MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................1
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và yêu cầu về sự lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội...........................3
1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta........3
1.2. Yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội hiện nay.........................................................................7
II. Thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội........................................................................................8
2.1. Ưu điểm trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội trên những mặt chủ yếu sau đây:..................................................8
2.2. Những hạn chế..............................................................................................15
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế:................................................................17
III. Tính tất yếu khách quan của việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của mặt trận tổ quốc việt nam và các đoàn thể chính trị-xã hội trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...................................................17
3.1. Những yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển đất nước................................17
3.2. Xuất phát từ nhu cầu của quần chúng, của đoàn viên, hội viên đối với việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị-xã hội....................................................................................................19
IV. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của mặt trận tổ quốc việt nam và các đoàn thể chính trị xã hội trong thời kỳ mới......................................................................................20
4.1. Quan điểm....................................................................................................20
4.2. Mục tiêu........................................................................................................20
4.3. Nhiệm vụ và những giải pháp......................................................................20
KẾT LUẬN........................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................27
1
MỞ ĐẦU
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vị trí, vai trò
của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các đoàn thể nhân dân; đồng thời luôn quan
tâm xây dựng các tổ chức đó vững mạnh. Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, MTTQ Việt Nam và các đoàn thể đã
không ngừng lớn mạnh, thực sự là cơ sở chính trị, xã hội của Đảng, là bộ phận
quan trọng của hệ thống chính trị của đất nước, góp phần tích cực vào việc tuyên
truyền, vận động nhân dân, tập hợp các lực lượng, các giai tầng xã hội, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của cả nước, thực hiện thắng
lợi mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X, ngày 9-2-2007, của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về “Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội” xác định: tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, củng cố tổ chức bộ máy, đổi mới hình thức, phương pháp hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, thể chế hóa các quy định của Nhà nước về
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, bảo đảm cho
các tổ chức này thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình; làm cho Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thực sự đại diện cho quyền lợi,
nguyện vọng và tiếng nói của quần chúng nhân dân.
Đánh giá kết quả thực hiện chủ trương về đổi mới phương thức lãnh đạo,
phương pháp hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều
phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà
nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”. Tuy
nhiên, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ ra rằng: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số
nội dung chưa rõ, chậm đổi mới”.
Thực tiễn đang đặt ra một cách cấp thiết phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân ở nước ta hiện nay.
2
NỘI DUNG
I. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và yêu cầu về sự lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc trước kia cũng như trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc
bằng con đường tập hợp, lãnh đạo mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chinh trị - xã hội luôn luôn là chủ trương nhất quán
của Đảng Cộng sản Việt Nam, là kinh nghiệm lớn của Đảng trong quá trình lãnh đạo
nhân dân ta kể từ khi thành lập Đảng cho đến nay.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế lại càng cần tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức này.
Điều lệ Đảng CSVN khoá XI khẳng định “Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát
huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội".
Các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta bao gồm Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội khác như: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam.
Khái niệm tổ chức chính trị - xã hội được dùng đồng nghĩa với khái niệm
đoàn thể nhân dân để phân biệt với khái niệm tổ chức xã hội hoặc tổ chức quần
chúng rộng rãi.
1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở
nước ta
* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ V thông qua ngày 12/6/1999 đã xác định : “Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài”.
Như vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh, liên hiệp rộng
rãi, trong đó bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam (tổ chức chính trị) các đoàn thề
nhân dân (các tổ chức chính trị - xã hội) nhiều tổ chức xã hội khác và các cá
nhân tiêu biểu của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo và kiều bào… Đây là
hình thức tập hợp lực lượng yêu nước rộng rãi nhất, đã được hình thành ngay
sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, với tên gọi là Hội Phản đế
đồng minh (18-11-1930).
3
* Tổ chức chính trị - xã hội
Tổ chức chính trị - xã hội là thuật ngữ chỉ chung loại hình tổ chức của
nhân dân gồm những người có chung quyền lợi và nghĩa vụ hoạt động vì những mục
đích chính trị, xã hội nhất định. Các tổ chức chính trị - xã hội đều là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên đều là bộ phận của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, là cơ sở của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập
hợp khối đại đoàn kết toàn dân, đại diện cho quyền lợi của dân phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Tính chất của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội
- Tính xã hội:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội không phải là
đảng chính trị, cũng không phải là tổ chức quyền lực nhà nước, mà là tổ chức xã
hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phải tìm tòi nội
dung, phương thức phong phú, mở rộng môi trường hoạt động rộng rãi và tạo
điều kiện để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
- Tính chính trị:
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đều hoạt động theo
đường lối chính trị do Đảng đề ra chịu sự lãnh đạo về chính trị của Đảng nên
mang tính chính trị. Tình ái hữu - cộng đồng: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội tập hợp các tầng lớp nhân dân cùng nhau tự nguyện
tiến hành các hoạt động theo mục tiêu chung của tổ chức và đoàn thể mình. Tính
ái hữu - cộng đồng thể hiện ờ tính tự nguyện cùng nhau hành động, không vì
mục tiêu vụ lợi.
