Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

KHÓA LUÂN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.25 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN CƯKUIN
TỈNH ĐĂK LĂK HIỆN NAY

Sinh viên

: Phạm Thị Hồng Trưng

Chuyên ngành

: CN Triết học

Khóa học

: 2013 – 2017

Đắk Lắk, tháng 04 năm 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI


CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN CƯKUIN
TỈNH ĐĂK LĂK HIỆN NAY

Sinh viên

: Phạm Thị Hồng Trưng

Chuyên ngành

: CN Triết học

Người hướng dẫn
ThS. Nguyễn Thị Hải Yến

Đắk Lắk, tháng 04 năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin phép gửi lời cảm ơn chân thành tới quý thầy cô
trường Đại học Tây Nguyên những người đã truyền đạt cho em những kiến
thức và kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian em học tập tại trường.
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô khoa Lý luận
Chính Trị và đặc biệt là GV: Th.S Nguyễn Thị Hải Yến đã hướng dẫn rất nhiệt
tình và đầy trách nhiệm để em hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Huyện ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin đã tạo điều kiện thuận lợi cho em
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Lời cuối cùng em xin cảm ơn gia đình, những người thân, bạn bè đã
cùng gắn bó với em trong suốt quá trình học tập và giúp đỡ tạo điều kiện tốt

nhất để em vững bước trong suốt thời gian dài.
Đắk Lắk, tháng 05 năm 2017
Sinh viên

Phạm Thị Hồng Trưng

i


CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT, KÍ HIỆU

HĐND:

Hội đồng nhân dân

UBND:

Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN:

Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam

MTQG:

Mặt trận quốc gia

NTM:

Nông thôn mới


ODA:

Nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài

DTTS:

Dân tộc thiểu số

TG:

Tôn giáo

ĐV:

Đảng viên

ii


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................i
CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT, KÍ HIỆU..............................................................ii
MỤC LỤC.......................................................................................................iii
I. ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................1
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.............................................................................2
III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................3
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................3

3.2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................3
3.3. Nội dung nghiên cứu...................................................................................3
3.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................3
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN......................................................................4
CHƯƠNG I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO Ở HUYỆN
CƯKUIN...........................................................................................................4
4.1. Nhận thức về công tác xây dựng nông thôn mới ở huyện Cư Kuin tỉnh
Đăk Lăk.............................................................................................................4
4.1.1 Vấn đề xây dựng nông thôn mới hiện nay................................................4
4.1.1.1. Nội dung về xây dựng nông thôn mới hiện nay.....................................4
4.1.1.2 Mục tiêu, nhiệm vụ quốc gia về xây dựng nông thôn mới......................8
4.1.2. Công tác vận động tín đồ tôn giáo của Huyện Cư Kuin tỉnh Đăk Lăk. .12
4.1.2.1. Tình hình tôn giáo ở huyện Cư Kuin tỉnh Đăk Lăk............................12
4.1.2.2.Đặc điểm tín đồ chức sắc của huyện Cư kuin tỉnh Đăk Lăk................16
4.1.2.3. Nội dung vận động tín đồ tôn giáo ở huyện Cư Kuin hiện nay...........17
CHƯƠNG 2: VẬN ĐỘNG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN CƯKUIN TỈNH ĐĂK LĂK THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP..............................................................................................22
iii


4.2. Thực trạng công tác vận động tín đồ các tôn giáo xây dựng nông thôn mới
ở huyện Cưkuin...............................................................................................22
4.2.1. Thực trạng về chủ thể vận động tín đồ tôn giáo trong xây dựng NTM..22
4.2.2. Những thành công và hạn chế của công tác vận động tín đồ tôn giáo
trong xây dựng nông thôn mới hiện nay ở huyện Cưkuin tỉnh Đăk Lăk........26
4.2.2.1 Những thành công................................................................................26
4.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận động tín đồ tôn giáo xây dựng
nông thôn mới ở huyện Cưkuin tỉnh Đăk Lăk................................................39

4.3.1. Tăng cường vai trò của chủ thể vận động, là các tổ chức thuộc hệ thống
chính trị huyện Cư Kuin.................................................................................39
4.3.2. Nâng cao vai trò quản lý của các cơ quan chính quyền và các đoàn thể 43
4.3.3. Nâng cao và phát triển mọi mặt đời sống của các tín đồ........................47
4.3.4. Tạo môi trường thuận lợi để đồng bào các tôn giáo thực hiện được
quyền tự do tôn giáo........................................................................................51
V. KẾT LUẬN.................................................................................................54
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................56
PHỤ LỤC..........................................................................................................1
Ý KIẾN CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN.............................................................8

