Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn một số phương pháp dạy toán lớp 4 theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.63 KB, 14 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong chương trình học tập ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm số giờ dạy
học rất lớn. Việc sử dụng phương pháp dạy học ( PPDH ) giống như đồ nghề của
người thợ mộc, chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tùy thuộc
vào mục đích và khả năng sử dụng của người dạy và học, tùy thuộc vào hoàn
cảnh dạy học cụ thể: Đối tượng học sinh, thiết bị dạy học và không khí học tập.
Trong thực tiễn không một giáo viên có kinh nghiệm nào lại sử dụng đơn điệu
một phương pháp trong hoạt động dạy học của mình. Dạy học cũng như người
thợ mộc, để thực hiện một thao tác nhằm tạo ra một chi tiết thì chỉ cần một công
cụ, nhưng muốn có một sản phẩm trọn vẹn ( bàn, nghế, tủ,…) thì phải phối hợp
nhiều thao tác, sử dụng nhiều công cụ khác nhau. Nghệ thuật dạy học là nghệ
thuật phối hợp các PPDH trong một bài dạy của một người giáo viên.
Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học Toán ở Tiểu học nói riêng,
người giáo viên phải biết kết hợp nhiều PPDH vào trong một tiết dạy. Không
được xem nhẹ một phương pháp nào. Mỗi PPDH có những mặt tích cức và hạn
chế riêng, không nên tuyệt đối hóa một PPDH nào. Để tổ chức hoạt động dạy
học hiệu quả, giáo viên cần biết cách lựa chọn, sử dụng ưu thế của từng
PPDH phù hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở từng lớp học, ở
từng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng
tạo của học sinh. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho ngành Giáo
dục là phải đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học để sao cho nền giáo dục
nước nhà đem lại kết quả ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như các
nước tiên tiến trên thế giới.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Bộ Giáo dục đang triển khai đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục – đào
tạo trong đó có đổi mới chương trình giáo dục các cấp học nói chung, chương
trình Tiểu học nói riêng và góp phần phát triển nhanh chóng quy mô cũng như
chất lượng giáo dục phổ thông. Nhưng trước yêu cầu cấp bách đến việc chuẩn
bị cho lớp người lao động mới phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; việc đổi mới các phương pháp dạy học, đổi mới PPDH Toán lớp 4 là


yêu cầu cần thiết.
Môn Toán nói chung và môn Toán lớp 4 nói riêng là nền tảng cho những
kiến thức sau này. Các em mà hổng kiến thức ở bậc Tiểu học thì sau này các em
khó có thể giải các bài toán ở bậc cao hơn. Mà bất cứ một ngành nào hay một
lĩnh vực nào thì Toán học cũng giúp chúng ta thành đạt, giúp mọi nhà doanh
nghiệp hay các nhà khoa học thành công trong việc nghiên cứu. Vậy muốn có
được kết quả như mong muốn, chúng ta phải gây dựng, kèm cặp học sinh ngay
từ bậc Tiểu học là quan trọng nhất. Như chúng ta đã biết môn Toán là “ sai một
li đi một dặm ”, có nghĩa Toán rất cần sự tuyệt đối chính xác.
Quan điểm chương trình mới cần thực hành, vận dụng, nên nói chung nội
dung chương trình thường tinh giảm, tập trung vào các kiến thức kỹ năng cơ bản
bám sát thực tế, tích hợp được nhiều mặt giáo dục.
1


