Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Phát triển sản phẩm và dịch vụ thông tin tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.31 KB, 72 trang )

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN THƯ VIỆN TẠI
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
1.1. Tổng quan về Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh trực thuộc Ban chấp
hành Trung ương Đảng và Chính phủ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, là
trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý chủ chốt bậc trung cao cấp,
cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội, đồng
thời là trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lí luận Mác – Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu
về khoa học chính trị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, đồng thời phát
triển lý luận, tổng thể thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định
đương lối chính sách của Đảng và Nhà nước
Cơ cấu tổ chức bộ máy: Gồm 37 đơn vị trực thuộc Giám Đốc Học viện:
- 4 phân viện: Phân viện Hà Nội, phân viện Đà Nẵng , phân viện Tp Hồ Chí
Minh, phân viện Báo chí – Tuyên truyền.
- 7 khoa: Khoa Triết học, khoa Kinh tế chính trị, khoa Quản lý kinh tế, khoa
Kinh tế phát triển, khoa Nhà nước - pháp luật, khoa Tâm lý xã hội, khoa Văn hoá
xã hội chủ nghĩa.
-

8 viện: Viện Lịch sử Đảng, Viện Xây dựng Đảng, Viện Chủ nghĩa xã hội

khoa học, Viện quan hệ quốc tế, Viện Hồ Chí Minh và các lãng tụ của Đảng, Viện
Khoa học chính trị, Viện Kinh điển Macxit, Viện Thông tin khoa học.
- 7 vụ: Vụ tổ chức cán bộ, Vụ Quản lý đào tạo, Vụ Quản lý đào tạo sau đại
học, Vụ Quản lý khoa học, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Các trường chính trị.
- 3 trung tâm: Trung tâm xã hội học, trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn
giáo, trung tâm nghiên cứu quyền con người.
- 2 bộ môn: Bộ môn tin học, bộ môn Ngoại ngữ
1




- 2 tạp chí: Tạp chí lịch sử Đảng, Tạp chí lý luận Chính trị
- 2 văn phòng: Văn phòng học viện, Văn phòng Đảng ủy công đoàn
- 1 ban thanh tra
- 1 nhà xuất bản lý luận chính trị.
1.1.1. Vai trò và nhiệm vụ của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh
* Về đào tạo cán bộ:
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung cao cấp của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội về chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, về khoa học
chính trị và lãnh đạo chính trị.
- Đào tạo bồi dưỡng các cán bộ khoa học lý luận chính trị có trình độ đại học,
sau đại học (Thạc sĩ, Tiến sĩ ) nhằm cung cấp cán bộ chủ chốt cho các cơ quan lãnh
đạo và các viện nghiên cứu khoa học xã hội, đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
cho các trường đại học, cao đẳng, các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, các trường bồi dưỡng cán bộ quản lý của các bộ. ngành và đoàn thể.
- Đào tạo và bồi dưỡng ở bậc đại học, bậc sau đại học những cán bộ chủ chốt
trên lĩnh vực báo chí, xuất bản, tuyên truyền, cán bộ làm công tác tư tưởng tổ chức,
kiểm tra, dân vận, văn phòng, cán bộ lãnh đạo, cán bộ lý luận, quản lý cho một số
nước ban, đảng bạn.
* Về nghiên cứu khoa học:
- Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối của Đảng, thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam; nghiên cứu
phong trào cách mạng thế giới và các quan hệ quốc tế; nghiên cứu chính trị học nói
chung.
- Phối hợp với Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban khoa giáo trung
ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội đồng Lý luận Trung ương chỉ đạo tổ chức biên


2


soạn giáo trình, đổi mới nội dung chương trình học tập về các môn khoa học Mac –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng.
- Hướng dẫn nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng ở các địa phương và các
bộ, ban, ngành trung ương.
- Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu khoa học với các
nước, các đảng cộng sản và phong trào cách mạng, các đảng cánh tả trên thế giới.
- Tổ chức nghiên cứu tổng kết và thông tin những vấn đề lý luận, thực tiễn
trong nước và quốc tế, những kết quả nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Viện Thông tin khoa học
Viện thông tin khoa học có lịch sử hình thành và hoạt động khá lâu dài trong
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Trải qua hơn 55 năm xây
dựng và trưởng thành, Viện thông tin khoa học đã trải qua nhiều biến đổi:
Năm 1949, khi trường Nguyễn Ái Quốc được thành lập thì hoạt động thông
tin-tư liệu cũng được hình thành. Đầu năm 1961, nhà trường đã thành lập Phòng Tư
liệu - Thư viện trực thuộc Ban giám hiệu (tháng1- năm 1962), tiền thân của Viện
thông tin khoa học ngày nay.
Ngày 15 tháng 4 năm 1978 Ban giám đốc trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái
Quốc đã kí kết quyết định số 48 về việc thành lập Vụ Tư liệu trực thuộc Giám đốc
nhà trường. Trên cơ sở phòng Tư liệu trước đó, Vụ được chia làm 4 phòng: phòng
nghiên cứu sưu tập và biên dịch; Phòng lưu trữ - thư viện; phòng in ấn - phát hành,
phòng Tư liệu - thư viện.
Năm 1986, trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Học viện
Khoa học xã hội Nguyễn Ái Quốc. Học viện đã đầu tư xây dựng đề án cải tổ công
tác thông tin, xây dựng bộ máy làm công tác thông tin, với sự tham gia tích cực và
hiệu quả của Ban lãnh đạo Vụ Tư liệu. Ban Giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc
đã ra quyết định số 06 ngày 5 tháng 7 năm 1988: chuyển Vụ Tư liệu thành trung
tâm thông tin - Tư liệu trực thuộc Ban Giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc.


3


Ngày 10 tháng 3 năm 1993. Bộ Chính trị ra quyết định số 61/QĐ-TW “ Về
việc sắp xếp lại các trường Đảng Trung ương chuyển thành Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh ” nhằm tăng cường vai trò, nhiệm vụ của các trường Đảng,
đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.
Tháng 5 năm 1997, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh hợp nhất với
Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Mác –Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (56B Quốc Tử
Giám). Trung tâm Thông tin – Tư liệu cũng hợp nhất với Viện thông tin khoa học
và lấy tên gọi là Viện thông tin khoa học như hiện nay.
Ngày 7 tháng 5 năm 2007, Bộ Chính trị ra Quyết đinh 60/QĐ-TW về việc hợp
nhất Học viện Hành chính Quốc gia và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
thành Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Học viện CT-HC
QGHCM ) đồng thời có ban hành văn bản về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Học
viện trong thời gian tới. Cùng với quyết định này Viện thông tin khoa học (Viện
TTKH) cũng ít nhiều có sự thay đổi.
Cơ cấu tổ chức của Viện thông tin khoa học:
Hiện tại đội ngũ cán bộ của Viện TTKH gồm 22 người kể cả 2 hợp đồng thời
vụ (19 nữ, 3 nam) , trong đó trình độ tiến sĩ : 01; 06 trình độ thạc sĩ; 02 cán bộ đang
bảo vệ luận văn thạc sĩ ; 09 trình độ cử nhân; 03 cao đẳng ; Đa số cán bộ công chức
ở đây đều tốt nghiệp ngành thông tin thư viện nên nắm bắt và vận dụng kịp thời
kiến thức của ngành. Bên cạnh đó lãnh đạo Viện cũng như Viện (mở các lớp và mời
giảng thuộc chuyên ngành thông tin thư viện về giảng dạy tại Học viện, cho các cán
bộ ra các Trung tâm thông tin hoặc các cơ quan về thư viện học..).
Cơ cấu tổ chức của Viện TTKH ngoài phó Viện trưởng Viện Thông tin khoa
học cùng sinh hoạt, có thể thấy thông qua sơ đồ sau:

4



Chủ nhiệm thư viện
(01)

Phó chủ nhiệm thư
viện
(02)
Tổ xử lý kỹ

Tổ bạn đọc

Tổ Phát hành Báo – Tạp
chí

thuật

Ph
P
Ph
P
Phòn
Ph
P
P
òng kỹ
òng đọc
g phát
òng
hòng hòng hòng hòng

thuật
nghiêp
sách
hành báo,
mượn
đọc đọc mượn đọc
vụ và
tổng
kinh
tạp chí +
sách
trực
tổng sau
ứng
dụng mã học tập
hợp tuyến
điển
Quầy sách
hợp đại
- Tổ nghiệp vụ (còn gọi là tổ xử lý kỹ thuật): gồm 04 cán bộ thực hiện các
vạch
học
19/5
công việc: bổ sung, phân loại và xử lý kỹ thuật, phục vụ tra cứu trên máy tính, in
phích và thông báo sách mới. Các loại tài liệu được xử lý gồm: sách, luận văn, luận
án, đề tài nghiên cứu khoa học.
- Tổ phát hành báo - tạp chí : gồm 02 cán bộ chuyên trách có nhiệm vụ đặt và
bổ sung báo - tạp chí, phát hành Thư mục trích báo - tạp chí. Theo đơn đặt, báo –
tạp chí về Thư viện được phân loại theo tên và có sự lựa chọn loại báo - tạp chí nào
đóng lưu mới đưa ra để xử lý, bài trích được nhập thẳng vào phần mềm ISIS, không

có biểu hiện ghi và không làm tóm tắt.

5


Ngoài ra, cơ cấu của tổ còn có một quầy sách (Quầy sách 19/5 đặt ngay trong
khuôn viên Học viện) do 01 cán bộ thư viện đảm nhận.
- Tổ bạn đọc: Gồm 7 cán bộ, chia làm 6 phòng (3 phòng đọc truyền thống, 2
phòng mượn và 1 phòng đọc trực tuyến) để phục vụ bạn đọc về tài liệu đồng thời
phục vụ sao chụp tài liệu.
+ Phòng đọc tổng hợp: gồm 2 cán bộ vừa làm công tác phục vụ bạn đọc vừa
sao chụp tài liệu tại tầng 2 của viện
+ Phòng đọc sau đại học: có 1 cán bộ
+ Phòng mượn tổng hợp: có 2 cán bộ (gồm 1 đồng chí trong biên chế và 1
đồng chí hợp đồng thời hạn với Viện).
+ Phòng mượn sách học tập: có 1 cán bộ
+ Phòng đọc sách kinh điển: có 1 cán bộ. Việc phục vụ của phòng này phụ
thuộc vào các lớp kinh điển do Học viện mở. Đối tượng phục vụ chủ yếu là các cán
bộ công tác tại Học viện và các Viện trực thuộc đang học tập tại các lớp bồi
dưỡng ,nâng cao kiến thức về các tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin
+ Phòng đọc trực tuyến: có 1 cán bộ. Phòng này do Chính phủ Hàn Quốc tài
trợ thông qua KOICA, được khai trương và đưa vào sử dụng từ cuối tháng 12 năm
2007. Phòng được trang bị hệ thống máy tính hiện đại có khả năng kết nối cao
nhằm phục vụ cán bộ và học viên trong Học viện trong quá trình tra cứu, tìm tin
trực tuyến.
1.1.3. Đặc điểm hoạt động thông tin thư viện tại học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh
* Nguồn lực thông tin
Trong hoạt động thông tin – thư viện, nguồn lực thông tin có vai trò vô cùng
quan trọng, là cơ sở để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin, hợp tác, chia sẻ

nguồn lực thông tin giữa các cơ quan thông tin thư viện.

6


Các nguồn lực thông tin được thư viện tạo lập và triệt để khai thác trong quá
trình chia sẻ nguồn lực thông tin là phương tiện hữu hiệu để tiến hành các hoạt
động thông tin - thư viện.
Nguồn lực thông tin đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý và nghiên
cứu khoa học. Ngày nay tri thức của nhân loại phát triển theo cấp số nhân và ngày
càng được ứng dụng vào thực tiễn với tốc độ nhanh hơn. Mọi lĩnh vực hoạt động
của con người, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý và nghiên cứu khoa học sẽ không
thực hiện được hoặc thực hiện không có hiệu quả nếu thiếu thông tin và tri thức.
Chính vì vậy, việc tạo lập nguồn lực thông tin đầy đủ và trang bị thông tin hiện đại
sẽ giúp cho các nhà khoa học rất nhiều.
Trong hoạt động thông tin và nghiên cứu khoa học tại Học viện CT-HC
QGHCM, nguồn lực thông tin đầy đủ có vai trò và tầm quan trọng đặc biệt.
Hoạt động thông tin tại Học viện CT-HC QGHCM tiến hành nhằm phục vụ
công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực lý luận chính trị và khoa học xã hội
nhân văn, đồng thời phục vụ các học viên và cán bộ sinh viên bên ngoài của Học
viện. Là một thư viện chuyên ngành lý luận chính trị và khoa học xã hội- nhân văn,
thư viện cần phải khai thác nhiều nguồn thông tin, nhiều kênh thông tin khác nhau
phản ánh đối tượng nghiên cứu dưới nhiều góc độ, nhiều quan điểm khác nhau. Các
nguồn thông tin đó giúp nhà nghiên cứu có thể rút ra được các kết luận, nhận định
khách quan phản ánh bản chất của vấn đề. Nếu thiếu thông tin cần thiết hoặc nguồn
thông tin bị hạn chế thì các công trình nghiên cứu tại Học viện sẽ không đủ cơ sở
khoa học để đi tới những kết luận khách quan.
Sự bùng nổ thông tin dẫn đến lượng thông tin và kênh thông tin ngày càng
phong phú, đa dạng. Nội dung thông tin cũng trở nên lỗi thời nhanh hơn, người
dùng tin là nhà khoa học cần được tiếp cận với nhiều nguồn, nhiều dạng thông tin

khác nhau nhung cũng rất cần phải có sự định hướng, giúp đỡ lựa chọn và khai thác
thông tin có hiệu quả. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, Phòng thư viện ý
thức được tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lực thông tin, “ tổ chức thu
7