iv


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện quyết định số 3218/QĐ của Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk
năm 2014 về việc chọn huyện Cưkuin để xây dựng nông thôn mới. Căn cứ
theo quyết định 1194/ QĐ-TTg ngày 22 tháng 07 năm 2014 của Thủ Tướng
Chính Phủ về kế hoạch xây dựng vùng Tây Nguyên đến năm 2020.
Trên cơ sở 19 tiêu chí nông thôn mới và bám sát mục tiêu chung của
huyện, Huyện ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN huyện Cư Kuin đã có những
bước đi đúng đắn để được công nhận là huyện nông thôn mới đến năm 2020.
Kết quả to lớn đó không thể không kể đến công tác vận động quần chúng các
tín đồ tôn giáo của hệ thống chính trị huyện Cư Kuin. Bên cạnh đó công tác
vận động tín đồ của các tôn giáo ở huyện cũng bộc lộ những biểu hiện chủ
quan có khi áp đặt trong việc huy động nguồn lực của đồng bào các tôn giáo.
Những thành công và hạn chế của công tác vận động tín đồ tôn giáo phải
được nhận thức, tổng kết để rút ra bài học kinh nghiệm và những vấn đề có
tính lý luận của các chuyên ngành tôn giáo, xã hội học... Việc nghiên cứu vấn

đề này còn có ý nghĩa đối với việc tiếp tục phát huy vai trò của đồng bào các
tôn giáo trong xây dựng nông thôn mới những năm tiếp theo trên địa bàn
huyện Cư Kuin và có thể nhân rộng đến các địa phương khác trong tỉnh Đăk
Lăk và vùng Tây Nguyên. Nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng về
nông nghiệp, nông dân, và nông thôn giai đoạn 2010-2020.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết ấy tôi chọn đề tài: “ Công tác
vận động tín đồ tôn giáo trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Cưkuin
tỉnh Đăk Lăk hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân triết học của
mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề chung về công tác vận động tín đồ tôn giáo và thực
trạng công tác đó trong quá trình thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Cư Kuin. Đề ra những giải pháp
cụ thể tạo động lực thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

1


II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Liên quan đến đề tài đề tài: Công tác vận động tín đồ các tôn giáo trong
xây dựng nông thôn mới, có một số công trình khoa học liên quan.
Đó là: “Vai trò của cán bộ cấp xã trong phát triển cộng đồng (Nghiên cứu
trường hợp tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên)”, luận văn thạc sĩ xã hội
học, của Nguyễn Thúy Hằng; “Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
hiện nay (qua khảo sát thực tế ở Ninh Bình”), luận văn thạc sĩ triết học của Hà
Thu Nga; “Hội liên hiệp phụ nữ trong công tác vận động phụ nữ Công giáo ở
Đồng Nai hiện nay”, luận văn thạc sĩ tôn giáo học của Nguyễn Thị Việt;
“Công tác vận động chức sắc đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu trong
giai đoạn hiện nay” luận văn thạc sĩ tôn giáo học, của Nguyễn Mạnh Cường;

“vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Chương Mỹ TP. Hà Nội hiện
nay”, luận văn triết học của Nguyễn Trần Lực,…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đó đã đề cập đến công tác tôn
giáo và vận động tín đồ tôn giáo trên nhiều phương diện khác nhau trên phạm
vi cả nước hay từng khu vực. Riêng đề tài “Công tác vận động tín đồ các tôn
giáo trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk hiện nay”
vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào tiếp cận trực diện. Vì vậy, đề tài
này sẽ làm sáng tỏ hơn vấn đề thực hiện công tác vận động tín đồ tôn giáo
tham gia thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk.

2


III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác vận động tín đồ các tôn giáo trong xây dựng nông thôn mới ở
huyện Cư Kuin.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên địa bàn huyện Cư Kuin trong đó tập trung chủ yếu ở các xã tập
trung tín đồ tôn giáo như: Hòa Hiệp, Eatiêu, Eahu…
3.3. Nội dung nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề chung về công tác vận động tín đồ tôn
giáo và thực trạng công tác đó trong quá trình thực hiện chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Cư Kuin, đề tài
khuyến nghị những giải cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động tín
đồ các tôn giáo, tạo động lực thực hiện thành công các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội tại địa phương.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận chung nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp nghiên cứu
liên nghành.

3


IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
CHƯƠNG I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TÍN
ĐỒ TÔN GIÁO Ở HUYỆN CƯKUIN
4.1. Nhận thức về công tác xây dựng nông thôn mới ở huyện Cư Kuin
tỉnh Đăk Lăk
4.1.1 Vấn đề xây dựng nông thôn mới hiện nay
4.1.1.1. Nội dung về xây dựng nông thôn mới hiện nay
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp
với hơn 70% dân cư đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp nông thôn
đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối với
việc ổn định kinh tế xã hội đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục
tiêu xây dựng nông thôn mới là: “Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu
đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung Ương lần thứ bảy
(khóa X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 đã nêu một
cách toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị
quyết khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì
vậy các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng
bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông nghiệp,

nông thôn nước ta còn là khu vực giàu tiềm năng cần khai thác một cách có
hiệu quả. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã

4


hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải
phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn không phải chỉ là
nhiệm vụ của nông dân, ở khu vực nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội. Xây dựng nông thôn mới là xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội hiện đại ở nông thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố
liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh. Không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo
sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được
đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực
và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Nghị quyết 26/NQTW ngày 28/05/2008 đã nêu một cách tổng quát về
mục tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến hành quá trình xây dựng nông
thôn mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển
của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những bài
học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn
lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị
quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành một chương trình hành động của Chính
phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận thức,
hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu

Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới là: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng văn
minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái gắn với phát
triển đô thị, thị trấn, thị tứ.