Chương trình toán mới đã có những đổi mới để tăng cường thực hành và
ứng dụng kiến thức mới nhằm giúp học sinh học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo
theo năng lực của học sinh. Để đạt được mục tiêu chương trình đề ra, trước hết
giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung, khả năng có thể khai thác trong
từng bài. Điều quan trọng là giáo viên phải xây dựng những phương pháp huy
động tính tích cực của học sinh trong hoạt động học để các em nắm chắc và vận
dụng thành thạo các nội dung trong từng bài, góp phần phát triển năng lực tư
duy và năng lực thực hành của học sinh. Trong dạy-học Toán ở Tiểu học, việc
giải toán chiếm một vị trí quan trọng. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một
cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có
vào tình huống khác nhau. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn:
Nó phát triển tư duy, trí tuệ, có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính suy
luận, tính khoa học toàn diện, chính xác, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt, góp
phần giáo dục tính nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn.
Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế, để

giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ các kiến thức từ những phương pháp dạy
học, qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi luôn trăn trở phải làm gì, làm như thế
nào để các em có hứng thú trong học tập, nhất là đối với môn Toán. Chính vì
vậy, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu nội dung “Một số phương pháp dạy Toán lớp 4
theo hướng Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh ”, để giúp các em
nắm vững các kiến thức trong môn học này
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIỂN CỨU.
- Một số phương pháp và kinh nghiệm của bản thân dạy Toán lớp 4 nhằm
giúp các em tích cực hóa hoạt động học tập mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất.
- Phạm vi nghiêm cứu là học sinh lớp 4. Tổng số 26 em trường Tiểu học
Trung Xuân huyện Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở lý
thuyết và thực hành, phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin và
xử lý thống kê, số liệu. Cụ thể như sau:
+ Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp
với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
+ Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và
giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.
+ Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm
nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy
tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
+ Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ
sở giải loại toán sắp học.
+ Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát
huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
+ Khi dạy thực hành luyện tập giáo viên cần lưu ý giúp mọi học sinh đều
tham gia phương pháp thực hành, luyện tập theo khả năng của học sinh.
2



PHẦN 2: NỘI DUNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
- Môn Toán giúp học sinh có những tri thức cơ sở ban đầu về số học, các
số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và một số yếu tố hình học
đơn giản giúp học sinh có thể học tiếp lên Trung học hoặc có thể bước vào cuộc
sống lao động.
- Hình thành kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng
dụng thiết thực trong đời sống.
- Bước đầu hình thành và phát triển năng lực trìu tượng hoá, khái quát
hoá, kích thích trí tưởng tượng gây hứng thú học tập toán, phát triển khả năng
suy luận và biết diễn đạt đúng ( bằng lời, bằng viết) các suy luận đơn giản góp
phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt, sáng tạo.
Cũng như các môn học khác, môn Toán còn góp phần hình thành và rèn luyện
các phẩm chất, các đức tính cần thiết của con người lao động mới: cần cù chịu
khó, ý thức vượt khó khăn, tìm tòi sáng tạo, và nhiều kĩ năng tính toán khác.
- Môn Toán lớp 4 có vị trí đặc biệt quan trọng. Vì Toán lớp 4 củng cố kĩ
năng giải toán với các bài toán hợp ( toán có lời văn), nâng số lượng phép tính
để giải bài toán.
- Việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học theo hướng tích cực
hóa hoạt động học tập của học sinh là rất cần thiết. Để thực hiện được điều này,
các giáo viên cần nghiên cứu, tìm tòi các phương pháp, kinh nghiệm hay, phù
hợp với từng đối tượng học sinh; kết hợp với đồ dung trực quan sinh động. Mục
tiêu là phát huy tính tích cực, chủ động tiếp thu bài học của học sinh một cách
nhẹ nhành, đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Có nghĩa là học sinh sẽ chủ động
chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Trong chương trình môn Toán lớp 4, ở học kỳ I chủ yếu tập trung vào bổ
sung, hoàn thiện, tổng kết, hệ thống hóa, khái quát hóa về số tự nhiên và dãy số
tự nhiên, các phép tính và một số tính chất. Ở học kỳ II tập trung vào dạy các bài