thập, chọn lọc, lưu trữ các dạng nguồn tin trong nước và ngoài nước liên quan đến
khung đề mục ưu tiên và phù hợp với trình độ, thích hợp với điều kiện của đất
nước. Đẩy mạnh quá trình tạo lập và làm giàu vốn tài nguyên thông tin quốc gia ”.
Nguồn lực thông tin của thư viện được chia thành 3 nhóm chính:
- Nguồn thông tin văn bản (sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án): Nguồn lực
thông tin của thư viện đã được thừa kế và chọn lọc trong hơn 45 năm xây dựng và
trưởng thành(1962-2012) và ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng, là
nguồn tin chính của thư viện. Nguồn tài liệu này được chia làm 2 loại:
+ Tài liệu công bố hay còn gọi là tài liệu xuất bản thường do các nhà sản xuất
ban ấn hành và thường được đánh chỉ số ISBN hoặc ISSN, được phân phối qua các
kênh phát hành chính thức như các nhà xuất bản, các công ty, các đại lý phát hành,
hiệu sách… Hiện nay, ở thư viện có số lượng tài liệu dạng này lên tới hàng trăm
ngàn cuốn sách. Trung bình mỗi đợt thư viện bổ sung khoảng 60 tên sách với gần
400 cuốn (mỗi tên sách được nhập từ 3 đến 5 cuốn)
Ngoài ra thư viện còn bổ sung một số lượng báo tạp chí khá lớn. Trung bình
mỗi năm thư viện bổ sung trên 90 tên báo, khoảng 85 tên tạp chí Tiếng Việt, báo
tạp chí ngoại văn khoảng gần 60 tên với nhiều thứ tiếng như : Trung, Nga, Pháp,
Anh….
+ Tài liệu không công bố hay còn gọi là tài liệu “xám”, là tất cả các tài liệu
được đưa ra bởi các cơ quan chính phủ, các Viện nghiên cứu, các Trường Đại học,
các tổ chức thương mại công nghiệp dưới dạng in của điện tử và không kiểm soát
được bởi các nhà xuất bản thương mại với hàng ngàn luận án, luận văn, đề tài
nghiên cứu…
Nội dung thông tin trong các tài liệu xám thường rất đa dạng, phong phú, chứa

đựng kinh nghiệm đã tích lũy trong quá trình hoạt động nghiên cứu khoa học, sản
xuất. Việc tiếp cận với các nguồn thông tin này có ý nghĩa to lớn giúp các nhà quản
lý, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu giảm được thời gian công sức và tiền của
để có được nguồn thông tin quý giá này.
8


Từ trước đến nay, nguồn tài liệu “xám ”của Học viện là các luận án Tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ của các cán bộ nghiên cứu, tài liệu hội nghị, hội thảo khoa học, bản
dịch các tài liệu nước ngoài… Trải qua quá trình hoạt động và phát triển, nguồn lực
thông tin của Viện thông tin khoa học đã phát triển không ngừng, ngày càng phong
phú về số lượng và chất lượng với nhiều loại hình tài liệu khác nhau.
- Nguồn thông tin điện tử (băng từ, CD- ROM, CSDL): Công nghệ thông tin
đã thâm nhập và làm biến đổi sâu sắc các quy trình thông tin thư viện, làm thay đổi
phương thức làm việc của cán bộ thư viện và của người dùng tin. Đó là việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào việc tự động hóa các quá trình xử lý, lưu trữ và phổ
biến thông tin tư liệu. Nguồn tài liệu điện tử có ưu điểm rõ rệt so với tài liệu được
xuất bản dưới dạng giấy, tài liệu điện tử còn được truyền trong các mạng máy tính.
Cùng với sự trưởng thành và phát triển của học viện, Viện TTKH đã từng
bước tăng cường chất lượng vốn tài liệu, hoàn thiện bộ máy tra cứu, nâng cao chất
lượng phục vụ bạn đọc, là một trong những thư viện đi đầu trong quá trình tin học
hóa hoạt động thông tin - thư viện. Nguồn lực thông tin của thư viện ngày càng đa
dạng và phong phú, ngoài các nguồn tài liệu văn bản truyền thống, ngày nay nguồn
tin đã được bổ sung thêm các dạng thức điện tử. Nhận thức được vai trò của nguồn
lực thông tin điện tử, Viện thông tin khoa học đã tích cực triển khai xây dựng cơ sở
dữ liệu từ năm 1992. Đến nay Viện thông tin đã tiến hành xây dựng được một số cơ
sở dữ liệu như CSDL SACHTV,TM… Các CSDL này được tổ chức trên hệ quản trị
dữ liệu CDS-ISIS for Windows với các quy định thống nhất về format, biểu mẫu,
nhã trường và thường xuyên được cập nhật, có hiệu đính, bổ sung và sửa chữa.
Ngoài các CSDL dạng thư mục trên máy tính thư viện còn có CSDL toàn văn

Hồ Chí Minh toàn tập.
- Nguồn thông tin khác (phim, ảnh, băng đĩa…): Nguồn thông tin này bao gồm
tranh, ảnh tư liệu, phim, băng hình, băng tiếng, bản đồ… được lưu trữ chủ yếu ở
phòng Tổng hợp lưu trữ.
9


* Cơ sở vật chất, trang thiết bị
Cơ sở vật chất được hiểu như là trụ sở, là hệ thống văn phòng, kho tàng,
phòng đọc tài liệu,,, dành cho thư viện với toàn bộ trang thiết bị của chúng. Cơ sở
vật chất, trang thiết bị là tài sản, là nguồn vật lực của một thư viện và là một trong
những yếu tố cấu thành thư viện. Không có cơ sở vật chất, trang thiết bị sẽ không
thể xây dựng một thư viện, đặc biệt là thư viện truyền thống. Một cơ sở vật chất
khang trang sẽ giúp thư viện phát triển và phục vụ tốt hơn nhu cầu dùng tin của
người dùng tin.
Trong suốt quá trình xây dựng phát triển, Viện TTKH hiện nay đã có một cơ
sở vật chất, trang thiết bị khang trang. Ngoài các phòng làm việc dành cho cán bộ
(tổ xử lý kỹ thuật, tổ phát hành báo, tạp chí), thư viện gồm 3 phòng đọc (phòng đọc
sách kinh điển, phòng đọc tổng hợp và phòng mượn tổng hợp, phòng đọc sau đại
học), 2 phòng mượn (phòng mượn sách học tập và phòng mượn sách tổng hợp), 6
kho sách các loại. Ngoài ra thư viện cũng được trang bị một số máy móc nhằm
phục vụ cho bạn đọc như máy vi tính, máy photo.
Về trụ sở của Viện TTKH được xây dựng trong tòa nhà 3 tầng với khoảng
1250m2 mặt sàn sử dụng bao gồm
Hệ thống phòng đọc
* Một phòng đọc tổng hợp: 170 m 2 với 80 bàn đọc (trong đó 56 bàn đọc dạng
cabin) để người dùng tin làm việc được trang bị hệ thống chiếu sáng và điều hòa
nhiệt độ. Đây là phòng đọc tài liệu tham khảo và báo tạp chí đầy đủ nhất (sách
được phục vụ dưới dạng kho đóng và báo tạp chí được phục vụ dưới dạng kho mở)
* Một phòng đọc tra cứu sau đại học: diện tích 80m 2 với 40 chỗ ngồi dành

cho cán bộ và học viên sau đại học, nghiên cứu sinh. Đây là phòng đọc kết nối với
kho tài liệu (chủ yếu là luận văn, luận án và sách tham khảo). Phòng đọc trang bị 6
máy tính (4 máy dành cho học viên tra cứu trực tuyến và 2 máy cho thủ thư). Hệ
thống điều hòa và chiếu sáng đầy đủ điều kiện cho một phòng đọc tại chỗ.