5


Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là chương
trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung toàn diện; bao gồm tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Mục tiêu
chung của chương trình được Đảng ta xác định là: xây dựng nông thôn mới có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh
thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần
của người dân ngày càng được nâng cao.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta khẳng định xây dựng nông thôn
mới là một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ phương
hướng, nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là: Tiếp tục triển
khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng
theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy
nét văn hóa bản sắc của nông thôn Việt Nam.
Thực hiện đường lối của Đảng, trong thời gian qua, phong trào xây dựng
nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước, thu hút
sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã hội. Quá

trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được thành tựu khá toàn diện. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội cơ bản đảm bảo, tạo sự thuận lợi trong giao lưu buôn bán
và phát triển sản xuât; Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công
nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả
gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập và đời sống vật chất tinh
thần cho người dân; Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng
cường; Dân chủ cơ sở được phát huy; An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững; Vị thế của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
6


Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo cơ
sở vững chắc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới còn bộc lộ nhiều khó khăn
hạn chế, nhất là về công tác quy hoạch. Quy hoạch nông thôn mới là một vấn
đề mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực và phải mang tính chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về năng lực, nên trong quá
trình triển khai còn nhiều lúng túng. Bên cạnh đó chúng ta còn gặp khó khăn về
huy động nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới. Đời sống của người dân
nông thôn còn nhiều khó khăn. Mặt khác, trong nhận thức nhiều người còn cho
rằng xây dựng nông thôn mới là dự án do nhà nước đầu tư xây dựng nên còn có
tâm lí trông chờ, ỷ lại. Chính vì vậy trong thời gian tới bên cạnh việc đào tạo
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chúng ta cần phải đẩy mạnh công tác giáo
dục tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, để mọi người dân đều nhận
thức rằng: "Xây dựng nông thôn mới là công việc thường xuyên của mỗi
người, mỗi nhà, mỗi thôn xóm và từng địa phương; tất cả cùng chung sức dưới
sự lãnh đạo của Đảng..." nhằm thực hiện thành công xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, chính vì vậy nó
phải có hệ thống lí luận soi đường. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông

thôn mới là sự vận dụng sáng tạo lí luận của Chủ nghĩa Mác Lênin vào thực
tiễn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, hướng đến thực hiện mục tiêu cách
mạng xã hội chủ nghĩa, từng bước xóa bỏ sự khác biệt giữa thành thị và nông
thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc, để đi đến kết quả cuối cùng là
giai cấp công nhân, nông dân và trí thức sẽ trở thành những người lao động
của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thực tiễn cũng cho thấy, những xã hội tiến bộ bao giờ cũng chú ý tới việc
thu hẹp khoảng cách sự phát triển giữa thành thị và nông thôn, phát triển lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội, cải thiện điều kiện sinh
hoạt ở nông thôn, làm cho thành thị và nông thôn xích lại gần nhau. Chính vì
7


vậy, bên cạnh phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lí luận, tổng kết thực tiễn quá
trình xây dựng nông thôn mới, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước
trên thế giới và trong khu vực về phát triển nông thôn tiên tiến hiện đại, để xây
dựng hoàn thiện hệ thống các quan điểm lí luận về phát triển nông nghiệp,
nông dân và nông thôn làm cơ sở khoa học cho thực tiễn. Xây dựng nông thôn
nước ta trở nên văn minh, tiên tiến hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn
hóa và nét đẹp truyền thống của nông thôn Việt Nam.
4.1.1.2 Mục tiêu, nhiệm vụ quốc gia về xây dựng nông thôn mới
Mục tiêu của chương trình xây dựng nông thôn mới
Mục tiêu tổng quát của chương trình là: Xây dựng nông thôn mới để
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp
lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông
thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc
văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh,
trật tự được giữ vững.
Chương trình đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2020 số xã đạt tiêu chuẩn

nông thôn mới khoảng 50%; khuyến khích mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương phấn đấu có ít nhất 1 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Bình quân
cả nước đạt 15 tiêu chí/xã; cả nước không còn xã dưới 5 tiêu chí.
Cơ bản hoàn thành các công trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển
sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn: giao thông, điện, nước sinh hoạt,
trường học, trạm y tế xã. Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông
thôn; tạo nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân, thu
nhập tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2016.
Rà soát, hoàn thiện Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới
Để đạt được các mục tiêu trên, giải pháp đầu tiên được đưa ra là tiếp tục
thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng về xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục
nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền và tổ chức các phong trào thi đua
8


