TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN: NHẬP MÔN LOGIC HỌC
ĐỀ TÀI: PHƯƠNG PHÁP QUY NẠP
KHOA HỌC VÀ NHỮNG ỨNG
DỤNG THỰC TIỄN
GV hướng dẫn: Nguyễn Văn Đức
Nhóm SV thực hiện:
1 Phạm Văn Trung – 17143264
2 Lâm Văn Nam - 17143220
3 Trần Văn Nhân - 17143226
4 Lâm Kỳ Sâm - 17143239
5
Tháng 5/2018
Mục lục
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề: Trong đời sống hàng ngày, con người thường xuyên phải quan sự lặp đi lặp lại
của một tính chất nào đó ở một số đối tượng thuộc một lớp nhất định. Để khái quát, rút ra kết
luận chung rằng toàn bộ các đối tượng thuộc lớp đó đều có tính chất đã nếu thì đòi hỏi cần
phải có phương pháp, cách suy luận riêng hợp logic. Từ đó mà phương pháp Quy nạp khoa
học ra đời, phương pháp Quy nạp khoa học xuất phát từ Suy luận Quy nạp mà ra.
Suy luận quy nạp là suy luận trong đó từ việc nhận thấy sự lặp đi lặp lại của một tính chất
nào đó ở một số đối tượng thuộc một lớp nhất định người ta rút ra kết luận chung rằng toàn
bộ các đối tượng thuộc lớp đó đều có tính chất đã nêu.
Trong suy luận quy nạp, người ta đi từ nhiều cái riêng đến cái chung. Điều này giúp con
người có thể khái quát được các trường hợp riêng rẽ quan sát thấy trong khoa học và trong
cuộc sống thành các quy luật chung, nghĩa là phát hiện ra các quy luật khách quan sau khi
quan sát thấy nhiều biểu hiện cụ thể của chúng. Suy luận quy nạp và suy luận diễn dịch
không loại trừ nhau, mà chúng bổ sung cho nhau. Vai trò của suy luận quy nạp đặc biệt quan
trọng trong các khoa học thực nghiệm, chẳng hạn như sinh vật học, vật lý học, hoá học, xã
hội học, tâm lý học, … Ngay cả trong toán học, ngành khoa học bao giờ cũng sử dụng diễn
dịch để chứng minh các định lý của mình, thì suy luận quy nạp cũng có một vị trí quan trọng.
Có nhiều kết luận được các nhà toán học tìm ra nhờ sử dụng suy luận quy nạp, và chỉ sau đó
họ mới chứng minh chúng bằng diễn dịch.
Mục tiêu nghiên cứu: Hiểu được Thế nào là phương pháp Quy nạp khoa học? Giúp cho
người đọc có thể vận dụng được phương pháp Quy nạp khoa học để phân tích, đánh giá vấn
đề từ đó có thể đưa ra được kết luận chính xác, bao quát được toàn bộ vấn đề.
3
PHẦN 2: KIẾN THỨC CƠ BẢN
- Thế nào là quy nạp khoa học?
+ Khái niệm: là quy nạp không hoàn toàn, trong đó kết luận về toàn bộ lớp đối tượng
được rút ra từ các tiền đề phản ánh những dấu hiệu mang tính nhân quả của các phần tử
trong lớp đối tượng cần nghiên cứu.
+ Nguồn gốc: Quy nạp khoa học cũng nảy sinh trong quá trình hoạt động thực tiễn của
con người từ nhu cầu khái quát để thu nhận những tri thức về các tính chất chung của các
đối tượng và các mối liên hệ giữa chúng.
+ Tính chất: mang lại hiểu biết mới mẻ so với tiền đề, là một công cụ phát minh quan
trọng trong khoa học thực nghiệm tuy kết luận có bấp bênh, độ tin cậy của kết luận quy
nạp khoa học không phụ thuộc vào nhiều vào số lượng trường hợp khảo sát mà chủ yếu
phụ thuộc vào dấu hiệu khảo sát thể hiện những mối liên hệ bản chất, tất yếu nào giữa
các phần tử đối tượng, giữa các sự kiện,hiện tượng, giữa các điều kiện, tình huống được
khảo sát.
- Cấu tạo: + Tiền đề.
+ Kết luận.