- Tính nghiệp đoàn:
Tính nghiệp đoàn là tính đặc thù của đoàn thể nhân dân gắn với xu thế
phát triển của kinh tế thị trường. Không thể coi các tổ chức chính trị - xã hội chỉ
gắn với mục tiêu chính trị, mà nó còn gắn với thị trường trong tình hình mới
hiện nay.
* Vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
trong nền kinh tế thị trường
Trong điều kiện một nền kinh tế thị trường, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội có vai trò xã hội rất quan trọng, đó là:
- Thứ nhất, vai trò tham gia bảo vệ và phát triển chế độ xã hội.
+ Trong nền kinh tế thị trường, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội đều đóng vai trò tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ nhằm xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, tham gia bảo vệ và phát triển xã hội.
4
+ Thể hiện ý chí của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trương phát
huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội và
dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc
đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
- Thứ hai, vai trò chăm lo lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của
thành viên trong tổ chức mình.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội có vai trò tích cực
cùng Nhà nước chăm lo lợi ích của toàn dân và của hội viên, đảm bảo hài hòa lợi
ích cá nhân, tập thể, xã hội, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
- Thứ ba, vai trò tuyên truyền giáo dục
+ Nhu cầu mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức, nâng cao trình độ lao động
và quản lý, xây dựng lối sống lành mạnh, là nhu cầu chính đáng của các tầng lớp
nhân dân. Là những tổ chức của dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân đóng vai trò tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân theo yêu
cầu đó.
+ Ngày nay, vai trò tự giáo dục của tổ chức quần chúng ngày càng quan
trọng. Tự giáo dục của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội có vai trò quan trọng không thể thiếu đối với các hệ thống giáo dục khác (gia
đình, nhà trường...).
- Thứ tư, vai trò điều tiết xã hội
+ Như một cơ cấu sống, xã hội luôn luôn có nhu cầu điều tiết. Trong lịch
sử, xã hội đã tồn tại chức năng điều tiết của tôn giáo, đạo đức và dư luận, khi
nhà nước ra đời đã hình thành chức năng điều tiết của pháp luật. Trong xã hội ta
ngày nay, vai trò điều tiết xã hội của Mặt trận Tồ quốc và các đoàn thể xã hội
ngày càng tăng lên, thông qua các hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Xã
hội phát triển đi lên ngày càng có nhu cầu và có thêm nhiều khả năng để thực
hiện giám sát và phản biện xã hội.
+ Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội sẽ góp phần hoá giải các mâu thuẫn, điều tiết các quan hệ xã hôi, tạo
nên sự đồng thuận và đoàn kết ngày một cao hơn. Đây là một công cụ của nhân
dân để thực hiện vai trò làm chủ xã hội, giám sát quyền lực, góp phần ngăn ngừa
sự tha hoá quyền lực.
* Một số đặc điểm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội ở nước ta
5
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta có những đặc
điểm riêng do hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Những đặc điểm đó là:
- Một là, được thành lập từ rất sớm gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và có truyền thống đấu tranh cách mạng lâu dài.
+ Các tổ chức này ở nước ta ra đời từ rất sớm trong cuộc đấu tranh của dân
tộc đang bị áp bức nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thế lực
đế quốc, phong kiến ngay từ đầu thế kỷ XX. Những tổ chức chính trị của những
thanh niên yêu nước như Việt Nam Quang phục hội, sau đổi thành Tâm tâm xã
đã hoạt động ở nước ngoài..., tổ chức tiền thân của Đảng cũng là một tổ chức
của Thanh niên. Như vậy là một số tổ chức yêu nước của quần chúng ở nước ta
đã ra đời trước khi thành lập Đảng Cộng sản.
+ Ngay từ khi mới ra đời Đảng Cộng sản đã đặt trọng tâm hoạt động của
mình vào công tác xây dựng và lãnh đạo các tổ chức quần chúng. Đa số các tổ
chức quần chúng ở nước ta ra đời gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
và có truyền thống đấu tranh cách mạng lâu dài.
Sự ra đời của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội không mang tính
tự phát, mà là kết quả của sự vận động, giáo dục, tổ chức tranh đấu và tự nguyện
đoàn kết theo chủ trương lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thông qua vai trò nòng
cốt chính trị và lôi cuốn của những đảng viên cộng sản trong các tầng lớp nhân
dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
- Hai là, linh hoạt về mặt tổ chức với những tên gọi khác nhau của Mặt
trận và các tổ chức chính trị - xã hội qua mỗi thời kỳ, nhưng bản chất yêu nước
và cách mạng của những tổ chức này không thay đổi.