10


* Phòng đọc trực tuyến: Có diện tích 80m 2 với 16 bàn đọc gắn với máy tính và
các thiết bị kèm theo do Chính phủ Hàn Quốc tài trợ trong dự án Thư viện điện tử
qua tổ chức Koica
Hệ thống kho tàng:
* Kho phòng mượn sách kinh điển: có diện tích 150m 2, là nơi lưu trữ những
tài liệu của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng và Nhà nước ta, các tài liệu văn kiện Đại hội, hội nghị Trung
ương… Đây là một kho tài liệu khá đặc thù của Thư viện trường chính trị.
* Kho sách phòng mượn tổng hợp: có diện tích 220m 2 (chia thành 2 phòng), là
nơi lưu trữ các sách tham khảo, giáo trình các công cụ tra cứu…
* Kho tài liệu lưu trữ: có diện tích 80m 2 để lưu trữ các tài liệu nhiều bản như
sách kinh điển (Lê nin toàn tập) và một số tài liệu khác.
* Kho sách phòng đọc tổng hợp (nằm ở tầng 2 và tầng 3) có diện tích là
250m2, là kho tài liệu phục vụ cho phòng đọc tổng hợp là nơi lưu trữ đầy đủ nhất tài
liệu nghiên cứu, học tập trong thư viện.
* Kho sách sau đại học: với diện tích 90m 2 là kho tài liệu phục vụ cho phòng
đọc sau đại học nằm liền kề với phòng đọc sau đại học. Đây là nơi lưu giữ tất cả
luận văn, luận án do các học viên cao học và nghiên cứu sinh nộp lưu chiểu.
Hệ thống làm việc nghiệp vụ khác: Là nơi làm việc của cán bộ thư viện như:
bổ sung, xử lý kỹ thuật, phát hành báo tạp chí….với diện tích khoảng 130m2.
Trang thiết bị của thư viện:
Viện TTKH đang trong giai đoạn hiện đại hóa .Về cơ bản thư viện vẫn hoạt

động theo lối truyền thống như: vốn tài liệu là các sách báo in, được sắp xếp trên
giá. Hệ thống tra cứu vẫn sử dụng tủ phích mục lục, các thao tác phục vụ vẫn thực
hiện bằng phương pháp thủ công .
Từ năm 1998, Thư viện đã được trang bị 1 số máy tính cấu hình thấp để phục
vụ cho việc lưu trữ cơ sở dữ liệu dưới dạng thư mục, qua đó từng bước tự động hóa
hoạt động thư viện.
11


Giai đoạn từ năm 2000 đến 2006: Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
thư viện được đẩy mạnh, phát triển thêm một bậc mới, đặc biệt là sau dự án thư
viện điện tử giai đoạn 1. Nói là dự án thư viện điện tử nhưng thực chất cũng chỉ là
nâng cấp việc ứng dụng tin học và công nghệ ở thư viện tiến lên một chút vì dự án
chỉ có 4,5 tỉ đồng.
Về thiết bị phần cứng chỉ có một máy chủ loại vừa để quản trị mạng nội bộ
(Lan) trong Viện TTKH, số máy trạm được tăng thêm nên đã có một số máy được
đặt ở phòng đọc để người dùng tin có thể tra cứu thông tin trên mạng. Thư viện
được trang bị thêm một số thiết bị như máy in lade, hệ thống máy móc sử dụng
công nghệ mã vạch. Tuy nhiên những trang thiết bị này mới chỉ được sử dụng
khoảng 50% chức năng vì chưa hoàn thiện (do kinh phí hạn hẹp).
Từ năm 2006, có một dự án bổ sung tiếp theo Thư viện điện tử do chính phủ
Hàn quốc tài trợ thông qua tổ chức Koica thực hiện với lượng kinh phí 1,4 triệu
USD. Việc tin học hóa, tự động hóa thư viện đã có bước phát triển rõ rệt.
Thư viện cung cấp một số trang thiết bị hiện đại. Hệ thống với máy chủ cấu
hình cao, đủ sức lưu trữ và quản trị hệ thống cho việc phát triển nhiều năm của thư
viện. Hệ thống cáp mạng được thay mới. Hàng năm máy tính bàn (máy khách) thế
hệ mới được đưa vào hoạt động để xây dựng một phòng đọc trực tuyến được kết
nối với máy chủ, mạng cục bộ và internet, phục vụ đắc lực cho công tác chuyên
môn của cán bộ và việc tra cứu, tìm kiếm thông tin của người dùng tin.
Đến nay, mỗi cán bộ thư viện đều được trang bị một máy tính cá nhân. Dự án

Thư viện điện tử, phía Hàn quốc đã trang bị cho Thư viện hạ tầng cơ sở kỹ thuật
tương đối hiện đại gồm nhiều máy móc: máy in thẻ người dùng tin, máy
bookscanner, máy scan, máy đóng, máy cắt, máy in mã vạch, ổ ghi DVD, CD… và
các thiết bị viễn thông và văn phòng khác.
* Người dùng tin và nhu cầu tin
Người dùng tin tại Học viện CT-HC QGHCM chủ yếu là cán bộ nghiên cứu,
giảng dạy và toàn thể cán bộ công chức trong Học viện. Ngoài ra, Thư viện cũng
12


mở rộng phạm vi phục vụ đối với những đối tượng bên ngoài như cán bộ nghiên
cứu giảng dạy tại một số Học viện có chuyên ngành nghiên cứu gần giống Học viện
như: Học viện chính trị quân sự, trung tâm bồi dưỡng lý luận Đại học quốc gia,
Học viện Báo chí và tuyên truyền…
Người dùng tin tại Học viện có trình độ khác nhau vì vậy nhu cầu về sử dụng
ngôn ngữ tài liệu cũng khác nhau.
Bảng 1: Người dùng tin sử dụng các ngôn ngữ khác nhau tại Viện TTKH

Tiếng Anh

63

Phần
trăm(%)
64,94%

Tiếng Pháp

6


6,18%

Tiếng Nga

16

16,49%

Tiếng Trung
Các ngôn ngữ

4

4,12%

8

8,24%

Ngôn ngữ

Tổng
phiếu(97)

số

khác

( Theo số liệu thống kê của thư viện)
Qua bảng số liệu trên có thể thấy bên cạnh ngôn ngữ Tiếng Việt, tiếng Anh