xây dựng nông thôn mới từ trung ương đến cơ sở nhằm nâng cao nhận thức;
đẩy mạnh công tác truyền thông; thường xuyên cập nhật, đưa tin về các mô
hình, các điển hình tiên tiến, sáng kiến và kinh nghiệm hay về xây dựng nông
thôn mới trên các phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến và nhân rộng
các mô hình này.
Đồng thời, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách; rà
soát, hoàn thiện Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới thể hiện đầy đủ các nội
dung của Chương trình, đồng thời phản ánh đặc thù của các địa phương. Xây
dựng, ban hành chính sách đối với các vùng đặc thù, trong đó ưu tiên hỗ trợ
đầu tư các công trình hạ tầng thiết yếu, trực tiếp phục vụ phát triển sản xuất
theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Tăng cường phân cấp, trao quyền cho cấp xã, tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho người dân và cộng đồng thực sự làm chủ trong xây dựng nông thôn mới
theo cơ chế đầu tư đặc thù rút gọn; bảo đảm tính công khai, minh bạch và
trách nhiệm trong suốt quá trình thực hiện Chương trình.

Đa dạng hóa các nguồn vốn huy động
Bên cạnh đó, cần đa dạng hoá các nguồn vốn huy động để thực hiện
Chương trình. Thực hiện lồng ghép các nguồn vốn của Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo bền vững; các chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu
trên địa bàn.
Huy động tối đa nguồn lực của địa phương (tỉnh, huyện, xã) để tổ chức
triển khai Chương trình. Từ năm 2017, hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định
để lại ít nhất 80% cho ngân sách xã số thu từ đấu giá quyền sử dụng đất, giao
đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn xã để thực hiện các
nội dung xây dựng nông thôn mới.
Huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp đối với các công trình có khả
năng thu hồi vốn trực tiếp; doanh nghiệp được vay vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được ngân

9


sách nhà nước hỗ trợ sau đầu tư và được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định
của pháp luật.
Các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện của nhân dân trong xã
cho từng dự án, nội dung cụ thể, do hội đồng nhân dân xã thông qua. Sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng...
Tổng mức vốn từ ngân sách nhà nước tối thiểu hơn 193 nghìn tỷ đồng
Dự kiến tổng mức vốn thực hiện từ ngân sách nhà nước tối thiểu là
193.155,6 tỷ đồng, trong đó: Ngân sách trung ương 63.155,6 tỷ đồng; Ngân
sách địa phương 130.000 tỷ đồng.
Về cơ cấu nguồn vốn, Vốn ngân sách bao gồm: Vốn trực tiếp để thực
hiện các nội dung của Chương trình khoảng 24%; vốn lồng ghép từ Chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; các chương trình hỗ trợ có mục
tiêu; các dự án vốn ODA thực hiện trên địa bàn khoảng 6%. Vốn tín dụng

(bao gồm tín dụng ưu đãi và tín dụng thương mại) khoảng 45%. Vốn từ các
doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác khoảng 15%. Huy
động đóng góp của cộng đồng dân cư khoảng 10%.
Nhiệm vụ của chương trình xây dựng NTM
Ban chỉ đạo chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới đã
đề ra các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp thực hiện cụ thể như sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho
cán bộ và cư dân nông thôn, nâng cao chất lượng các phong trào thi đua xây
dựng nông thôn mới. Thường xuyên cập nhật, phổ biến các mô hình, các điển
hình tiên tiến, sáng kiến và kinh nghiệm hay về xây dựng nông thôn mới để
nhân ra diện rộng.
Hai là, cơ bản hoàn thành hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn
xã nhất là đối với những xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng hưởng thụ trực tiếp cho cư dân nông thôn.
Ba là, phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn. Tập
10


trung đẩy nhanh thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp ở mỗi địa phương
gắn với phát triển ngành nghề, thu hút đầu tư của doanh nghiệp, mở rộng liên
kết sản xuất theo chuỗi giá trị; Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào
sản. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Bốn là, nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của người dân nông thôn.
Tổ chức triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam phát động; Nâng cao hiệu quả sử dụng các thiết chế văn hóa cơ sở
để đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa của người dân nông thôn. Tập trung
nghiên cứu, nhân rộng các mô hình tốt về phát huy bản sắc văn hóa, truyền
thống tốt đẹp của từng vùng, miền, dân tộc...

Năm là, tạo chuyển biến rõ nét về vệ sinh, môi trường, cảnh quan nông
thôn theo hướng xanh - sạch - đẹp. Tập trung xử lý vấn đề rác thải, nước thải
sinh hoạt, chất thải chăn nuôi. Làm đẹp cảnh quan các công trình công cộng.
Đồng thời có cơ chế, chính sách để tạo nguồn lực cho giải quyết các vấn đề
môi trường nông thôn; Phát động mạnh mẽ phong trào xây dựng khu dân cư
kiểu mẫu
Sáu là, nâng cao chất lượng an ninh, trật tự an toàn xã hội nông thôn.
Tập trung xử lý các điểm nóng về trật tự xã hội nông thôn; đẩy mạnh đấu
tranh ngăn chặn và đẩy lùi các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh,
trật tự an toàn xã hội.
Bảy là, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các tiêu chí nông thôn mới
đối với các xã, huyện đã được công nhận đạt chuẩn. Coi trọng các nội dung tổ
chức sản xuất, tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển ngành nghề, nâng năng lực
sản xuất, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa,
xây dựng môi trường sống xanh - sạch - đẹp, đảm bảo an ninh trật tự ngày
càng tốt hơn để nông thôn mới phát triển bền vững.
Tám là, hoàn thiện cơ chế, chính sách điều chỉnh bổ sung Bộ tiêu chí
quốc gia xây dựng nông thôn mới cho phù hợp với điều kiện đặc thù của các
11