- Các phương pháp xác định liên hệ nhân quả được nghiên cứu trong tiểu luận:
+ Phương pháp giống nhau
+ Phương pháp khác nhau
+ Phương pháp kết hợp giữa phương pháp giống nhau và phương pháp khác nhau
+ Phương pháp biến đổi kèm theo
+ Phương pháp loại trừ
4
PHẦN 3: PHÂN TÍCH CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LIÊN
HỆ NHÂN QUẢ VÀ TÍNH VẬN DỤNG CỦA CHÚNG VÀO ĐỜI
SỐNG HÀNG NGÀY
1. PHƯƠNG PHÁP GIỐNG NHAU
Phương pháp giống nhau là phương pháp quy nạp khoa học phát hiện ra những dấu
hiệu giống nhau trong sự khác biệt. Nghĩa là trong các trong các trường hợp nghiên cứu
những điều kiện khác nhau chỉ có một điều kiện giống nhau mà thấy xuất hiện các hiện tượng
cùng loại thì điều kiện giống nhau đó có thể là nguyên nhân của sự xuất hiện hiện tượng cùng
loại ấy.
-
Phương pháp này được mô tả với công thức như sau:
o Trong các điều kiện A, B, C xuất hiện gây ra hiện tượng V.
o Trong các điều kiện A, H, F, S xuất hiện gây ra hiện tượng V.
o Trong các điều kiện V, A, Z xuất hiện gây ra hiện tượng V.
Kết luận: Điều kiện A có thể là nguyên nhân của sự xuất hiện hiên tượng V.
Ví dụ 1: Trong cuộc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự hư hỏng của học sinh,
một thầy giáo đã nhận thấy:
- Học sinh Thọ: Nhà giàu, cha mẹ làm ăn xa không quan tâm đến giáo dục Thọ, Thọ ở nhà
sống với bà nội và được nương chiều quá mức.
- Học sinh Toàn: Nhà nghèo, gia đình lại cả chục anh chị em, cha mẹ Toàn tối mặt suốt ngày
làm lụng để đủ khả năng nuôi bầy con, không giáo dục quan tâm con cái.
- Học sinh Vĩnh: Cha mẹ li hôn, mỗi người đi sống xứ khác làm ăn, không quan tâm giáo dục
Vĩnh, khiến Vĩnh bị lôi kéo nghiện game.
Sau khi so sánh, thầy giáo đã rút ra nhận xét nguyên nhân dẫn đến sự hư hỏng của học sinh là
do không có sự quan tâm giáo dục của cha mẹ. Từ nhận xét của cô giáo không cho kết quả kết
luận đáng tin cậy hoàn toàn vì có những trường hợp những cậu học sinh mồ côi cha mẹ sống
với ông bà, ý thức được việc học tập là một đúng đắn thoát nghèo, nên học hành chăm chỉ,
ngoan ngoãn vâng lời thầy cô ông bà.
Ví dụ 2: Ở trường phổ thông nọ, sau một buổi liên hoan, một loạt học sinh bị ngộ độc thực
phẩm. Mai, Bình, Hạnh, Hoa, Kiếm là những học sinh trong số bị ngộ độc. Các em cho biết
5
Mai đã ăn các món cơm, canh cải, thịt bò, thịt gà và món bánh ngọt tráng miệng. Bình đã ăn
các món cơm, rau cải, nem, bánh ngọt, thịt bò. Hạnh đã ăn các món bún, rau cải, nem, bánh
ngọt. Hoa đã ăn các món bún, thịt bò, rau cải, bánh ngọt. Còn Kiếm đã ăn các món cơm, thịt
bò, bánh ngọt. Món ăn nào gây ra ngộ độc?
Ký hiệu dấu * tại một ô cho biết người ở dòng của ô đó đã ăn món ở cột tương ứng, dấu trong
trường hợp ngược lại, khi đó ta có bảng sau đây:
Các trường hợp của Hạnh và Hoa cho thấy cơm không phải là nguyên nhân gây ra ngộ độc, vì
họ không ăn cơm mà vẫn ngộ độc. Các trường hợp của Mai, Bình và Kiếm cho thấy bún
không phải là nguyên nhân gây ra ngộ độc. Tương tự như vậy, trường hợp của Hạnh cho thấy
Hạnh không ăn thịt bò mà vẫn ngộ độc, vậy thịt bò không phải là nguyên nhân gây ra ngộ
độc. Các trường hợp của Mai, Hoa và Kiếm cho thấy nem cũng không phải là nguyên nhân
gây ra ngộ độc. Xét như vậy, ta thấy chỉ còn lại món bánh ngọt, món có mặt trong tất cả các
trường hợp bị ngộ độc nêu trên, là món gây ngộ độc mà thôi.