được đông đảo bạn đọc sử dụng hơn cả chiếm (55,12%). Đứng thứ 2 là tiếng Pháp
(7,69%), tiếng Trung và tiếng Nga chiếm tỉ lệ rất thấp (1,28 %).
Người dùng tin của Học viện CT-HC QGHCM được chia theo các nhóm như
sau:
Nhóm cán bộ nghiên cứu và giảng dạy
Đây là nhóm người dùng tin chiếm tỉ lệ cao trong tổng số người dùng tin của
Thư viện Học viện CT-HC QGHCM. Công việc nghiên cứu, giảng dạy cũng như
các đề tài, dự án đòi hỏi các nhà khoa học phải chủ động tìm tòi những thông tin
cần thiết ,cập nhật tại các thư viện. Nhóm này quan tâm đến các vấn đề như lý luận
chính trị và các chuyên ngành khoa học xã hội chuyên sâu tại Học viện. Thông tin
dành cho đối tượng này rất đa dạng nhưng chuyên sâu, phù hợp với chuyên ngành

13


cũng như vấn đề mà họ nghiên cứu.Họ luôn yêu cầu được cung cấp những thông
tin mới, cập nhật, đầy đủ và chính xác.
Dạng tài liệu “xám” được đa số người dùng tin trong nhóm này rất quan tâm ,
như các công trình nghiên cứu ,báo cáo khoa học, thông tin chuyên đề, các kỷ yếu
hội nghị, hội thảo. Họ thường sử dụng chủ yếu là sách, tạp chí, tư liệu, các thông
tin chuyên đề, tài liệu dịch, thông tin trên internet. Họ cũng rất hay tìm kiếm thông
tin trong các dạng tài liệu cấp 2 như thư mục chuyên đề, thư mục thông báo sách
mới, tài liệu tổng thuật, lược thuật….Các tài liệu này giúp họ nhanh chóng nắm bắt
tình hình nghiên cứu trong, ngoài nước và lựa chọn, khai thác thông tin nhanh
chóng và thuận tiện.
Nhóm cán bộ quản lý
Đặc điểm của nhóm người dùng tin này là vừa đảm nhiệm chức năng lãnh
đạo, quản lý các Viện, Vụ … vừa trực tiếp tham gia hoặc làm chủ nhiệm các đề tài,
dự án, công trình nghiên cứu. Nhóm này chiếm một tỷ lệ không lớn song lại có vai
trò hết sức quan trọng vì họ là những người tổ chức thực hiện các kế hoạch nghiên

cứu của cơ quan góp phần đưa ra những kiến nghị và những cứ liệu khoa học nhằm
góp phần hoạch định các chính sách ...Để đảm đương nhiệm trong hoạt động quản
lý, nhóm người dùng tin là cán bộ lãnh đạo quản lí cần được cung cấp những thông
tin đầy đủ, chính xác và kịp thời. Ngoài những thông tin sâu về chuyên ngành, họ
còn cần những thông tin tổng hợp thuộc nhiều lĩnh vực như: thông tin về hệ thống
các văn bản pháp luật,chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về quản lý khoa học; chính sách ngoại giao, xu hướng phát triển nội tại của
khu vực, sự phát triển của khu vực trong mối quan hệ với bên ngoài; thông tin
nhanh, có tính dự báo về các vấn đề “nóng” của khu vực như bản tin “Những vấn
đề chính trị xã hội ”, “thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo)”; Các
thông tin đã được chọn lọc, xử lý, gia cố, “Tin nhanh”, “Tin tham khảo đặc biệt”,
thông tin chuyên đề, tổng quan, tổng luận…
Nhóm cán bộ, công nhân viên trong Học viện
14


Là đội ngũ cán bộ ở các đơn vị hậu cần. Họ đến đọc tài liệu với nhiều lí do
như để đọc tin tức, nắm bắt tình hình thời sự, truy cập internet, giải trí thư giãn…
Nhóm học viên
Là học viên của các lớp cao học, nghiên cứu sinh, các lớp cao cấp lí luận
chính trị… Khác với học viên ở các trường đại học, học viên ở Học viện phần lớn
đều là những người có trình độ đại học và trên đại học, trình độ lý luận cao đa số họ
là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các địa phương. Nhu cầu tin của đối tượng này rất đa
dạng, từ những tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về các ngành, tài liệu tham khảo đến
các loại tài liệu giải trí như tiểu thuyết ,thơ…
Nhóm người dùng tin bên ngoài Học viện.
Là những cán bộ học viện từ các trường đại học như: Học viện quan hệ quốc
tế, học viện Báo chí tuyên truyền,… Lý do lựa chọn thư viện Học viện chính trị
quốc gia làm nơi nghiên cứu được người dùng tin ở các đơn vị khác đưa ra là
nguồn tài liệu thư viện rất phong phú và cập nhật (nhất là mảng tài liệu xám), cơ sở

vật chất hiện đại, bộ máy tra cứu tốt và đội ngũ cán bộ thư viện thân thiện có
chuyên môn nghiệp vụ cao. Nhu cầu tin của nhóm đối tượng này là những tài liệu
chuyên sâu về các ngành khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là tài liệu về chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…
Nội dung nhu cầu tin của người dùng tin tại Học viện CT-HC QGHCM tương
đối phong phú đa dạng. Những lĩnh vực nghiên cứu mà người dùng tin quan tâm
nhất là: chính trị, kinh tế, văn hóa, quan hệ quốc tế bởi vì nó có liên quan trực tiếp
đến các công trình đề tài nghiên cứu hiện nay. Đặc điểm nhu cầu tin ảnh hưởng đến
cách lựa chọn tài liệu của họ.
1.2. Những vấn đề chung về sản phẩm và dịch vụ thông tin – thư viện
1.2.1. Khái niệm sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện
Sản phẩm thông tin thư viện
Bước vào thế kỷ XXI, khi thông tin trở thành một yếu tố tiên quyết tạo nên sự
thành công, thì cùng với đó các sản phẩm thông tin cũng ngày càng chứng tỏ được
15


vai trò của mình. Đó không chỉ là chiếc cầu nối giữa các trung tâm thông tin- thư
viện với người dùng tin mà còn là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá cho những đối
tượng người dùng tin biết khai thác và sử dụng
Mức độ thỏa mãn nhu cầu thông tin ở những sản phẩm khác nhau cũng rất
khác nhau. Ứng với mỗi mức độ, phương pháp sẽ tạo ra các sản phẩm thông tin
khác nhau.Nếu xử lý theo phương pháp thư mục,sản phẩm thông tin nhân được sẽ
là các mục lục, thư mục, tạp chí tóm tắt, chỉ dẫn khoa học và các cơ sở dữ liệu
(CSDL) tương ứng. Các sản phẩm tạo ra từ phương pháp xử lý này có thể đáp ứng
nhu cầu dạng tra cứu- chỉ dẫn. Xử lý thông tin dữ liệu cho sản phẩm thông tin là hệ
thống phiếu điều tra dữ liệu, danh mục và các CSDL tương ứng. Xử lý phân tích tin
cho các sản phẩm là tổng quan, tổng luận, các bản tin ,tạp chí…
Như vậy sản phẩm thông tin thư viện là kết quả của quá trình xử lý thông tin,
do một cá nhân hay một tập thể nào đó thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu của người

dùng tin. Quá trình xử lý thông tin được thực hiện thông qua các khâu nghiệp vụ
như : mô tả phân loại, đánh chỉ số, tóm tắt, tổng luận…
Dịch vụ thông tin thư viện
Trong hoạt động thông tin thư viện, dịch vụ được ra đời cùng lúc với sự hình
thành của các cơ quan thông tin thư viện. Theo đà phát triển của hoạt động thông
tin thư viện, dịch vụ thông tin thư viện ngày càng đa dạng hơn nhằm đáp ứng nhu
cầu khai thác thông tin tăng cao của người dùng tin.
Theo bách khoa toàn thư quốc tế về thư viện và thông tin học (international
encyclopedia of library an information science) “ dịch vụ thông tin bao gồm lý
thuyết và thực tiễn của việc cung cấp dịch vụ giúp kết nối những người tìm kiếm
thông tin với các nguồn tin ”
Theo từ điển giải nghĩa Thư viện học và tin học Anh Việt “ Dịch vụ thư viện
(library service) là một từ chung dùng để chỉ tất cả các hoạt động cũng như chương
trình được thư viện cung cấp để đáp ứng với nhu cầu về thông tin của cộng đồng
độc giả ”.
16