+ Qua từng giai đoạn, nhiệm vụ cách mạng có sự điều chinh và thay đổi, nên
việc tổ chức Mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội cũng có sự thay đổi. Từ Hội Phản
đế đồng minh đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939) rồi Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh), Mặt trận Liên Việt,
Mặt trận Tô quốc, Mặt trận Dân tộc giải phóng, Liên minh các lực lượng dân tộc
dân chủ và hoà bình Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay...
+ Khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, đòi hỏi tập hợp
lực lượng thật rộng rãi thì các đoàn thể đều chuyển thành tổ chức mang tên cứu
quốc (Công hội cứu quốc, Nông hội cứu quốc, Đoàn thanh niên cứu quốc, Hội Phụ
nữ cứu quốc, Hội Phụ lão cứu quốc, Đội nhi đồng cứu quốc...).
- Ba là, mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội cũng không giống nhau.
+ Đảng Cộng sản không chi là người lãnh đạo mà còn là một thành viên
trong Mật trận, do đó Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng phương thức riêng không
giống như lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội khác mà Đảng không phải là
một thành viên trong đó. Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc bằng phát huy vai trò
tổ chức thành viên của mình, nên đó là thành viên lãnh đạo. Là thành viên lãnh
đạo nhưng lại bình đẳng trong các thành viên của Mặt trận Tổ quốc chứ không
6
đứng trên các thành viên khác. Sự tinh tế của đặc điểm này chính là nét riêng có
của Mặt trận Tổ quốc.
+ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức cộng sản trẻ tuổi,
là đội hậu bị của Đảng. Điều lệ Đảng có một chương riêng nói về quan hệ giữa
Đảng và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đảng trực tiếp lãnh đạo
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, không thông qua tổ chức Đảng đoàn.
1.2. Yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu đặt ra về sự lãnh đạo của Đảng với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội rất cao, đó là:
Một là, Đảng phải coi lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội là con đường cơ bản để tập hợp lực lượng quần chủng
trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Đe phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, phải tập hợp nhân dân thành
các tổ chức, vì sức mạnh của tổ chức sẽ nhân lên nhiều lần sức mạnh của cá
nhân riêng rẽ. Đó là con đường cơ bản để Đảng tập hợp lực lượng quần chúng
trong bảo vệ và xây dựng đất nước. Kinh nghiệm đó chẳng những đúng trong
thời kỳ đấu tranh cách mạng trước đây mà cũng rất cần thiết trong tình hình hiện
nay khi nhân dân ta đang phải phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc để trờ
thành động lực chủ yếu cho sự phát triển đất nước.
Hai là, Đảng cần phải lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội bằng phương pháp dân chủ, đi theo đường lối quần chúng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức của
dân, phục vụ cho dân, bênh vực quyền lợi của dân. Muốn cho dân tôn trọng
Đảng thì Đảng trước hết phải tôn trọng dân. Đảng tôn trọng dân thì tất yểu phải
tôn trọng các tổ chức của dân. Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức là phương pháp dân chủ, đi theo đường lối quần chúng, tôn trọng Điều lệ
của các tổ chức quần chúng. Đảng khuyến khích và phát huy cao độ tính chủ
động sáng tạo của các tổ chức này. Bệnh quan liêu, mệnh lệnh, áp đặt hoặc bao
biện làm thay đều trái với tinh thần dân chù và đường lối quần chúng.
Ba là, sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức cần phải phù hợp với vị
trí, vai trò và đặc điểm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và từng tổ chức chính trị
- xã hội. không sơ cứng, dập khuôn. Không dễ dàng nhận biết rõ những đặc
điểm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và từng tổ chức, và nếu không làm được
như vậy thì sự lãnh đạo của Đảng sẽ phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, giáo
điều. Không thể mang những nhận thức, phương thức truyền thống của ngày
hôm qua để nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong lãnh đạo Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội của ngày hôm nay, vì tình
hình đã thay đổi vô cùng nhanh chóng.
Bốn là, Đảng cần phát huy vai trò của Nhà nước trong thực hiện sự lãnh
đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
7
Khi đã giành được chính quyền, Nhà nước có trách nhiệm thực hiện
quản lý toàn xã hội theo đường lối của Đảng, Mặt trận và các tổ chức chính trị
- xã hội là chỗ dựa của chính quyền. Nhà nước thể chế hoá sự lãnh đạo của
Đảng thành các văn bản pháp quy, tạo hành lang pháp lý và các điều kiện cần
thiết cho Mặt trận và các đoàn thể hoạt động... Không có cơ sở pháp lý của
Nhà nước, mọi hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể nhân
dân sẽ không có kết quả thực tế, mặc dù phương thức hoạt động cơ bản của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân là hiệp thương dân chủ.