về phân số, dấu hiệu chia hết, một số dạng về hình học và cách giải hình học
tương ứng.
Nội dung chương trình toán lớp 4 gồm 6 chương:
 Chương I: Số tự nhiên, bảng đơn vị đo khối lượng.
 Chương II: Bốn phép tích với các số tự nhiên. Hình học
 Chương III: Dấu bị chia hết cho 2; 5; 3; 9. Giới thiệu hình bình hành
 Chương IV: Phân số - Các phép tính với phân số. Giới thiệu hình thoi.
 ChươngV: Tỉ số - Một số bài toán liên quan đế tỉ số. Tỉ lệ bản đồ.
 Chương VI: Ôn tập.
- Về nội dung chương trình toán lớp 4: Mỗi chương là một mảng kiến thức.
Bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phần giảng dạy phù hợp với yêu cầu bài học
và đối tượng học sinh, mỗi giáo viên phải giúp các em có phương pháp lĩnh hội
tri thức toán học. Học sinh cần có phương pháp học phù hợp với từng dạng bài
3


tập thì việc học mới đạt kết quả cao. Thực tế cho thấy, ở đơn vị nhà trường các
em học Toán còn yếu; cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học chưa đáp ứng
đủ. Mặt khác học sinh là con em dân tộc vùng cao, khả năng tiếp thu chậm, còn
tình trạng lười học, phụ huynh chưa quan tâm đúng mức. Một số phương pháp
hay kinh nghiệm dạy toán của giáo viên có phần hạn chế.
* Những hạn chế, khó khăn.
- Về phía giáo viên: Ở các lớp 1,2,3 học sinh chủ yếu nhận biết các khái
niệm ban đầu, đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thực hoặc
mô hình, tranh ảnh,…do đó chỉ nhận biết cái toàn thể, cái riêng lẻ, chưa làm rõ
các mối quan hệ, tính chất của sự vật, hiện tượng. Lên lớp 4 các em được học
các kiến thức trừu tượng, khái quát, vận dụng một số tính chất của số, phép tính,
hình học dạng khái quát hơn. Các em thực hành, vận dụng nhiều: Dạy học dựa
vào hoạt động học của học sinh.
+ Trong quá trình dạy học có thể nói người giáo viên còn chưa có sự chú

ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm vững được lượng
kiến thức. Nguyên nhân là do giáo viên chưa nhiệt tình trong công tác giảng dạy
cũng như chưa đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh. Tổ chức các hình thức dạy và học chưa phong phú và phù
hợp với từng đối tượng học sinh. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý
nghe giảng của học sinh. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến
thức còn dàn trải.
+ Nội dung mỗi bài học trước thường là cơ sở của bài học sau, việc giới
thiệu bài cũng hết sức quan trọng. Vì nó là một sự chuyển tiếp giữa mảng kiến
thức cũ và mảng kiến thức mới. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên chưa đầu
tư, các kiến thức liên quan đến bài giảng chưa biết sử dụng bài trước để giới
thiệu dẫn dắt lôi cuốn học sinh một cách hấp dẫn vào bài mới. Ví dụ: Bài nào
giáo viên cũng chỉ giới thiệu một cách khô khan “Hôm nay chúng ta học bài:
Phép cộng phân số ( tiếp theo )”. Khai thác nội dung kiến thức giáo viên cũng
chưa làm nổi bật được khi nào bắt đầu, khi nào cao trào đỉnh điểm, khi nào kết
thúc,…Cách đặt ra tình huống có vấn đề, tự nhớ lại kiến thức cũ và vận dụng
làm bài, chủ động, sáng tạo trong giờ học.
+ Ví dụ: Bài: “ So sánh hai phân số khác mẫu số ”. Giáo viên không cho
học sinh tự tìm cách làm để cho hai phân số có mẫu số bằng nhau mà yêu cầu
luôn học sinh quy đồng rồi so sánh tử số của hai phân số mới, hoặc bài: “ Diện
tích hình thoi ”, giáo viên chỉ yêu cầu tính diện tích dựa vào hình chữ nhật, chứ
không yêu cầu các em ghép hình rồi tự tìm cách tính dựa vào cách tính diện tích
hình chữ nhật.
+ Việc sử dụng đồ dùng dạy học không kém phần quan trọng . Đồ dùng
dạy học phong phú, lạ lẫm cũng thu hút học sinh chú ý vào bài giảng rất là
nhiều, đặc biệt những đồ dùng dạy học càng thu hút và huy động được nhiều các
giác quan của học sinh thì càng có hiệu quả. Một số giáo viên chỉ vẽ hình và cho
học sinh quan sát, tìm kiến thức mới trên hình: Không cho các em thao tác, tư
duy và như thế các em chỉ huy động được giác quan thị giác ( nhìn lên bảng ) và
4