vùng; ban hành tiêu chí huyện, tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới; xây dựng bổ
sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù cho các xã khó khăn (khu vực
miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, biên giới, hải đảo, vùng bãi ngang ven biển,
Đồng bằng sông Cửu Long); Tiếp tục triển khai “Chương trình khoa học và
công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới” có hiệu quả, phù hợp với tình
hình thực tiễn của các địa phương trong giai đoạn 2016-2020.
Chín là, huy động đa dạng và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho
Chương trình. Ưu tiên nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách cho các xã đặc biệt khó
khăn, xã biên giới, các xã bãi ngang ven biển và hải đảo có tỷ lệ hộ nghèo

cao, trong đó ưu tiên nhiều hơn cho các xã dưới 5 tiêu chí. Có cơ chế phù hợp
để huy động được nhiều nguồn lực ngoài ngân sách. Chú trọng đầu tư hoàn
thành các công trình hạ tầng cơ bản.
Mười là, tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng nông thôn mới.
Tăng cường công tác thông tin, truyền thông cho các tổ chức quốc tế hiểu rõ
về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để thúc đẩy hợp
tác phát triển.
Mười một là, Đẩy mạnh phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây
dựng nông thôn mới”, khen thưởng kịp thời và xứng đáng cho các tập thể làm
tốt, các cá nhân, tổ chức có đóng góp tích cực, hiệu quả cho Chương trình.
Mười hai là, điều hành, quản lý Chương trình. Kiện toàn Ban Chỉ đạo;
xây dựng bộ máy giúp việc các cấp theo hướng chuyên nghiệp.
4.1.2. Công tác vận động tín đồ tôn giáo của Huyện Cư Kuin tỉnh
Đăk Lăk
4.1.2.1. Tình hình tôn giáo ở huyện Cư Kuin tỉnh Đăk Lăk
Đặc điểm huyện Cư kuin

12


Huyện Cư Kuin nằm về phía Nam trung tâm tỉnh Đắk Lắk, cách thành
phố Buôn Ma Thuột 25 km theo Quốc lộ 27, Trung tâm huyện được quy
hoạch ở dọc Quốc lộ 27 đoạn qua địa bàn xã Dray Bhăng, với diện tích tự
nhiên là 28.830 ha, dân số đến cuối năm 2016 là 103.842 người, trong đó
đồng bào DTTS chiếm 32,15%; dân số theo các tôn giáo chiếm 47,26%.
Địa giới hành chính huyện Cư Kuin: Đông giáp huyện Krông Pắc và
Krông Bông; Tây Nam giáp huyện Krông Ana và huyện Lăk; Bắc giáp Thành
phố Buôn Ma Thuột.
Toàn huyện có 08 đơn vị hành chính cấp xã: xã Ea Tiêu, xã Ea Ktur, xã
Dray Bhăng, xã Ea Bhốk, xã Ea Ning, xã xã Hòa Hiệp, Ea Hu và xã Cư Êwi;

huyện có 113 thôn, buôn, trong đó 27 buôn là đồng bào dân tộc tại chỗ. Với vị
trí nằm trên cửa ngõ phía Nam của thành phố Buôn Ma Thuột đi tỉnh Lâm
Đồng, cách sân bay Buôn Ma Thuột khoảng 10 km, huyện Cư Kuin có điều
kiện thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hoá, khoa học - công nghệ, đồng
thời cung ứng nguồn lao động dồi dào và hàng hoá nông sản có giá trị kinh tế
cho thị trường. Ngoài ra huyện có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giao
lưu kinh tế, văn hoá xã hội với các huyện phía Nam của tỉnh và thành phố Đà
Lạt. Bên cạnh đó địa hình cũng tương đối phức tạp: dốc và chia cắt khá mạnh,
thường bị ảnh hưởng của lũ lụt nên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất tốn
kém, đặc biệt là hệ thống đường giao thông, các công trình lưới điện, bưu
chính viễn thông...
Cấu trúc địa chất đơn giản, tài nguyên khoáng sản trong vùng chủ yếu là
cát xây dựng, rất ít đá xây dựng (ở Cư Êwi, Ea Bhôk) và than bùn (Ea Ktur).
Điểm khai thác cát chính là cầu Giang Sơn trên sông Krông Ana. Cát, đá xây
dựng của huyện có trữ lượng khá và được các tổ chức, cá nhân đầu tư khai thác,
sản xuất phục vụ cho cả tỉnh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn và
của tỉnh.
Về tài nguyên nước, huyện có mật độ sông suối khá dày địa hình thuận
lợi cho xây dựng các công trình hồ chứa, đập dâng để cung cấp nước sinh
hoạt và sản xuất.
13