Như vậy, có thể khái quát: “ dịch vụ thông tin thư viện bao gồm những hoạt
động nhằm thỏa mãn những nhu cầu thông tin và trao đổi thông tin của người dùng
tin các cơ quan thông tin thư viện nói chung ”.[ Dịch vụ cung cấp thông tin theo
chuyên đề trang .24].
1.2.2. Mối quan hệ giữa sản phẩm và thông tin trong hoạt động thông tin thư
viện.
Sản phẩm và dịch vụ thông tin- thư viện là hai mặt hoạt động không thể thiếu
trong bất cứ một thư viện hay trung tâm thông tin nào , giữa chúng có mối quan hệ
hữu cơ chặt chẽ với nhau và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Sản phẩm dịch vụ thông tin- thư viện là một trong những cơ sở quan trọng để
cơ quan thông tin thư viện triển khai và phát triển các loại hình dịch vụ thông tin
thư viện khác nhau. Sản phẩm thông tin chính là một trong những nguồn khai thác

thông tin quan trọng và tin cậy nhất của cơ quan thông tin bởi vì đó là kết quả của
quá trình xử lý thông tin do cán bộ thông tin thư viện tiến hành. Đặc biệt, nhiều sản
phẩm thông tin thư viện có giá trị cao như các bài tóm tắt, dịch thuật, tổng luận, các
CSDL, dữ kiện… Chất lượng và sự phong phú của sản phẩm thông tin thư viện có
tác động lớn đến chất lượng và sự đa dạng của dịch vụ thông tin- thư viện trong cơ
quan thông tin.
Sản phẩm và dịch vụ thông tin- thư viện có mối quan hệ và sự tương tác qua
lại chặt chẽ . Đảm bảo sự phát triển cân đối, đồng bộ hệ thống sản phẩm và dịch vụ
của cơ quan thông tin thư viện là hết sức cần thiết. Chẳng hạn, cơ quan thông tin
thư viện có sản phẩm thông tin thư viện phong phú thì cần phát triển nhiều dịch vụ
thông tin thư viện thích hợp với tâm lý người dùng tin để nâng cao hiệu quả khai
thác sản phẩm. Ngược lại nếu muốn phát triển nhiều dịch vụ thông tin thư viện thì
cơ quan thông tin thư viện cần đảm bảo có các sản phẩm thông tin thư viện đa dạng
và có chất lượng tốt.
1.2.3. Vai trò của sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện

17


Sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện hỗ trợ đắc lực cho các đối tượng
người dùng tin là các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu giảng dạy trong học viện
tiếp cận với các nguồn tin trong khoảng thời gian ngắn nhất để từ đó nhanh chóng
triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ và cấp cơ sở.
Người dùng tin nói chung và trong Học viện nói riêng trong quá trình tìm
kiếm, tiếp cận các tài liệu của Viện TTKH vì những nguyên nhân khác nhau như
gặp rào cản ngôn ngữ ,không biết sử dụng bộ máy tra cứu, không có thời gian,…
không tiếp cận một cách đầy đủ với lượng thông tin khổng lồ trong thư viện. Thông
qua các dịch vụ thông tin - thư viện, người dùng tin sẽ có cơ hội và điều kiện thuận
lợi hơn trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực thông tin phục vụ cho hoạt động
thiết thực của mình .

Việc tạo dựng các sản phẩm và dịch vụ thông tin khá phong phú và đa dạng
đã tác động và kích thích nhu cầu khai thác sử dụng thông tin của mỗi cá nhân tập
thể thúc đẩy việc nghiên cứu tham gia triển khai các đề tài khoa học. Đó cũng là
động lực để thúc đẩy thư viện cải tiến và đẩy mạnh hoạt động của mình, nâng cao
vị thế và hình ảnh của cơ quan thông tin thư viện trong lòng người dùng tin.
Thực tiễn quá trình hoạt động thông tin-thư viện của Viện TTKH Học viện
CT-HC QGHCM đã cho thấy rằng việc triển khai nhiều loại sản phẩm và dịch vụ
thông tin thư viện phải đáp ứng được các nhu cầu cụ thể, chuyên biệt của người
dùng tin cá nhân cũng như cầu tin của tập thể, cơ quan tổ chức… Từ đó, cơ quan
thông tin thư viện sẽ có hướng xây dựng nguồn lực thông tin phù hợp, đầu tư cơ sở
vật chất, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, vốn tài liệu, tạo lập các sản phẩm và đa
dạng các dịch vụ thông tin thư viện phù hợp với nhu cầu của người dùng tin. Việc
cung cấp các sản phẩm thông tin phù hợp cho người dùng tin sẽ góp phần thỏa mãn
nhu cầu tin đa dạng của họ và kích thích thêm hứng thú sử dụng các nguồn lực
thông tin thư viện.
1.2.3. Yêu cầu đối với sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện ở Học viện.

18


Sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện là một hệ thống không ngừng thay
đổi, hoàn thiện và phát triển. Sở dĩ như thế là vì các yếu tố trực tiếp tác động và chi
phối dẫn đến sản phẩm và dich vụ thông tin cũng không ngừng thay đổi. Mặt khác
sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện cũng có khả năng khác nhau để đáp ứng
những yêu cầu khác nhau (nhu cầu trao đổi thông tin, nhu cầu cung cấp thông tin) ở
mức độ khác nhau( tra cứu, chỉ dẫn, nhu cầu về bản thân nội dung thông tin, tư vấn
thông tin…).
Sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện tại Học viện CT-HC QGHCM, ngoài
việc đảm bảo những yêu cầu kỹ thuật chung, còn phải được tổ chức phù hợp với
nhiệm vụ chính trị của Học viện và đặc điểm nhu cầu người dùng tin trong giai