thính giác ( nghe cô giảng bài ). Ví dụ bài: “ So sánh hai phân số khác mẫu số ”.
Học sinh so sánh trên hai băng giấy sẽ dễ tiếp thu kiến thức hơn vì trực quan tác
động được nhiều đến các giác quan của các em ( có thêm xúc giác – tiếp xúc với
băng giấy ) Một số giáo viên ít dành thời gian nghiên cứu, chuẩn bị hay chuẩn bị
đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy thêm phong phú ( sợ tốn thời gian ) dẫn
tới việc tiếp thu bài chưa cao.
- Về phía học sinh: Trong năm học 2017 – 2018, tôi được phân công
chủ nhiệm lớp 4. Lớp có 26 học sinh. Trình độ và khả năng nhận thức của các
em rất khác nhau. Các em phần lớn nhút nhát, thụ động tiếp thu bài giảng. Cho
nên chất lượng dạy và học chưa đạt so với yêu cầu đề ra ban đầu.
+ Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học tập môn Toán theo cách dạy
chưa tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán đầu năm học 2017 – 2018.
Tổng số
Mức hoàn thành
học sinh
26

Hoàn thành Tốt ( T)
điểm 7; 8; 9; 10

Hoàn thành ( H)
điểm 5; 6

Chưa hoàn thành (C )
dưới điểm 5

Số lượng

Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
4
15,38 %
10
38,46 %
12
46,16%
+ Ghi chú: Trong 4 em Hoàn thành Tốt có 1 em điểm 9; 1 em điểm 8; 2 em
điểm 7
Qua giảng dạy tôi thấy rất nhiều em do điều kiện kinh tế gia đình còn khó
khăn, phụ huynh học sinh chưa quan tâm, phương pháp học tập chưa hợp lí. Đặc
biệt chưa nhận thức đúng vai trò của môn Toán. Học sinh chưa ý thức được
nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ cho mình những
phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau
khi học xong bài, các em chưa nắm được kiến thức bài giảng, rất nhanh quên và
kỹ năng tính toán chưa nhanh. Ví dụ: Khi học xong các cách giải toán về phân
số các em làm bài còn sai: cộng hai phân số cùng mẫu số cũng quy đồng rồi
cộng tử số, có khi nhân phân số các em cũng quy đồng…mặc dù khi học xong
bài mới, ở lớp các em vân dụng làm bài rất tốt, nhưng khi làm luyện tập chung
lại không nhớ, tinh thần hợp tác học tập chưa cao nhiều em còn chưa tự tin…
2.3 CÁC GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
A. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ.
* Một số phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
1.1 .Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết
hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
- Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên

bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học
nhằm giúp học sinh thành nhiệm vụ học tập đó.
+ Ví dụ trong bài: Phép nhân phân số. Hình thành phép tính nhân của hai
phân số

3
2
và . Nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào
4
5
5


luyện tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh.
Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn
học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo.
Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ
thống câu hỏi sau: Hãy tính

3
2
của ?
4
5

Đây là một tình huống mà học sinh chưa thể thực hiện được ngay. Nhưng
nếu học sinh chịu khó vận dụng kiến thức đã học ( cách cấu tạo phân số) hoặc
giáo viên hướng dẫn thì học sinh có thể thực hiện được. Ở đây, giáo viên muốn
học sinh thực hiện câu hỏi trên để dẫn đến cách tính