Năm là, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở giữ vai trò quan trọng trong hệ thống lãnh đạo
của Đảng nên cần phải hướng về cơ sở, tạo mọi thuận lợi để phát huy tiềm năng
của cơ sở, khai thác hết sức mạnh từ cơ sở để làm điểm tựa vững chắc cho cả hệ
thống.
Cấp cơ sở là khâu trọng yếu thực hiện mọi đường lối chủ trương, chính
sách, pháp luật, trực tiếp và thường xuyên diễn ra mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân, song cấp cơ sở hiện nay cũng đang còn nhiều yếu kém và gặp
rất nhiều khó khăn, trong đó có cả khó khăn do các cấp trên cơ sở tạo ra.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở
cơ sở giữ vai trò quan trọng. Đó chính là sự lãnh đạo của chi bộ, Đảng bộ cơ sở
nhằm giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh, thúc đẩy các phong trào hành động thực hiện vai trò lảm chủ của
người dân.
II. Thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Gần một thế kỷ, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức nói riêng không ngừng được giữ vững và đổi mới.
Đó là nhờ Đảng có đường lối chính trị đúng đắn và phương thức lãnh đạo phù
hợp đã biến đường lối, quan điểm của Đảng thành hiện thực, thành hành động
cách mạng của toàn dân, tạo nên những thắng lợi vẻ vang. Tuy nhiên, ngày nay
khi có chủ trương phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đã đặt ra
nhiều vấn đề mới về sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội.
2.1. Ưu điểm trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội trên những mặt chủ yếu sau đây:
2.1.1. Đổi mới quan điểm lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
- Đảng nhất quán khẳng định “Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì
dân”. Thực tiễn công cuộc đổi mới đã chứng minh sự nhất quán quan điểm đó.
Quan điểm này được thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta, nhằm mục tiêu vì cuộc sống ấm no và hạnh phúc của nhân dân.
8
Trong khi xây dựng và thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước luôn coi nhân dân là lực lượng chủ yếu, đồng thời tạo điều kiện để nhân
dân thực hiện vai trò làm chủ của mình, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
2.1.2. Đảng coi việc giải quyết quan hệ lợi ích của dân, kết hợp hài hòa các
lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa công dân là động lực thúc đẩy phong trào
hành động của nhân dân
- Chính sách của Đảng đã luôn coi trọng trước hết vì lợi ích kinh tế của
người dân, bảo đảm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, tôn trọng vai trò tổ chức
lao dộng của xã hội.
+ Đổi mới cách thức hưởng thụ sản phẩm được phân phối và tiêu dùng của
cá nhân. Nhiều chủ trương mới đề ra nhằm bảo đảm quyền lợi thiết thân trong đời
sống của dân như ăn, mặc, ở, học hành, đi lại, môi trường sống, bảo đảm lợi ích
tinh thần như quyền làm chủ (tự do, bầu cử...), lợi ích xã hội, lợi ích được chăm lo
phát triển toàn diện của con người, được học hành, phát huy tài năng, được thông
tin, hưởng thụ văn hoá...
+ Nghị quyết Trung ương 8B đề ra nguyên tắc chỉ đạo: “trong xã hội do
nhân dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội gắn chặt và
thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp”. Công tác vận
động và tổ chức lực lượng nhân dân chỉ có thể thành công nếu trước hết bảo vệ và
đáp ứng dược trên thực tế lợi ích thiết thân của người dân, kết hợp hài hoà các lợi
ích, gắn chặt quyền lợi vả nghĩa vụ công dân, kiên quyết đấu tranh gạt bỏ sự đặc
quyền, đặc lợi về các nhóm lợi ích.
+ Như vậy, để động viên được tinh tích cực của nhân dân trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, Đảng chủ trương lãnh đạo Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội từ Trung ương đến cơ sở phải bám sát nhân dân, hiểu biết nhân dân, nắm
chắc yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của họ, đặc biệt là những vấn đề mới nảy
sinh, kịp thời giải quyết về mặt chính sách, cơ chế và có biện pháp cụ thể nhằm
chăm lo và bảo vệ lợi ích thiết thực của nhân dân. Mặt khác, cần khắc phục hiện
tượng vô cảm, xem nhẹ việc chăm lo bồi dưỡng sức dân, dựa vào chủ trương xã hội
mà huy động quá nhiều sự đóng góp của dân.
- Đa dạng hoá hình thức tập hợp nhân dân
+ Trong thời kỷ đổi mới, Đảng đề ra chủ trương đa dạng hoá các hình
thức tập hợp nhân dân cho phù hợp với những thay đổi trong xã hội.
+ Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, cơ cấu xã hội và cơ
cấu giai cấp đã có nhiều thay đổi, nhu cầu về lợi ích của các tầng lớp xã hội, nhu
cầu liên minh, liên kết xã hội rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, để phát huy sức
mạnh của nhân dân trong xây dựng cuộc sống mới cần phải có nhiều hình thức
tập hợp mới.