Trong phương pháp giống nhau trên đây ta tìm cách xác định yếu tố làm điều kiện cần
để hiện tượng nghiên cứu xảy ra, tức là điều kiện mà nếu không có, không được thoả mãn thì
hiện tượng không xảy ra. Trong ví dụ đã nêu, việc ăn bánh ngọt là điều kiện cần để hiện tượng
ngộ độc xảy ra. Nếu không ăn bánh ngọt sẽ không bị ngộ độc. Tuy nhiên, điều kiện này không
phải là điều kiện đủ, nghĩa là sự có mặt của nó chưa đảm bảo chắc chắn là hiện tượng phải
xảy ra. Có thể trong cùng buổi liên hoan này có người ăn cùng món bánh ngọt đã nêu mà vẫn
không bị ngộ độc (có thể nhờ khả năng chống độc cao của cơ thể).
Kết luận rút ra nhờ phương pháp giống nhau trên đây không đảm bảo chắc chắn đúng.
6
Vì các lý do sau đây:
+ Thứ nhất, rất có thể có một số điều kiện, yếu tố nào đó đã không được để ý đến, bị bỏ qua,
mặc dù chính yếu tố này là nguyên nhân cần tìm. Chẳng hạn, trong ví dụ của chúng ta bánh
ngọt có thể không phải là nguyên nhân gây ngộ độc, mà sự không đảm bảo vệ sinh của thìa
dĩa dùng để ăn món này mới là nguyên nhân, thế nhưng yếu tố này lại không được để ý đến.
+ Thứ hai, rất có thể hiện tượng sinh ra không phải do một yếu tố riêng lẻ nào đó, mà là kết
quả của sự kết hợp một số yếu tố nhất định. Chẳng hạn, trong trường hợp của chúng ta Mai bị
ngộ độc vì có sự kết hợp của bánh ngọt với rau cải, Bình bị ngộ độc do sự kết hợp của rau cải
và nem, …
Phương pháp giống nhau có hạn chế trong việc áp dụng. Nó chỉ được áp dụng trực tiếp
cho các trường hợp mà ta đã liệt kê trong bảng mà thôi, không thể đem áp dụng cho các
trường hợp khác dù họ cũng là học sinh và bị ngộ độc trong buổi liên hoan nói trên. Nguyên
do là có thể nhóm học sinh ta khảo sát ở bảng trên bị ngộ độc bởi món bánh ngọt, trong khi đó
lại có nhóm khác bị ngộ độc bởi món khác mà các học sinh ta đã khảo sát không ăn, chẳng
hạn họ ăn món thịt lợn quay không đảm bảo vệ sinh. Kết luận mà phương pháp này rút ra có
độ tin cậy tỉ lệ thuận với số lượng trường hợp được khảo sát.
Như vậy, phương pháp giống nhau chỉ đưa ra kết luận có tính xác xuất, có độ chính
xác không cao, mang tính chất tương đối và gây giải quyết vấn đề một cách chắc chắn chính
xác một cách tuyệt đối. Mức độ xác suất của đối tượng phụ thuộc vào số lượng của trường
hợp nghiên cứu, vào việc lựa chọn đúng vào các điều kiện có trước. Nếu số lượng của các
trường hợp nghiên cứu càng nhiều và các điều kiện có trước được chọn lựa càng đúng bản
chất thì mức độ kết luận càng chính xác. Ngoài ra, mức độ xác suất của kết luật còn phụ thuộc
vào trình độ phân tích của các điều kiện có trước được lập lại để nhận biết mối quan hệ tất yếu
giữa các điều kiện lặp lại ấy so với các hiện tượng cùng loại đã xảy ra. Trình độ càng phân
tích sâu sắc bao nhiêu thì kết luận thì kết luận càng chính xác bấy nhiêu.