3
2
x .
4
5

2
thành tổng của 4 phân số bằng nhau?
5
2
8
2
2
2
2
2 4
Ta có: =
=
=
+ + + .
5 4
5
20 20 20 20 20
3
2
- Từ kết quả trên, hãy cho biết, của là bao nhiêu?
4
5
3
2

2
2
2
6
Ta có: của là
+ +
=
.
4
5
20 20 20
20
3
2
2 3
- Hãy so sánh
với kết quả của ?
4 5
4
5
6
2 3
(
=
).
4 5
20
3
2
6

Kết luận: Ta nói tích của
với
=
.
4
5
20
3
2
6
3 2
Viết  =
=
.
4 5
4
5
20
a
c
a c

Giáo viên nêu công thức tổng quát:
=
và yêu cầu học sinh
b d
b
d

- Hãy phân tích


nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó giáo viên tổ chức: luyện tập, củng cố.
1.2. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện
và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.
Ví dụ trong bài: Phép cộng phân số ( tiếp theo ).
Bài toán: Có một băng giấy màu, bạn Hà lấy

1
băng giấy. Bạn An lấy
2

1
băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phần băng giấy màu?
3

Sau khi học xong, học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn
luyện kỹ năng tính toán cho học sinh.
Hướng dẫn giải như sau:
+ Muốn tìm số phần băng giấy của hai bạn Hà và An đã lấy, ta cần thực
hiện phép tính gì? ( phép cộng:

1
1
+ ).
2
3
6


Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một

tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết
được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết
tính tổng hai phân số có cùng mẫu số).
Tuy nhiên, nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng
dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu
số (quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH
vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng hai phân số khác
mẫu số.
1.3. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo
nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm
phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh.
Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau,
cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập
các số liệu điều tra thống kê.
Ví dụ : Bài Diện tích hình thoi.
Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết hai đường chéo AC = m,
BD = n (hình a)
- Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài hai đường chéo,
học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
* Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với
hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b).
Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) =
m

n
m n
=
.
2

2

* Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với
hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c).
Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật MNBD) =
m
m n
n =
.
2 B
2
A

O

M
C

B

B

A
A

O

C
M


D

( Hình a )

N

N

( Hình b )

D

( Hình c )

Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh
thần hợp tác của học sinh, giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm nhỏ để
tổ chức hoạt động dạy học.
1.4. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán
là cơ sở giải loại toán sắp học.
7


Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được
kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối
quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán:
Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm hai số khi biết tổng và
tỉ số của hai số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: Cô có 30 cái bút chì
và chia thành 3 phần bắng nhau. Bạn nam được 1 phần bút chì, bạn nữ được 2
phần bút chì. Hỏi bạn nam được mấy cái bút chì?
Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm hai số khi biết tổng và

hiệu của hai số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và
Hùng có tất cà 15.000 đồng., Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn
có bao nhiêu tiền?”
+Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng ). Chia bảng
con thành hai phần; phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng.
+Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước
rồi chia đôi phần còn lại: Học sinh lấy 5.000 đồng cho Nam trước (đặt 5 que tính
vào phần lớn).
- Còn mấy nghìn đồng ? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ).
- Vậy chia đều cho hai bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ?
( 10.000 : 2 = 5.000 đồng ).
- Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng ( 5 que tính )
- Vậy Hùng được mấy nghìn ? ( 5.000 đồng ).
- Còn Nam được mấy nghìn ? ( 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ).
- Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải.
1.5. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán
phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang
tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó
các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học.
Ví dụ: Trong bài Phép cộng phân số.
Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và
học sinh cùng thực hành trên băng giấy.
- Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo
chiều ngang:
3
băng giấy.
8
2
+ Tô màu vào băng giấy.