+ Trình độ mọi mặt của các tầng lớp nhân dân ngày nay đã thay đổi và
không đồng nhất, các hình thức tập hợp nhân dân cần đa dạng cho phù hợp với
các đổi tượng khác nhau. Theo tinh thần đó, trong những năm qua, việc đa dạng
9
hoá các hình thức tập hợp nhân dân thể hiện trên nhiều mặt: đa dạng hoá về tổ
chức, ngoài việc tập hợp và tổ chức quần chúng theo các tổ chức truyền thống,
đã tập hợp mọi tầng lớp nhân dân vào các hình thức dân sự mới như các hội,
hiệp hội, câu lạc bộ, các loại quỹ, các ban liên lạc, các hoạt động tham quan, du
lịch, văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao... Việc tập hợp quần chúng theo nghề
nghiệp, nguyện vọng, sở thích... đã và đang phát triển rất nhanh chóng. Đến nay,
theo thống kê chưa đầy đủ, đã có trên 300 hội quần chúng ở quy mô toàn quốc,
hàng ngàn hội ở địa phương và khoảng hơn 200 hội và hiệp hội ngành nghề.
Chưa bao giờ các tổ chức dân sự phát triển nhiều như những năm qua và đang
có xu hướng ngày càng gia tăng trên khắp mọi miền, mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
- Xác định trách nhiệm lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội của cả hệ thống chính trị các cấp.
+ Theo quan niệm truyền thống, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội thường được coi chỉ là của Đảng, nhưng hiện nay trong điều
kiện đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân chủ yếu phải thông
qua Nhà nước, bằng hệ thống luật pháp, chính sách và được thể hiện bằng trình
độ, năng lực và đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
+ Bất cứ một khuyết điểm, sai lầm nào của Nhà nước đều ảnh hưởng xấu
đến quyền lợi của người dân, làm tổn hại tới uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng và
quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
+ Sự đổi mới quan điểm của Đảng đã tạo nên bước tiến mới, cụ thể trong
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các TCCTXH, cụ thể là:
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã tích cực góp phần
phục vụ lợi ích cho nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân đã góp phần thúc đẩy các phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động rộng rãi, tạo điều kiện cho người dân
chú động giúp nhau làm kinh tế hộ, tín chấp cho vay vốn; triển khai các dự án kinh tế
- xã hội, vận động giúp đỡ động viên khuyến khích người khó khản, người tiên
tiến, mô hình mới, làm gương cho đoàn viên, hội viên và quần chúng. Các cuộc
vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát động đã có tác
động tích cực vào việc phát triển kinh tế, xã hội, xoá đói giảm nghèo, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, góp phần
làm nên những thảnh tựu rất quan trọng có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi
mới đất nước.
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã góp phần phát
huy dân chủ, đề cao vai trò làm chủ của nhân dân.
Thông qua hoạt động trong hệ thống tổ chức của mình, tích cực đóng góp
vào việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đưa ra nhiều sáng kiến pháp luật,
đóng góp vào việc xây dựng, tuyên truyền phổ biến pháp luật. Qua các phương
tiện thông tin đại chúng với hơn 30 tờ báo, tạp chí, các buổi phát thanh và truyền
10
hình, qua diễn đàn Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp,... Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội đã phản ánh tâm tư, nguyện vọng, yêu cầu của
quần chúng, phê phán các biểu hiện vi phạm dân chủ, các hiện tượng tiêu cực
trong xã hội. Báo chí của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn tích
cực tham gia giám sát và phản biện xã hội, góp phần đấu tranh với tham nhũng,
tiêu cực, tha hoá của những cán bộ trong hệ thống chính tri, làm mất lòng tin của
nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã lựa chọn, giới thiệu những người xứng
đáng để nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, giảm dần lối
bao biện làm thay của tổ chức Đảng và cơ quan chính quyền. Những tiến bộ
trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân tác động tuy còn khiêm tốn, nhưng là những bước đổi
mới trong hoạt động thực tế của các tổ chức này. Đại hội XI đã đề ra chủ trương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội đối với
quá trình xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước, kể cả công tác tổ chức cán bộ. Đó là một bước tiến quan trọng
trong đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mở ra
một triển vọng phát triển mới để phát huy vai trò, nhiệm vụ của tổ chức này
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn
hiện nay và những năm tiếp theo.
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã đưa
hoạt động của tổ chức mình về cơ sở, chăm lo xây dựng tổ chức, bồi dưỡng cán
bộ, gắn bó hơn nữa với các tầng lớp nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã tăng cường củng cố
tổ chức ở cơ sở và tích cực đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ, kiện
toàn các Ban Công tác Mặt trận ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, triển khai cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ờ khu dân cư” và cuộc vận
động “Vì người nghèo” thiết thực góp phần nâng cao đời sống nhân dân ở cơ sở.