Tài nguyên rừng hiện có với 812,6 ha, với 0,3 ha rừng tự nhiên và 812,3
ha rừng trồng; công tác trồng rừng trên các diện tích đất trống, đồi trọc,
trồng cây phân tán trên các vườn cây công nghiệp, chú trọng trồng xen trong
vườn cà phê trên đất dốc tăng độ che phủ, hạn chế xói mòn, rửa trôi . Hoàn
thành kế hoạch trồng mới 20 ha rừng sản xuất năm 2016 1, tỷ lệ che phủ rừng
đạt 13,5%.
Nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, sản phẩm phụ thuộc nhiều

vào thị trường và sự phát triển kinh tế của các đô thị lớn. Cơ sở hạ tầng cho
sản xuất nông nghiệp còn thiếu, các công trình thuỷ lợi mới chỉ đáp ứng được
nhu cầu nước tưới cho một số diện tích cây trồng, điều này đã gây ra rất nhiều
khó khăn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển đổi mùa vụ, tăng
hiệu quả sử dụng đất.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa tạo ra các bước đột phá tăng
tốc trên các lĩnh vực. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhỏ lẻ chủ yếu là phát
triển theo các hộ gia đình là chính, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, các mô
hình hợp tác, các tổ liên kết chưa phát triển, chưa chú trọng đến mối liên kết 4
nhà… dẫn đến khó khăn trong khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí sản
xuất cao.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm nhất là hàng nông sản của huyện đã mở
rộng ra khắp các tỉnh khu vực và trong nước. Tuy nhiên, sản phẩm chủ yếu là
xuất đi các nơi, chi phí vận chuyển và bảo quản cao, chưa ổn định, khâu phân
phối lưu thông hàng hoá chưa quản lý được nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sức
cạnh tranh mặt hàng nông sản của huyện trên thị trường vẫn còn thấp, sản
xuất phụ thuộc rất lớn vào thị trường, giá cả không ổn định. Bảo quản sản
phẩm sau thu hoạch còn nhiều khó khăn dẫn đến sản phẩm làm ra có tỷ lệ hư
hỏng lớn.
Năm 2016, một số chỉ tiêu kinh tế của huyện đạt được như sau: giá trị
sản xuất bình quân đầu người đạt 55,7 triệu đồng/người/năm. Tổng giá trị sản
1

14


xuất khoảng 5.832 tỷ đồng trong đó:

Nông - Lâm - Ngư nghiệp khoảng


3.275 tỷ đồng, công nghiệp – xây dựng 1.259 tỷ đồng, giá trị gia tăng ngành
dịch vụ đạt 1.298 tỷ đồng. Tổng mức đầu tư toàn xã hội 650 tỷ đồng. Huy
động vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 589 tỷ đồng. Tổng thu cân đối ngân sách
nhà nước ước đạt 55,6 tỷ đồng
Trong việc triển khai chương trình MTQG diễn ra tại huyện Cư Kuin,
những đặc điểm trên trở thành cơ sở để lãnh đạo và nhân dân huyện, trong đó
có đồng bào các tôn giáo, xây dựng chương trình phát triển cụ thể của mình,
với sự tham gia hưởng ứng đồng sức, đồng lòng của nhân dân các dân tộc
thiểu số và đa số, của cộng đồng tín đồ, chức sắc các tôn giáo ở địa phương.
Tình hình tôn giáo ở huyện Cư Kuin tỉnh Đăk Lăk
Năm 2014 trên địa bàn huyện có ba tôn giáo được nhà nước công nhận
và cho phép hoạt động: Đạo Công giáo, Đạo Tin lành và Đạo Phật… Tổng số
tín đồ của ba tôn giáo chính trên toàn huyện 50.300 người chiếm 49,75% dân
số toàn huyện, trong đó tín đồ là người đồng bào dân tộc thiểu số 19.365
người chiếm 19,15% dân số toàn huyện. Đến năm 2016, tổng số tín đồ của
ba tôn giáo chính trên toàn huyện 52.701 người chiếm 51,11% dân số toàn
huyện, trong đó tín đồ là người đồng bào dân tộc thiểu số 21.953 người
chiếm 21,29% dân số toàn huyện.
So với cả tỉnh, các tôn giáo ở huyện Cư Kuin chiếm tỷ lệ lớn nhưng ít
phức tạp, cộng đồng các tôn giáo trên địa bàn huyện sống hòa thuận, luôn
đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống và trong sản xuất.
Tại huyện Cư Kuin nhìn chung mọi tôn giáo đều hoạt động bình đẳng
trong khuôn khổ pháp luật. Chức sắc, tín đồ các tôn giáo luôn tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, dưới sự quản lý của các cấp chính quyền, các tôn giáo tích
cực tham gia các phong trào phát triển kinh tế, xã hội, hoạt động từ thiện nhân
đạo, góp phần vào việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Một
số cơ sở thờ tự của các tôn giáo được phép xây dựng, sửa chữa khang trang
đẹp đẽ hơn, đáp ứng nguyện vọng, tâm linh của đồng bào có đạo.