đoạn mới. Cụ thể là:
Đảm bảo tính liên tục, định kì và thường xuyên của các sản phẩm và dịch
vụ thông tin.
Các sản phẩm và dịch vụ thông tin Học viện đã và đang hoạt động tương đối
hiệu quả và là nguồn thông tin quan trọng không thể thiếu cho người dùng tin trong
và ngoài Học viện. Việc đảm bảo tính liên tục, định kì và thường xuyên sẽ giúp
người dùng tin tiếp cận với thông tin một cách kịp thời và nhanh chóng, nó sẽ đảm
bảo tính chủ động trong hoạt động thông tin viện tại Học viện và các đối tượng
người dùng tin. Đây cũng là một hình thức để quảng bá, giới thiệu các sản phẩm và
dịch vụ thông tin tới đông đảo ngưới dùng tin trong Học viện.
Tìm hiểu xác định nhu cầu trước mắt, lâu dài của người dùng tin và đặt
ra những ưu tiên trong việc sản xuất thông tin đáp ứng yêu cầu của họ.
Bởi lẽ yêu cầu tin của người dùng tin trong Học viên luôn luôn biến động,
vốn tài liệu của thư viện cũng không ngừng thay đổi do việc bổ sung thêm hoặc
thanh lý. Yêu cầu đặt ra đối với người cán bộ làm công tác thư viện là phải phản
ánh chính xác sự biến động đó, việc xác định nhu cầu tin của người dùng tin hiện
tại và lâu dài sẽ giúp cho thư viện Học viện nắm bắt được tình hình nhu cầu tin của
người dùng tin để từ đó có thể đáp ứng đối đa những thông tin mà người dùng tin
19


yêu cầu. Việc nghiên cứu yêu cầu này sẽ giúp cho thư viện Học viện xác định mục
tiêu, chiến lược thông tin trong một vài năm tới.
Đưa ra các sản phẩm thông tin có chất lượng cao, tạo ra kỹ năng định
hướng vào thông tin và tri thức, các kênh cung ứng tài liệu mới nhằm hỗ trợ
việc nghiên cứu và học tập.
Đây là một trong những tiêu chí quan trọng trong việc tạo lập sản phẩm thông
tin. Các sản phẩm thông tin có chất lượng cao là những sản phẩm thông tin được
đông đảo người dùng tin sử dụng. Cán bộ thư viện lấy đó làm thước đo phát triển
của thư viện học viện.

Các sản phẩm và dịch vụ thông tin phải đảm bảo tính hiệu quả.
Mục đích cuối cùng của việc tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin là
hướng tới người dùng tin sử dụng.
Sản phẩm thông tin không mang tính tự thân mà sự phát triển hệ thống sản
phẩm trong Học viện là nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập và giảng dạy.
Hiệu quả của dịch vụ thông tin thư viện được đánh giá dựa trên tiêu chí chất lượng
dịch vụ. Chất lượng dịch vụ được đo bằng mức độ đầy đủ, chính xác, cập nhật và
thích hợp của thông tin với yêu cầu của người dùng tin. Mức độ thỏa mãn nhu cầu
tin của người ding tin và những lợi ích mà người sử dụng dịch vụ nhận được khi sử
dụng những thông tin do dịch vụ đó cung cấp chính là yếu tố quan trọng nhất đánh
giá chất lượng của sản phẩm và dich vụ thông tin – thư viện tại Học viện.

20


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN – THƯ VIỆN TẠI
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
2.1 Các sản phẩm thông tin
Sản phẩm và dịch vụ thông tin là hai khâu công tác luôn được đặt lên hàng
đầu với mỗi cơ quan thông tin nói chung và Viện thông tin khoa học nói riêng. Đó
không chỉ là hoạt động mang tính chuyên môn nghiệp vụ mà còn là hoạt động
mang lại nguồn thu lớn đặc biệt là trong cơ chế thị trường như hiện nay. Sản phẩm
và dịch vụ thông tin thư viện được xem là tập hợp các công cụ, phương tiện hoạt
động do cơ quan thông tin tạo ra thực hiện để xác định truy nhập, khai thác, quản lý
các nguồn, các hệ thống thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu của người dùng tin. Đó là
cầu nối giữa người dùng tin với nguồn tin và các hệ thống thông tin.
Việc xây dựng, phát triển các sản phẩm thông tin hướng tới người dùng tin,
phục vụ tốt công tác nghiên cứu, đào tạo tại Học viện CT-HC QGHCM là một
trọng tâm của công tác thông tin - tư liệu - thư viện ở Học viện hiện nay. Sản phẩm

thông tin không mang tính tự thân mà sự phát triển hệ thống sản phẩm này là nhằm
đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và phát triển của mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia.
Trong môi trường Học viện hệ thống sản phẩm phụ thuộc vào nhiệm vụ chính trị
của Học viện và yêu cầu phục vụ công tác nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, định hướng,
đường lối chính sách của Học viện.
Hiện tại Viện thông tin khoa học với tư cách là nhà cung cấp thông tin chính ở
học viện đã xây dựng và phát triển hệ thống sản phẩm thông tin từ truyền thống đến
hiện đại.
2.1.1. Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo)
Một trong hai chức năng cơ bản của Học viện là nghiên cứu lý luận chính trị
(phục vụ lãnh đạo), trong điều kiện hiện nay công tác này đặc biệt được coi trọng
và đặt ngang hàng với công tác giảng dạy và đào tạo.
21


Thông tin những vấn đề về lý luận (phục vụ lãnh đạo) là thông tin về các học
thuyết, các tư tưởng chính trị trong lịch sử và hiện tại; về hoạt động lý luận, về
những vấn đề liên quan trực tiếp đến lý luận và hoạt động lý luận, nhằm phục vụ
cho các cấp lãnh đạo, cán bộ nghiên cứu trong học viện.
Bản tin “Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo)” là ấn phẩm chủ
yếu của Học viện. Đây là ấn phẩm có giấy phép xuất bản do Bộ Văn hóa thông tin
cấp từ năm 1988, ra định kỳ 1 số /1 tháng (hiện nay là 2 tuần /1 số), với số lượng
phát hành là 500-700 bản /1số. Bản tin này đề cập đến những vấn đề lý luận, chính
trị đang được quan tâm và có những ý kiến khác nhau. Bản tin chủ yếu là tài liệu
dịch của các nhà hoạt động lý luận, các chính sách nước ngoài. Sau gần 3 thập kỷ
tồn tại bản tin đã ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của bạn đọc là cán bộ lãnh đạo
các cấp với nội dung ngày càng có chất lượng hơn, hình thức ngày càng được cải
tiến, trang nhã và đẹp hơn.
“Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo)” có vai trò quan trọng hỗ
trợ và kích thích hoạt động nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong Học

viện thể hiện ở các mặt sau:
- Thông tin những vấn đề lý luận thực chất là bước khởi đầu cho hoạt động lý
luận là nghiên cứu lý luận ở mức ban đầu.
- Thông tin những vấn đề lý luận cung cấp nguyên vật liệu, tạo ra những căn
cứ, cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu lý luận. Làm tốt công tác thông tin lý luận
sẽ tạo ra nguồn tin phong phú cho nghiên cứu lý luận phục vụ lãnh đạo.
- Thông tin những vấn đề lý luận giúp cho người nghiên cứu lý luận phát hiện
vấn đề cần nghiên cứu, bổ sung và phân tích định hướng nghiên cứu, tránh được
những sai lầm mà người đi trước mắc phải.
- Thông tin lý luận góp phần đem thực tiễn đến cho các nhà nghiên cứu lý
luân, nhà quản lý và đưa các thành quả của lý luận vào thực tiễn.