Các tổ chức chính trị - xã hội đã kiên trì phát triển tổ chức, khắc phục tình
trạng “trắng” về tổ chức, củng cố các cơ sở yếu kém, đẩy mạnh kết nạp đoản
viên, hội viên, tăng cường đầu tư đào tạo cán bộ, giúp đỡ, động viên đội ngũ cán
bộ cơ sở tích cực hoạt động. Các lớp bồi dưỡng, các hình thức tham quan học
tập mô hình thực tế, các cuộc thi tìm hiểu và thi tài năng của cán bộ cơ sở về
nghiệp vụ, về xử lý các tình huống công tác vận động quần chúng, đã tạo nên
hình ảnh sinh động trong hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Ở cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội đã xây dựng chương trình hoạt
động cụ thể, khẩu hiệu hành động rõ, nên ở một số nơi các đoàn viên, hội viên
tích cực hưởng ứng tham gia phong trào quần chúng, hoạt động của các tổ chức
có tiến bộ.
Tuy nhiên, xét về thực chất, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chưa làm
đúng chức năng nhiệm vụ của mình. Do còn phụ thuộc, bị động theo lối “bao
cấp” vào sự lãnh đạo, nên các tổ chức này đang rơi vào tình trạng hoạt động kém
11
hiệu quả. Vai trò đại diện cho quyền lợi của dân chưa được phát huy nên chưa
thu hút được ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. Tỷ lệ nhân dân tham gia vào
các đoàn thể nhân dân không cao, thường chi 30 ÷ 40% số thành viên trong giới
tham gia vào đoàn thể của giới mình.
2.1.3. Đối mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Trong quá trình đổi mới đất nước, cỏ thể ghi nhận những đổi mới trong
phương thức lành đạo của Đảng. Đó là:
- Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước, tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức hoạt động
+ Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng thông qua Nhà nước thực hiện sự
lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo quan
điểm đó, Quốc hội, Chính phủ đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp quy
để từng bước hoàn chỉnh môi trường pháp lý, tạo điều kiện cho hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Chính phủ tổ chức thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội như: Xoá
đói giản: nghèo, trợ giúp các xã, huyện, khó khăn, xây dựng trường học, cơ sờ y
tế, phủ sóng phát thanh, truyền hình cho nông thôn, miền núi... tạo điều kiện
thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt
động.
+ Các cấp chính quyền đã biết dựa vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội để tổ chức các phong trào hành động của nhân dân, nổi lên là
phong trào thi đua yêu nước hoàn thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các
cuộc vận động rộng rãi của các tổ chức chính trị - xã hội để dộng viên giới mình tích
cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước, chấp hành pháp luật, góp
phần ổn định xã hội, nhất là trong những tình huống bất thường.
- Đa dạng hoá hoạt động lãnh đạo của tổ chức Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
+ Quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân là quá trình không ngừng khắc phục những hạn
chế, yếu kém của các tổ chức đảng để tìm ra cách lãnh đạo tốt nhất. Có thể nêu
lên một số đổi mới sau đây:
1. Ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết để cụ thể hoá đường lối đổi mới đối
với công tác quần chúng, đối với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiều lần ra nghị quyết liên quan đến
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó phải kể
đến Nghị quyết số 8B của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VI) ngày
27/3/1990 để “Đổi mới công tác quần chủng của Đảng, tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân”, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị (khoá VI) về Đại
đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất (17-11-1993) và đầu năm 2003
12
là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá IX) về Phát huy sức kết toàn dân
tộc, về Công tác dân tộc và Công tác tôn giáo. Đối với xây dựng giai cấp công
nhân trong giai đoạn mới, gắn với phát triền công nghiệp, công nghệ theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Trung ương Đảng đã có những nghị
quyết chuyên đề. Riêng đối với lực lượng thanh niên và Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Đảng đã có Nghị quyết 04 (khoá VIII). Đối
với các đối tượng quần chúng và các tổ chức quần chúng khác, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư thị, nghị quyết chuyên đề. Nhiều cấp ủy và tổ chức đảng đã triển
khai thực hiện các nghị quyết, chi thị của Trung ương bằng việc ra các văn bản
hướng dẫn, chỉ đạo hoặc xây dựng thành chương trình hành động của địa
phương mình, ngành mình.
2. Lãnh đạo xây dựng, củng cố tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội, Đảng đã có chủ trương xây dựng, củng cố tô chức của Mặt
trận toàn thể nhân dân cho phù hợp tình hình mới, hướng dẫn đổi tên các tổ chức
đã có; phát triển nhiều tổ chức quần chúng rộng rãi của các ngành, các giới, lãnh
đạo các tổ chức quần chúng tự đổi mới nội dung và phương thức hoạt động.