15



Tuy nhiên bên cạnh những mặt hoạt động tích cực đó, trong hoạt động
các tôn giáo còn có xu hướng tăng cường củng cố các tổ chức giáo hội, củng
cố đức tin tôn giáo, tích cực truyền đạo phát triển tín đồ; khuyếch trương
thanh thế, mở rộng địa bàn; một số cơ sở thờ tự của các tôn giáo tự ý cơi nới,
sửa chữa trái phép khi chưa có sự nhất trí của chính quyền; vẫn còn hiện
tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan trục lợi cho
cá nhân,…những hiện tượng đó làm ảnh hưởng đến hoạt động tôn giáo lành
mạnh, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an của địa phương.
4.1.2.2.Đặc điểm tín đồ chức sắc của huyện Cư kuin tỉnh Đăk Lăk
Huyện Cư kuin chủ yếu có 03 tôn giáo, đó là Phật giáo, đạo Công giáo,
đạo Tin lành. Tín đồ và chức sắc của các tôn giáo ở địa phương tất nhiên có
những đặc điểm mang tính phổ biến với tín đồ, chức sắc các tôn giáo trong cả
nước, đồng thời ở họ cũng có những đặc điểm mang tính đặc thù và đơn nhất.
Trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể, khái quát một số đặc điểm tính đặc thù
và đơn nhất của đồng bào các tôn giáo ở huyện Cư Kuin như sau:
Thứ nhất; đồng bào các tôn giáo ở huyện Cư Kuin đều có tinh thần yêu
nước, yêu buôn làng quê hương; có tinh thần đoàn kết cộng đồng theo từng
tôn giáo và theo địa bàn, vùng dân cư.
Thứ hai; với tư cách là tín đồ, đồng bào các tôn giáo trên địa bàn huyện
Cư Kuin đều thể hiện tinh thần “ngoan đạo”; có trách nhiệm rất cao đối với
giáo hội, chức sắc của tôn giáo mình; họ ngày càng yên tâm sinh hoạt, hoạt
động tôn giáo với tinh thần “đẹp đạo” khi mà quyền tự do tín ngưỡng là
quyền con người.
Thứ ba; với tư cách là công dân của nhà nước, tín đồ, chức sắc các tôn
giáo ở huyện Cư Kuin đều thể hiện đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm công dân
của mình qua các việc làm hàng ngày và qua các phong trào cụ thể ở các địa
phương, với tinh thần “tốt đời”.
Thứ tư; đồng bào các tôn giáo ở Cư Kuin chiếm tỷ lệ khá cao, khoảng

34% dân số toàn huyện, mà chủ yếu là nông dân, trong đó có khá đông lại là

16


đồng bào các dân tộc thiểu số, thế nên trình độ học vấn, kiến thức khoa học –
công nghệ và trình độ văn hoá chính trị - dân chủ còn có nhiều hạn chế.
Thứ năm; tính chất đan xen các vấn đề dân tộc và tôn giáo trong đồng
bào tôn giáo ở huyện Cư Kuin, mà rõ nhất là trong bộ phận đông đảo đồng
bào các dân tộc thiểu số, nếu có trường hợp công tác lãnh đạo, quản lý xã hội
địa phương có sơ hở, thiếu sót, thì rất có thể sẽ trở thành những hoạt động cực
đoan, phức tạp, đặc biệt là nếu có sự kích động của những đối tượng lợi dụng,
hoặc quá khích.
Những đặc điểm trên đây của tín đồ, chức sắc tôn giáo ở huyện Cư
Kuin cũng giống như các tôn giáo tại các địa bàn khác, đều do hình thành trên
cơ sở của giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức của mỗi tôn giáo; của môi
trường xã hội – tôn giáo mà mỗi tôn giáo tồn tại và của yếu tố dân tộc, dân cư
cụ thể.
Việc nắm vững những đặc điểm chung – riêng của tín đồ, chức sắc các
tôn giáo trên địa bàn, cũng như tính quy định đối với những đặc điểm ấy, trở
nên có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác tôn giáo nói chung và công tác
vận động tín đồ tôn giáo nói riêng, của hệ thống chính trị huyện Cư Kuin hiện
nay. Cụ thể hơn, đối với công tác vận động đồng bào tôn giáo, để họ chủ động
tham gia một cách tích cực vào công cuộc xây dựng nông thôn mới, thì những
đặc điểm của tín đồ, chức sắc các tôn giáo như khái quát trên đây, sẽ trở thành
một yếu tố vận dụng được chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội quan tâm hàng đầu
và xuyên suốt trong công tác chỉ đạo, điều hành mọi quá trình xây dựng nông
thôn mới.
4.1.2.3. Nội dung vận động tín đồ tôn giáo ở huyện Cư Kuin hiện nay
Khái niệm “công tác vận động tín đồ tôn giáo” và “công tác vận động