8

+ Tô màu vào

Nhìn băng giấy học sinh dễ nêu được phân số đã tô màu là
Học sinh nêu:

5
băng giấy.
8

3
2
32
5
+ =
= .
8
8
8
8

Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với
nhau và giữ nguyên mẫu số.
8


1.6. Khi dạy thực hành luyện tập giáo viên cần lưu ý giúp mọi học sinh
đều tham gia phương pháp thực hành, luyện tập theo khả năng của mình.
- Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài

nào, kể cả bài dễ, bài khó.
- Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang
bài tiếp theo.
Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác.
+ Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ”
3
6
8
3
6
8
3
14
20
+
+
= +(
+
)= +
=
=2
5
10
10
5
10
10
5
10
10


Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu
thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng
dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện.
Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh
nhớ lại kiến thức đã học đó là:
 Tính chất giao hoán của phép nhân.
 Tính chất kết hợp của phép nhân.
 Tính chất nhân một số với một tổng ( hoặc một tổng nhân với một số ).
 Tính chất nhân một hiệu với một số ( hoặc một số nhân với một hiệu ).
B. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
- Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp trên. Bản thân
nhận thấy học sinh lớp hứng thú với việc học tập hơn. Các em mạnh dạn phát
biểu ý kiến xây dựng bài, tính toán nhanh, chính xác. Học sinh ham học, tự tin,
chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học Toán,
học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với
đời sống.
- Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau:
Kết quả kiểm tra giữa học kỳ 1 năm học 2017 – 2018
Tổng số
Mức hoàn thành
học sinh

26

Hoàn thành Tốt ( T)
điểm 7; 8; 9; 10
Số lượng

Tỉ lệ


Hoàn thành ( H)
điểm 5; 6
Số lượng

Tỉ lệ

Chưa hoàn thành (C )
dưới điểm 5
Số lượng

Tỉ lệ

6
23,08 %
12
46,15%
8
30,77%
+Ghi chú: Trong 6 em Hoàn thành Tốt có 1 em điểm 10; 1 em điểm 9; 1
em điểm 8; 3 em điểm 7
Kết quả kiểm tra cuối học kỳ 1 năm học 2017 – 2018
Tổng số
Mức hoàn thành
học sinh
9


26


Hoàn thành Tốt ( T)
điểm 7; 8; 9; 10
Số lượng

Tỉ lệ

Hoàn thành ( H)
điểm 5; 6
Số lượng

Tỉ lệ

Chưa hoàn thành (C )
dưới điểm 5
Số lượng

Tỉ lệ

8
30,77 %
12
46,15 %
6
23,08%
+ Ghi chú: Trong 8 em Hoàn thành Tốt có 1 em điểm 10; 2 em điểm 9; 2
em điểm 8; 3 em điểm 7.
Kết quả kiểm tra giữa học kỳ 2 năm học 2017 - 2018
Tổng số
học sinh


26

Mức hoàn thành
Hoàn thành Tốt ( T)
Điểm: 7; 8; 9; 10
Số lượng

Tỉ lệ

Hoàn thành ( H)
Điểm: 5; 6
Số lượng

Tỉ lệ

Chưa hoàn thành (C )
Dưới điểm 5
Số lượng

Tỉ lệ

11
42,31 %
11
42,31 %
4
15,38%
+ Ghi chú: Trong 11 em Hoàn thành Tốt có 2 em điểm 10; 3 em điểm 9;
3 em điểm 8; 3 em điểm 7.
+Tỉ lệ học sinh Chưa hoàn thành giảm đáng kể. Từ đầu năm là 46,16%