Để tập hợp các tầng lớp nhân dân, Đảng đã lãnh đạo việc tăng cường
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhất là những người ngoài Đảng.
Đổi tên một số đoàn thể nhân dân như Tổng Công đoàn Việt Nam điều hành
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam
đổi thành Hội Nông dân Việt Nam cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ
Mặt trận và các tổ chức, từ khâu xây dựng quy hoạch cũng như công tác quản lý
đội ngũ. Các tổ chức đảng đã từng bước cải tiến việc phân công, phân cấp quản
lý cán bộ; đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng sử dụng, Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân và đa đổi mới lành đạo đối với xây dựng đội ngũ cán bộ của Mặt
trận và các tổ chức chính trị - xã hội, giới thiệu đảng viên có tín nhiệm để quần
chúng lựa chọn những người xứng đáng giữ cương vị chủ chốt của tổ chức
mình. Việc lập lại tổ chức Đảng đoàn chính là nhằm phát huy tính dân chủ và sự
chủ động, sáng tạo trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội.
Văn kiện Đại hội IX và Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương (khoá IX) đã khẳng định không phân biệt người trong Đảng và
ngoài Đảng trong đường lối đại đoàn kết, gạt bỏ sự phân biệt trong công tác cán
bộ là một tiến bộ trong nhận thức và quan điểm lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đổi mới lãnh đạo, xây dựng tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng
còn tăng cường lãnh đạo phối họp, kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền với Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân. Cùng với sự chuyển biến về công tác dân vận của
chính quyền, Đảng đã tăng cường lãnh đạo việc phối hợp giữa các cấp chính
quyền với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác vận động
quần chúng. Nhiều văn bản liên tịch giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với cơ
13
quan Nhà nước đã được ký kết và triển khai thực hiện, góp phần tạo điều kiện
cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của mình.
3. Củng cố tổ chức Đảng nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo đối với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội: Việc thành lập và củng
cố các Đảng đoàn, Hội đồng công tác quần chúng Trung ương là bước tiến về tổ
chức của Đảng để tăng cường sự lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể
nhân dân.
Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu cho Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về công tác dân vận, ra đời từ sau Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930) và sau đó đã có nhiều
tên gọi khác nhau. Từ ngày 17-3-1981, do nhu cầu tăng cường công tác tham
mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân vận, Ban Dân vận
Trung ương được lập ra và có hệ thống Ban Dân vận cho tới huyện, thị (ở cơ sở
xã, phường thì lập khối dân vận).
Đảng đã cử cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong cấp ủy phụ trách công tác
dân vận. Ở cấp Trung ương là một ủy viên Bộ Chính trị hoặc ủy viên Ban Bí
thư, còn ở các cấp, thường là một ủy viên Ban Thường vụ được giao đảm
nhiệm công tác này. Tuỳ theo số lượng cấp ủy viên ở mỗi cấp, trong Đảng
đoàn Mặt trận và một số đoàn thể nhân dân đều cử một cấp ủy viên làm Bí
thư Đảng đoàn hoặc trực tiếp giữ chức vụ lãnh đạo cao nhất của tổ chức này.
Ban Chấp hành Trung ương và các cấp ủy địa phương đã tiến hành công
tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết liên quan đến
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Trung ương Đảng hướng sự lãnh đạo về cơ sở, nhất là xã, phường, tập
trung vào nhiệm vụ chủ yếu là đoàn kết nhân dân, xây dựng cơ sở chính trị vững
mạnh. Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18-12-1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ năm (khoá IX) (Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18- 3-2002)
về Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn... là những văn bản chỉ đạo quan trọng nhằm phát huy vai trò của Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở.
4. Gắn liền công tác xây dựng Đảng với xây dựng Mặt trận và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương
sáu (lần 2) khoá VIII cũng như việc thực hiện Nghị quyết 4 Trung ương (khoá
IX) tuy chưa đạt được yêu cầu mong muốn, nhưng các tầng lớp nhân dân đã
đóng góp nhiều ý kiến xây dựng Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội ở nhiều nơi đã tổ chức việc phê bình cán bộ, đảng viên và
tổ chức Đảng. Lực lượng trẻ được kết nạp vào Đảng qua sự giới thiệu của tổ
chức Đoàn mỗi năm một tăng. Nghị quyết Trung ương lần thứ bảy (khoá IX)
14
còn đặt ra vấn đề “Nghiên cứu việc giao cho tổ chức Công đoàn giới thiệu
những công nhân ưu tú để kết nạp vào Đảng”.
