim Dung - TP.
HCM.


MỤC LỤC
STT
1
1.1
1.2
1.3
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4

2.3.5
2.4
2.4.1
2.4.2
2.4.3
3
3.1
3.2

CÁC PHẦN,MỤC
Mở đầu
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp thứ nhất: Khai thác bài tập đọc để vận
dụng làm bài Tập làm văn
Giải pháp thứ hai: Cảm thụ bài tập đọc để vận dụng
vào học Tập làm văn trong tiết hướng dẫn tự học
Giải pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh vận dụng vào
viết đoạn văn tả cảnh
Giải pháp thứ tư: Chấm chữa lỗi cho học sinh
Giải pháp thứ năm: Hướng dẫn học sinh viết đoạn
văn lần hai
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Đối với học sinh trong lớp

Đối với bản thân
Đối với động nghiệp và nhà trường
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

TRANG
1
1
1
1
2
2
2
4
4
6
7
8
8
9
9
9
10
11
11
11


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA


TRƯỜNG TIỂU HỌC TRUNG TIẾN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KHAI THÁC BÀI TẬP ĐỌC ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
DẠY TẬP LÀM VĂN TẢ CẢNH CHO HỌC SINH LỚP 5

Việt

Người thực hiện: Lê Thị Thắng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trung Tiến
huyện Quan Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng



×