xuống giữa học kỳ 2 còn 15,38%.
+ Phấn đấu cuối năm học các em Hoàn thành Tốt 13 em chiếm tỉ lệ 50%
còn lại là Hoàn thành, không có học sinh Chưa hoàn thành.
PHẦN 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
- Trong công tác giảng dạy, vai trò của người thầy rất quan trọng, việc truyền
thụ kiến thức Toán học lại càng quan trọng hơn. Người giáo viên chủ yếu cung
cấp cho học sinh một cách đầy đủ, chính xác, có hệ thống kiến thức. ngoài ra,
còn thường xuyên rèn luyện cho các em những kĩ năng cần thiết giúp các em có
phương pháp, vận dụng kiến thức đã học vào việc làm các bài tập liên hệ với
thực tiễn. Vì vậy, môn học này có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo
dục phổ thông.
- Những phương pháp dạy học theo hướng “Tích cực hóa hoạt động học
tập của học sinh lấy học sinh” là một trong những cách dạy học tiên tiến bậc
nhất hiện nay. Khi thực hiện các phương pháp này trong tiết toán trên lớp, tôi
nhận thấy ban đầu đúng là các em còn lúng túng bỡ ngỡ trong các thao tác
nhưng qua một vài lần thực hiện và được sự hướng dẫn tận tình của giáo viên
đúng lúc một số câu hỏi, gợi ý về mặt sư phạm hay về mặt khoa học...
- Các em đã trở nên quen dần và thậm chí còn tỏ ra rất thích thú vì bản
thân các em được trực tiếp tham gia vào bài học. Các em học tập hào hứng và
hăng say hơn vì hoạt động nhóm giúp giảm bớt căng thẳng đặc biệt là đối với

10


những học sinh có học lực yếu, không thể tự làm việc một mình. Học sinh có thể
hỏi giáo viên hoặc bạn bè ngay những điều mà các em không biết, không hiểu.
Điều mà ở cách dạy truyền thống, khi giáo viên tự mình “diễn trình”, học sinh
rất ngại làm. Chính vì thế mà các tiết học đều đạt hiệu quả rất cao, hầu như mọi
học sinh đều hiểu bài và vì vậy bước thực hành diễn ra rất trôi chảy.

- Tuy nhiên, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng cả. Điều quan
trọng đối với người giáo viên là cần biết phối hợp, vận dụng nhịp nhàng, linh
hoạt các phương pháp làm sao để tích cực hóa được hoạt động học tập của học
sinh, nhằm đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất. Nếu người giáo viên chịu khó đầu
tư kĩ cho tiết dạy, nghiên cứu kĩ về khả năng của từng học sinh để có sự sắp xếp
chỗ ngồi hợp lý nhằm tạo điều kiện cho học sinh có thể giúp đỡ nhau, trao đổi,
thảo luận trong nhóm cũng như giữa các nhóm thì tiết dạy sẽ thành công. Thêm
vào đó, đôi lúc giáo viên cũng cần phải khích lệ, dặn dò học sinh chuẩn bị trước
bài ở nhà.
- Nói tóm lại, để một tiết dạy được thành công, điều kiện quyết định không
phải là ở phương pháp mà ở chính người giáo viên. Và các phương pháp kể trên
chỉ là phương tiện giúp người giáo viên đạt được mục đích đó.
3.2. Phạm vi áp dụng của đề tài
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy học sinh trong lớp đã nắm bắt kiến thức nhanh
và vận dụng vào làm bài một cách vững vàng. Vì vậy tôi đã cùng với giáo viên
trong tổ khối 4; 5 trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm; đồng thời xây dựng chuyên đề
về môn học này để cùng nhau nâng cao chất lượng môn Toán trong chương trình
học tập ở Tiểu học. Từ đó giúp các em có tri thức trong học tập, để các em tiến
tới các bậc học cao hơn.
3.3. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tế áp dụng các PPDH trên vào hướng dẫn học sinh học tốt môn Toán,
bản thân tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm cần có hướng phấn đấu:
- Giáo viên phải nắm được toàn bộ chương trình môn Toán lớp 4, nắm vững
kiến thức Toán trong sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng.
Có đầy đủ đồ dùng dạy và học cho giáo viên và học sinh ở các tiết học. có phần
củng cố bằng các trò chơi: “ Trò chơi học Toán ” và chuyển từ kiến thức cũ giúp
học sinh khai thác kiến thức mới một cách hấp dẫn, khoa học.
- Biết tổ chức các PPDH gắn với các bài tập thực hành luyện tập. giúp học
sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới và vận dụng làm các bài tập một cách chính
xác. Đây cũng là cách giúp các em ghi nhớ lâu những qui tắc và vận dụng giải