7
2. PHƯƠNG PHÁP KHÁC NHAU
Phương pháp khác nhau là phương pháp quy nạp khoa học dựa trên cơ sở so sánh các
trường hợp khi hiện tượng cần nghiên cứu có thể xảy ra hay không xảy ra. Nghĩa là:
+ Trong các trường hợp nghiên cứu với những điều kiện giống nhau chỉ có một điều
kiện khác nhau mà thấy các hiện tượng xuất hiện không giống nhau thì điều kiện khác nhau
đó có thể là nguyên nhân của sự xuất hiện hiện tượng không giống nhau ấy.
+ Các hiện tượng đã giống nhau trong nhiều mối quan hệ vẫn có thể khác nhau ở chỗ
nào đó, mà sự có hay không những quan hệ này hay khác rất có thể gắn với sự khác nhau ấy.
Ví dụ: Cho một con chuột vào chiếc bình hở thì nó sống. Nếu bây giờ giữ nguyên các điều
kiện khác, nhưng đậy bình kín lại và hút hết không khí ra thì chuột chết ngay. Có nghĩa là:
không khí là điều kiện và nguyên nhân duy trì sự sống.
- Công thức:
+ Trong các điều kiện A, B, C xuất hiện hiện tượng a.
+ Trong các điều kiện B, C không xuất hiện hiện tượng a.
Kết Luận: Điều kiện A có thể là nguyên nhân của hiện tượng a.
- Ví dụ: quan sát 1 đồng xu, 1 tờ giấy bạc, 1 cái lông chim. Ta thấy:
+ Khi có không khí thì chúng rơi với tốc độ khác nhau.
+ Khi không có không khí (chân không) chúng rơi với tốc độ như nhau.
Kết luận: Sức cản không khí là nguyên nhân làm cho các vật có khối lượng và hình dáng khác
nhau rơi với tốc độ khác nhau.
8
Phương pháp này còn có hiệu lực hơn cả phương pháp giống nhau vì ở đây người ta
không chỉ có quan sát, mà còn tiến hành thí nghiệm cho khả năng tạo ra những điều kiện
chuyên biệt, không còn quá cần phải quan sát rất nhiều trường hợp nữa, không cần phải tính
đến yếu tố nguyên nhân nữa. Ngoài ra, phương pháp này đôi khi còn có thể “tiên đoán” sự tồn
tại điều kiện tạm thời chưa biết nhưng điều kiện lại có thể là nguyên nhân của hiện tượng
nghiên cứu.
Kết luận của phương pháp khác nhau cũng chỉ có tính xác suất. Bởi vì, giá trị của kết luận
phụ thuộc vào số lượng các trường hợp khảo sát và đặc biệt phụ thuộc vào trình độ so sánh
các trường hợp khảo sát đó nhằm nhận biết rõ về sự khác nhau về chất ở trong các hiện tượng
không giống nhau ấy. Nếu sự so sánh càng nhiều và càng sâu sắc thì kết luận có tính chính
xác càng chắc chắn.
-
Ứng dụng:
+ Sử dụng trong nghiên cứu khoa học xã hội.
+ Dùng phương pháp khác biệt để kiểm tra phương pháp giống nhau.
9
3. PHƯƠNG PHÁP KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP GIỐNG NHAU VỚI PHƯƠNG PHÁP
KHÁC NHAU
- Khái niệm
Đây là phương pháp tổng hợp các trường hợp nghiên cứu trong những điều kiện xác
định chỉ có một điều kienj giống nhau tháy xuất hiện hiện hiện tượng cùng loại với các trường
hợp nghiên cứu đều không có điều kiện giống nhau đó không thấy xuất hiện hiện tượng cùng
loại ấy thì điều kiện khảo sát có thế là nghuyên nhân của hiện tượng quan sát được. Thực chất
của phương pháp này là tập hợp cùng giống nhau lại với nhau và tập hợp các trường hợp cùng
khác nhau với nhau. Trên cơ sở đó so sánh để rút ra kết luận về nguyên nhân của hiện tượng
nghiên cứu.