tín đồ tôn giáo xây dựng nông thôn mới”
Khái niệm “công tác vận động tín đồ tôn giáo”
Vận động đồng bào tôn giáo thuộc vào khái niệm dân vận hay công tác
dân vận, của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Dân vận là vận động tất cả
lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành
17


lực lượng toàn dân, để thực hiện những công việc nên làm, những công việc
Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho [9; tr.698].
Để hiểu thế nào là “công tác vận động tín đồ tôn giáo”, chúng tôi dựa
vào các khái niệm “vận động quần chúng”, “dân vận” và “công tác dân vận”.
Theo đó: Công tác vận động tín đồ tôn giáo là công tác dân vận của cả hệ
thống chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội), đối với đối tượng là tín đồ tôn giáo nhằm đạt tới mục tiêu đại đoàn
kết toàn dân tộc, thúc đẩy cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Ở đây, tín đồ tôn giáo được chúng tôi hiểu theo nghĩa rộng, đó là “quần
chúng tín đồ tôn giáo” của Đảng ta, do đó bao gồm cả tín đồ bình thường, là
giáo dân, với tín đồ “đặc biệt”, là chức sắc tôn giáo. Hơn nữa, chức sắc tôn
giáo, theo cách hiểu chung nhất, thì họ trước hết cũng phải là tín đồ tôn giáo.
Khái niệm “công tác vận động tín đồ tôn giáo xây dựng nông thôn mới”
Từ các khái niệm “dân vận” và khái niệm “công tác vận động tín đồ tôn
giáo”, chúng tôi đi tới những quan niệm về “Công tác vận động tín đồ tôn
giáo xây dựng nông thôn mới”. Từ phương diện là một khái niệm, chúng tôi
hiểu và định nghĩa về “Công tác vận động tín đồ tôn giáo xây dựng nông thôn
mới” như sau: “Công tác vận động tín đồ tôn giáo xây dựng nông thôn mới là
quá trình Đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, thuộc
hệ thống chính trị, sử dụng tổng hợp các nội dung, hình thức và phương pháp
nhằm vận động tín đồ tôn giáo thực hiện chương trình xây dựng nông thôn
mới đạt chuẩn nông thôn mới theo bộ tiêu chí quốc gia năm 2015”.

Định nghĩa trên của chúng tôi đã làm rõ về chủ thể vận động tín đồ là các
tổ chức thuộc hệ thống chính trị; đối tượng – khách thể vận động là tín đồ,
chức sắc tôn giáo; công cụ vận động là những nội dung, hình thức, phương
pháp vận động cụ thể; còn mục đích vận động là hiện thực hoá mục tiêu quốc
gia chương trình xây dựng nông thôn mới của Đảng, nhà nước Việt Nam.
Khái niệm này được tác giả áp vào, vận dụng tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk
Lăk hiện nay.
18


Nội dung công tác vận động tín đồ tôn giáo xây dựng nông thôn mới ở
huyện Cư Kuin
Mục đích của công tác vận động tín đồ tôn giáo xây dựng nông thôn mới
ở huyện Cư Kuin là nhằm động viên đồng bào các tôn giáo tham gia, cả về
tinh thần và vật chất, vào việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện, để
hiện thực hoá chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của
Đảng, Nhà nước Việt Nam và của tỉnh Đăk Lăk cũng như của huyện Cư Kuin
hiện nay.
Từ mục đích đó và trên cơ sở những nội dung chỉ dẫn về công tác vận
động tín đồ tôn giáo nói chung, đồng thời dựa vào nhiệm vụ xây dựng nông
thôn mới ở huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk, gồm những nội dung cơ bản sau:
Một là, tổ chức tuyên truyền, phổ biến cho tín đồ, chức sắc các tôn giáo
trên địa bàn nhận thức đầy đủ về chủ trương, chính sách, chương trình của
Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn đạt chuẩn nông thôn mới ở huyện Cư
Kuin
Theo đó, công tác vận động tín đồ tôn giáo ở huyện Cư Kuin phải quán
triệt quan điểm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhằm phát huy
quyền làm chủ của các tín đồ trong việc xây dựng nông thôn mới. Qua đó,
đồng bào các tôn giáo có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh, chấp hành mọi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đóng

góp ý kiến xây dựng nông thôn mới phù hợp với quyền và lợi ích của toàn
dân nói chung, của tín đồ tôn giáo nói riêng. Qua đó, đồng bào tôn giáo ở địa
phương nhận thức được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân.
Hai là, tổ chức vận động tín đồ tôn giáo chủ động tích cực tham gia
xây dựng nông thôn mới theo bộ tiêu chí nông thôn mới năm 2015
Nội dung này có yêu cầu nâng cao vị trí phối kết hợp thực hiện các nhiệm
vụ xã hội giữa các tôn giáo với nhau, giữa các tổ chức xã hội trên địa bàn.
Tuyên truyền, hướng dẫn động viên tín đồ có sự gắn kết chặt chẽ tạo nên sự
nhất trí cao trong cộng đồng dân cư, tạo ra sự thống nhất trong các hoạt động
19


×