các bài tập đã học để khi lên lớp trên giáo viên nhắc tới những dạng bài tập đó là
các em nhớ và vận dụng làm được ngay. Như vậy sẽ tránh được những em học
sinh lên lớp trên mà kiến thức toán Tiểu học bị hổng.
- Giáo viên cần gần gũi với học sinh hơn nữa và có sự linh hoạt trong cách tổ
chức các PPDH , giúp học sinh tự tin, giúp các em tự giác biết cách làm bài toán
một cách khoa học, chính xác, sửa chữa những điểm yếu, điểm sai của mình.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục: gia đình – nhà
trường – xã hội.
11


- Riêng đối với bản thân, điều cần thiết và không thể coi nhẹ là phải dạy tốt
lý thuyết, từ đó mới phát triển được các tư duy, suy luận cho học sinh. Để rèn
luyện kĩ năng giải toán cho học sinh thì trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải
lựa chọ các phương pháp dạy tốt. Khi dạy học sinh lớp 4 học Toán, giáo viên
phải đặt ra tình huống để các em suy nghĩ, tìm tòi cách giải khác nhau.
3.4. Kiến nghị
Trên đây là một số PPDH giúp học sinh học tốt môn Toán trong chương
trình Tiểu học nói chung và chương trình Toán lớp 4 nói riêng. Trong suốt thời
gian qua bản thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy và chất
lượng học tập của học sinh đã nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự phấn khởi, tự
tin khi học Toán. Đối với tôi, cách dạy trên đã góp phần không nhỏ vào việc dạy
học và giáo dục các em – Những mầm non tương lai của đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này sẽ không tránh
khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được sự giúp đỡ, đóng
góp ý kiến quý báu của cấp trên và đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện và
đạt kết quả cao hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong việc dạy học môn
Toán ở Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


1.
2.
3.
4.

TÀI KIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa Toán 4. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
Sách giáo viên Toán 4. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng các môn học ở Tiểu học.
Lớp 4. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Dạy lớp 4 theo chương trình Tiểu học mới. Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam.
12


5. Tạp chí Giáo dục Tiểu học. Tập 39; 45; 50. Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam.
6. Toán nâng cao lớp 4. Tập 1+ 2. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
7. 10 chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Toán 4 + 5. Tập 1+2. Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam.
8. Giải bài tập Toán 4. Tập 1+2. Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh.
9. Rèn luyện và nâng cao kỹ năng giải Toán cho học sinh Tiểu học. Tập 1+2.
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
10. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học. Nhà xuất bản Giáo dục.
11. Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa. Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYÊN, TỈNH VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Quang Huy
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Trung Xuân
13


TT

1

Tên đề SKKN

Cấp đánh giá xếp
loại
(Ngành GD cấp
huyện, tỉnh)

Vận dụng phương pháp
dạy học tích hợp để dạy
Trưởng Phòng
giải các bài toán về
GD&ĐT Quan Sơn
chuyển động đều cho
học sinh lớp 5.

XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Kết qủa
đánh giá

xếp loại
(A,B hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

C

2014-2015

Quan Sơn, ngày 15 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình, không sao chép nội dung của
người khác
Tác giả

Lê Quang Huy

Xác nhận của BGH nhà trường

Trung Xuân, ngày 04 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chép nội dung của người khác
Ký tên

Lê Quang Huy

14




×