- Công thức
+ Giống nhau:
o Trong điều kiện A, B, C xuất hiện hiện tượng a
o Trong điều kiện A, D, E xuất hiện hiện tượng a
+ Khác nhau
o Trong điều kiện B, C không xuất hiện hiện tượng a
o Trong điều kiện D, E không xuất hiện hiện tượng a
Kết luận: A là nguyên nhân của sự xuất hiện hay không xuất hiện của hiện tượng
a.
Phương pháp kết hợp xác định điều kiện cần và điều kiện đủ của hiện tượng đang
nghiên cứu. phương pháp này đưa ra kết luận đáng tin cậy hơn phương pháp giống nhau và
khác nhau, vì khắc phục được một số nhược điểm:
+ Thứ nhất: phương pháp giống nhau xác định điều kiện cần của hiện tượng nghiên
cứu. nhưng không xảy ra, trong khi đó trong khi đó thì phương pháp giống nhau lại không thể
áp dụng cho một tập hợp gồm các trường hợp hiện tượng xảy ra lẫn các trường hợp hiện
tượng không xảy ra.
+ Thứ hai: trong phương pháp khác nhau ta thấy khó khăn vì phải đảm bảo để hai
trường hợp so sánh hoàn toàn giống ở mọi điểm cần quan tâm, ngoai trừ duy nhất một điểm
thì sự đảm bảo đó không còn đòi hỏi ngiêm ngặt nữa ở phương pháp kết hợp. Vì ở đây xem
xét nhiều trường hợp trong đó hiện tượng sảy ra và nhiều trường hợp hiện tượng không sảy ra.
10
- Ví dụ
o Đối tượng A xuất hiện ở khu vực B thì khu vực B bị mất trộm.
o Đối tượng A xuất hiện ở khu vực C thì khu vực C bị mất trộm.
o Đối tượng A không xuất hiện ở khu vực B thì khu vực B không mất trộm.
o Đối tượng A không xuất hiện ở khu vực C thì khu vực C không mất trộm.
Kết luận: đối tượng A có thể là thủ phạm gây ra mất trộm hoạc có liên quan đến vụ mất
trộm tại các khu vực đối tượng A xuất hiện.
- Ứng dụng
Phương pháp kết luận này đưa lại giá trị của kết luận chắc chắn hơn. Bởi vì, chính sự
tổng hợp của giống nhau và khác nhau đó sẽ nâng cao tính hiệu quả của giá trị sàng lọc các
giá trị của kết luận làm cho tính xác suất của kết luận trở nên tin cậy hơn. Phương pháp kết
hợp cũng không đảm bảo kết luận chắc chắn đúng. Đây là hệ quả của những khó khan trong
việc đảm bảo các yếu tố tạo nên các trường hợp khảo sát độc lập, không tương tác với nhau và
khó khăn trong việc không bỏ sót yếu tố nào có liên quan trong trường hợp khảo sát.
11
4. PHƯƠNG PHÁP BIẾN ĐỔI KÈM THEO
- Phương pháp biến đổi kèm theo là suy luận quy nạp khoa học dựa trên việc xem xét mối
quan hện nhân quả giữa các sự vật, hiện tượng mà trong đó có một điều kiện biến đổi làm
thay đổi hiện tượng đã xuất hiện nào đó, thì điều kiện biến đổi đó có mối quan hệ xuất hiện
hiện tượng cần nghiên cứu. Nghĩa là, trong các điều kiện xác định, khi một điều kiện nào đó
biến đổi từ trạng thái này sang một trạng thái khác mà làm thay đổi hiện tượng vời các trạng
thái khác nhau tương ứng thì điều kiện biến đổi đó có thể là nguyên nhân của hiện tượng thay
đổi ấy.
- Sơ đồ của phương pháp biến đổi kèm theo:
o Hiện tượng a xuất hiện trong hoàn cảnh A, B, C
o Hiện tượng a1 xuất hiện trong hoàn cảnh A1, B, C
o Hiện tượng a2 xuất hiện trong hoàn cảnh A2, B, C
Kết luận: Có thể A là nguyên nhân của hiện tượng a
Ví dụ 1: Mỗi một vật thể trong những điều kiện xác định sẽ có một thể tích xác định. Nếu
thay đổi nhiệt độ ở mức độ khác nhau thì thể tích của các vật thể cũng sẽ thay đổi với những
trạng thái khác nhau tương ứng và theo phương pháp kèm theo ta có thể kết luận việc thay đổi
nhiệt độ của vật thể là nguyên nhân của sự thay đổi thể tích của các vật thể ấy.