22


Hiện nay ban lãnh đạo Học viện đặc biệt coi trọng bản tin“ Thông tin những
vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo)”. Chính vì vậy yêu cầu đặt ra đối với việc biên
tập và phát hành xuất bản bản tin này cũng rất nghiêm ngặt. Cụ thể là:
* Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo) ở Học viện phải thường
xuyên bám sát thực tiễn để kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời góp phần vào việc xây dựng và cụ thể hóa đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
* Thông tin những vấn đề lý luận cần được thực hiện một cách nghiêm túc,
không chỉ đơn thuần là nhắc lại những kết luận sẵn có, cũng không phải là suy luận
một cách trừu tượng từ những phạm trù, luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin mà
đòi hỏi phải vận dụng lý luận vào việc phân tích tình hình thực tế và thực tiễn…
* Thông tin những vấn đề lý luận càng phong phú, khách quan và có chất
lượng bao nhiêu thì càng thuận lợi cho công tác lãnh đạo quản lý của Học viện bấy
nhiêu.
* Bản thân mỗi bài viết trong bản tin này phải là kết quả của một quá trình

nghiên cứu, đó phải là những nguồn tư liệu “xám” có chất lượng và độ tin cậy rất
cao
* Người cán bộ làm công tác “thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh
đạo)” cũng phải là những người có bản lĩnh chính trị nhạy cảm về lý luận, có khả
năng nhanh chóng phân tích các nguồn tư liệu, các sự kiện…
* Thông tin nững vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo) góp phần hoạch định chủ
trương đường lối của Đảng và Nhà nước nói chung và công tác lãnh đạo, quản lý
học viện nói riêng.
2.1.2. Thông tin những vấn đề chính trị- xã hội
Đây cũng là một loại ấn phẩm thông tin chủ yếu của Học viện .
Học viện CT-HC QGHCM vừa là trung tâm quốc gia về đào tạo cán bộ lãnh
đạo quản lý chủ chốt, vừa là trung tâm công tác tư tưởng của Đảng. Bởi vậy, cương
lĩnh đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước không những phải được
23


thực hiện nghiêm ngặt mà còn phải được quán triệt chặt chẽ trên cơ sở nhận thức
sâu sắc của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên và học viên. Muốn vậy, thông tin
những vấn đề chính trị xã hội phải đi trước một bước cung cấp đầy đủ kịp thời các
văn kiện, tư liệu chính thống về chính trị, xã hội của đất nước và tình hình trên thế
giới. Việc cung cấp nhanh chóng và chính xác các thông tin này sẽ giúp cho các cấp
lãnh đạo Học viện nắm bắt được đầy đủ thông tin về các vấn đề, sự kiện, để từ đó
đưa ra quan điểm chính sách phù hợp.
Thông tin những vấn đề chính trị xã hội là ấn phẩm thông tin có giấy phép
xuất bản do Bộ văn hóa thông tin cấp vào tháng 10/2001, định ký phát hành vào thứ
5 hàng tuần, với số lượng phát hành 250-300 bản /1 số. Bản tin này lấy thông tin từ
internet, nội dung chủ yếu đề cập đến tình hình chính trị xã hội trong nước và trên
thế giới; về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM; về xây dựng Đảng và nghiên
cứu các học thuyết chính trị, những vấn đề nóng bỏng gây sự chú ý từ dư luận xã
hội và được nhiều người quan tâm.

Qua thống kê, khảo sát nghiên cứu về sử dụng các sản phẩm thông tin của
Học viện thì đây cũng là bản tin được đông đảo bạn đọc là cán bộ lãnh đạo nghiên
cứu, giảng dạy và các học viên sử dụng nhằm giúp cho việc nghiên cứu lãnh đạo,
học tập và nâng cao hiểu biết.
Đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin những vấn đề chính trị xã hội được đào
tạo huấn luyện tính độc lập cao, bản lĩnh chính trị vững vàng nhạy cảm trong các
tình huống chính trị.
2.1.3. Thông tin chuyên đề.
Thông tin chuyên đề là ấn phẩm thông tin cung cấp các bài viết baì dịch tư
liệu theo một chủ đề nhất định. Mỗi số thông tin chuyên đề có một chủ đề riêng
xuyên suốt trong ấn phẩm.
Nội dung : Ấn phẩm thông tin chuyên đề chuyển tải thông tin mới nhất liên
quan đến, một chủ đề nhất định. Nội dung của một ấn phẩm thông tin chuyên đề
thường đề cập đến những vấn đề mới, những vấn đề đang được nghiện cứu, những
24


nội dung cần triển khai theo chủ trương của Đảng và Nhà nước… Tất cả những nội
dung đó đều nhằm mục đích mang lại nguồn tư liệu thông tin quý, hiếm, những
kinh nghiệm của các nước, các khu vực trên toàn thế giới và cả những điển hình
trong nước phục vụ công tác nghiên cứu, bảo vệ và học tập trong Học viện. Ấn
phẩm thông tin chuyên đề thường đề cập đến những mảng kiến thức, mảng thông
tin đang được quan tâm, tìm kiếm. Cũng chính với mục đích đó nên nội dung của
ấn phẩm thông tin chuyên đề thường là một tập hợp những bài viết (của các tác giả
trong và ngoài nước) bài tổng thuật, tổng hợp về những dữ liệu mới nhất liên quan
đến chủ đề của từng ấn phẩm .
Ấn phẩm thông tin chuyên đề được xây dựng với bố cục chặt chẽ gồm 3
phần:
Phần 1: Các nội dung khái quát, khái niệm chung nhất, khái niệm mới nhất, lý
thuyết…về nội dung chủ đề của ấn phẩm.

Phần 2: Triển khai các nội dung thông tin liên quan đến chủ đề của ấn phẩm
được chuyển tải qua các bài viết, bài dịch (từ nguồn tư liệu nước ngoài), bài tổng
hợp, tổng thuật; những vấn đề qua kinh nghiệm qua thực tế hay qua các nghiên cứu
của các nước trên thế giới.
Phần 3: Các bài viết tổng hợp vấn đề đó tại Việt Nam, kinh nghiệm của Việt
Nam hiện nay là hiệu quả của việc áp dụng các kinh nghiệm đó đối với Việt Nam
như thế nào. Có thể gọi chung phần này là phần “ứng dụng” với thực tiễn Việt Nam
Cũng có những chuyên đề chỉ thực hiện việc tập hợp các bài viết cùng một
chủ đề để cung cấp tư liệu cho người dùng tin. Toàn bộ nội dung của chuyên đề với
mục tiêu cung cấp một cách nhìn toàn diện đầy đủ có hệ thống cho người dùng tin.
Hình thức : Ấn phẩm thông tin chuyên đề chia làm 2 loại:
Loại xuất bản định kỳ: Là ấn phẩm thông tin có giấy phép xuất bản do Bộ
Văn hóa thông tin cấp, được phát hành định kỳ với bố cục chặt chẽ trong tất cả các
số ấn phẩm phát hành. Nội dung của từng số bản tin đã được xây từ đầu năm và
tiến hành thực hiện theo từng quý trong năm. Việc xây dựng nội dung cũng hoàn
25


×