Ví dụ 2: Khi chiếu chùm sáng thích hợp vào bề mặt của một lá kim loại, chẳng hạn lá kẽm,
người ta nhận thấy có các điện tử bị chùm sáng đó làm bật ra khỏi lá kim loại. Vật lý học đã
biết rằng năng lượng của các điện tử này chỉ có thể phụ thuộc vào độ dài bước sóng của các
tia sáng hoặc cường độ của chùm sáng chiếu vào kim loại đã nêu. Khi thay đổi cường độ của
chùm sáng, giữ nguyên độ dài bước sóng của các tia sáng, người ta chỉ thấy số lượng các điện
tử bắn ra khỏi bề mặt kim loại thay đổi, nhưng năng lượng của các điện tử bị bắn ra thì không
thay đổi. Như vậy, năng lượng của các điện tử đã nêu không phụ thuộc vào cường độ của
chùm sáng. Ngược lại, khi giữ nguyên cường độ của chùm sáng, thay đổi bước sóng của các
tia sáng, người ta thấy độ dài bước sóng của tia sáng càng giảm thì năng lượng của các điện tử
bị bắn ra càng lớn. Như vậy, năng lượng của các điện tử trong thí nghiệm này phụ thuộc vào
độ dài bước sóng của tia sáng đã làm chúng bắn ra khỏi bề mặt kim loại đó.
Phương pháp cùng biến đổi kèo theo được ứng dụng rất rộng rãi và rất hữu hiệu trong
các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, nơi có thể tạo ra và kiểm soát chặt chẽ sự thay đổi
của các yếu tố quan sát.
Phương pháp biến đổi kèm theo mang lại giá trị chân thật trong kết luận vơi độ chính
xác càng cao khi khu biệt được biến đổi chỉ về một điều kiện nào đó, còn điều kiện khác phải
ổn định không thay đổi. Còn nếu không khu biệt được điều kiện biến đổi đó so với điều kiện
khác không ổn định thì kết luận rút ra không chắc chắn. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu,
cần phải lựa chọn những điều kiên thay đổi thích hợp trong tính ổn định của các điều kiện để
thử nghiệm, mới để dàng phát hiện mối quan hệ nhân quả của các hiện tượng đã quan sát.
12
5. PHƯƠNG PHÁP LOẠI TRỪ
Nếu biết những điều kiện cần thiết của hiện tượng nghiên cứu, trừ một điều kiện không là
nguyên nhân của nó thì điều kiện bị loại trừ có thể là nguyên nhân của hiện tượng đó.
Tất cả các phương pháp thiết lập mỗi quan hệ nhân quả được sử dụng kết hợp trong nghiên
cứu. Chúng củng cố và bổ sung lẫn nhau, góp phần to lớn vào nhận thức hiện thực khách
quan.
Với các nghiên cứu trước đó người ta đã xác định được rằng nguyên nhân của hiện tượng X là
các yếu tố A1, A2, A3. Phương pháp phần dư là phương pháp tách X ra thành các hiện tượng
con X1, X2, X3, hơn nữa đã biết A1 là nguyên nhân của X1, A2 là nguyên nhân của X2, từ
đây rút ra kết luận A3 - phần còn lại, phần dư - là nguyên nhân của X3.
A1, A2, … An là nguyên nhân của X1, X2, … Xn
A1 là nguyên nhân của X1,
A2 là nguyên nhân của X2,
…
An-1 là nguyên nhân của Xn-1,
An là nguyên nhân của Xn.
- Ví dụ :
Nhóm năm người Hoàng, Bích, Quỳnh, Thanh, Hùng đã thực hiện nghiên cứu về phương
pháp học tập của sinh viên Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Mỗi người trong số họ phải
thu thập dữ liệu về phương pháp học tập của sinh viên một trường hoặc khoa thành viên của
Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Biết rằng Hoàng thu thập dữ liệu về phương pháp học tập
của sinh viên Trường Đại học Bách khoa, Quỳnh thu thập dữ liệu về phương pháp học tập của
sinh viên Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Quỳnh - Đại học Quốc tế, Hùng - Khoa Kinh
tế. Vậy có thể kết luận Thanh thu thập dữ liệu về phương pháp học tập của sinh viên Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Cũng giống như các phương pháp đã xét, vì khó đảm bảo chắc chắn rằng các yếu tố A1, A2,
… An không tác động lẫn nhau, mặt khác, khó đảm bảo chắc chắn rằng không bỏ sót yếu tố
nào là nguyên nhân gây ra X hoặc một phần của X, nên kết luận rút ra nhờ phương pháp này
cũng chỉ có xác suất đúng nào đó mà thôi.
13
-
Ứng dụng thực tiễn
Nhờ phương pháp loại trừ mà người ta phát hiện ra sao Hải Vương. Bắt đầu từ việc phát
hiện ra sự kiện, chuyển động của sao Thiên Vương không phù hợp với quỹ đạo được tính
chính xác cho hành tinh này. Hóa ra là độ sai lệch quỹ đạo của sao này lớn hơn nhiều so với
độ sai lệch mà các hành tinh đã biết có thể gây ra. Suy ra, phần dư ấy cần phải có nguyên
nhân. Nhà toán học Le Verier tính được vị trí của hành tinh giả định ấy, còn A. Galile thì phát
hiện ra nó bằng kính thiên văn. Nó chính là sao Hải Vương.
Về hiệu lực chứng minh phương pháp phần dư có thể được quy về phương pháp biến
đổi duy nhất, nhưng cũng như mọi phương pháp khác nó cũng chỉ cho kết luận xác xuất. Vì A
có thể là nguyên nhân duy nhất của a, một phần của nguyên nhân, hoặc ngược lại, có chứa
nguyên nhân trong mình, chứ chưa là nguyên nhân trực tiếp.
Trong các nghiên cứu thực nghiệm những phương pháp nêu trên có thể được dùng
riêng, hoặc kết hợp với nhau. Không ít khi phương pháp giống nhau được kết hợp với phương
pháp khác biệt duy nhất. Nhưng ngay cả khi sự kết hợp của chúng cũng chỉ gia tăng thêm khả
năng nhận thức, chứ chưa bảo đảm tuyệt đối tính chính xác của kết luận.
14
PHẦN 4: KẾT LUẬN
Thông qua tìm hiểu chi tiết các phương pháp xác định liên hệ nhân quả trong phương
pháp Quy nạp khoa học, chúng ta có thể thấy được có rất nhiều ví dụ thực tiễn cần phải áp
dụng các phương pháp Quy nạp khoa học để có thể nâng cao để tin cậy của kết luận quy nạp.
Chính vì vậy mà bạn đọc cần phải trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về phương pháp Quy
nạp khoa học để ứng dụng linh hoạt vào đời sống, trong lĩnh vực khoa học. Cần áp dụng
phương pháp này một cách chính xác, hợp lý và Logic.
Bạn đọc cần phải áp dụng linh hoạt các phương pháp với nhau, kết hợp với sâu chuỗi
các dữ kiện cũng như lập luận chặt chẽ và khái quát hoá vấn đề. Từ đó đưa ra kết luận hợp
Logic, như vậy sẽ khiến cho kết luận của ta chính xác và thuyết phục mọi người hơn.
Phương pháp Quy nạp khoa học luôn luôn cần thiết không chỉ trong đời sống có thể áp
dụng ở mọi lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, luật, học tập, nghiên cứu thị trường, … Chính
vì vậy, phương pháp này cùng với bộ môn Nhập môn Logic học đã được đưa vào giảng dạy
trong môi trường đại học nhằm giúp sinh viên có thể tự mình đánh giá khác quan và bao quát
các vấn đề trong môi trường học tập cũng như nghiên cứu của mình.
Cám ơn mọi người đã theo dõi.
15
PHẦN 5: Tài liệu tham khảo
1. Phạm Đình Nhiệm, 2013, Nhập môn Logic học, NXB ĐH Quốc giá TP. Hồ Chí Minh
2. Nguyễn Như Hải, 2007, Giáo trình Logic học đại cương, NXB Giáo dục
3. Hoàng học, 2006, Nhập môn Logic học, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
16