Đã xây dựng được chế độ giao ban định kỳ giữa Thường trực Ban Bí thư với
Ban Dân vận Trung ương, Đảng đoàn Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Chế độ báo cáo cũng dần dần được xây dựng. Ở địa phương nhiều nơi đã thực hiện
đều đặn chế độ giao ban hàng tháng, hàng quý giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân. Chế độ thông tin trong Đảng, giữa Ban Dân vận của Đảng,
Văn phòng cấp ủy với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cũng từng bước
được thực hiện, làm cho công tác xây dựng Đảng gắn bó hơn với xây dựng Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
5. Coi trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về sự lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Trước những biến đổi về cơ cấu xã hội và công tác vận động quần chúng,
hoạt động nghiên cứu khoa học về tình hình quần chúng và công tác quần chúng
đã được chú ý nhằm tập họp khai thác thông tin cần thiết trong khi đánh giá tình
hình và tìm tòi những chủ trương, giải pháp mới. Ban Dân vận Trung ương đã
lập Vụ Nghiên cứu sau đổi tên là Trung tâm Nghiên cứu khoa học dân vận. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và 5 tổ chức chính trị - xã hội đã lập ra các tổ chức làm
công tác nghiên cứu lý luận của mình. 61/63 trường chính trị tỉnh, thành phố đã
thành lập Khoa Công tác dân vận để giảng dạy về lý luận và thực tiễn công tác
dân vận trong hệ thống chính trị. Nhiêu đê tải nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nước, cấp Bộ, cấp địa phương, nhiều luận án khoa học Tiến sĩ và luận văn thạc
sĩ về công tác dân vân, công tác mặt trận và các đoàn thể nhân dân đã tìm tòi con
đường đổi mới phương thức lãnh đạo cảu Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân.
2.2. Những hạn chế.
- Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là một nội
dung quan trọng trong toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng, nhưng việc đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nói
riêng còn chậm. Các cấp ủy Đảng vẫn lãnh đạo Mặt trận và các tổ chức chính trị
- xã hội theo những quan điểm và phương thức truyền thống. Trong giai đoạn
mới hiện nay, khi tình hình và nhiệm vụ cách mạng đã thay đổi, cơ cấu xã hội đã
biến đổi, nền kinh tế thị trường đang hình thành và phát triển trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sâu, rộng thì các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng vẫn còn chung
chung nội dung thiếu cụ thể. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết còn nhiều thiếu
sót. Cấp dưới thường mô phỏng nghị quyết của cấp trên; chưa kịp thi hành nghị
quyết cũ đã vội ban hành nghị quyết mới. Qua các cuộc điều tra, 65,5% số người
được hỏi đều cho rằng Nghị quyết của Đảng không cụ thể, không rõ trách
nhiệm; 55,8% cho răng việc kiểm tra tổ chức thực hiện yếu. Việc học tập nghị
quyết của Đảng còn mang tính hình thức, càng xuống dưới càng bị cắt xén và
thiếu chỉ ra những việc làm cụ thể. Có những hẹ thống “bỏ rơi”, “nợ đọng” việc
học tập nghị quyết.
15
- Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về Mặt
trận và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm, thiếu đồng bộ. Luật Mặt trận,
Luật Công đoàn đã được ban hành nhưng chưa có luật về các tổ chức quần
chúng khác, nhất là Luật về Hội là yêu cầu cấp bách nhưng cho đến nay vẫn
chưa ra đời.
- Lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội còn nhiều vấn đề bất cập, chủ yếu là những vấn đề dưới đây:
+ Về Đảng đoàn: Quy chế tổ chức và hoạt động của Đảng đoàn còn một
số vấn đề chưa rõ: Tổ chức Đảng đoàn của Mặt trận Tổ quốc như thế nào là phù
hợp? Mối quan hệ giữa Đảng đoàn cấp trên và cấp dưới, giữa Đảng đoàn ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Đảng đoàn của các tổ chức chính trị
- xã hội chưa được xác định rõ...?
+ Đầu mối lãnh đạo còn nhiều bất hợp lý: có khi cùng một cấp ủy nhưng
các đoàn thể lại do các cấp trên khác nhau ờ cấp ủy khác nhau lãnh đạo, chi đạo.
+ Chưa có chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận và các tổ chức
chính trị - xã hội theo yêu cầu mới. Đội ngũ này đang dần trở thành công chức
Nhà nước, một số mắc bệnh quan liêu, hành chính, không sát dân, ít người cố
tâm hoạt động trong Mặt trận và đoàn thể. Chế độ chính sách, điều kiện làm việc
cho cán bộ còn nhiều bất cập. Qua điều tra xã hội học 39,3% số người được hỏi
cho là cán bộ Mặt trận, đoàn thể yếu kém, trong đó gần 50% cho là thiếu được
sự quan tâm của cấp ủy Đảng và chính quyền, 38,3% số người được hỏi cho
rằng Mặt trận và các đoàn thể chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động. Công tác tập hợp nhân dân ờ cơ sở yếu kém. Ở những vùng xảy ra “điểm
nóng” vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức giảm sút và lu mờ.
Hoạt động của Mặt trận Tô quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chủ yếu
là hội họp, nặng về phổ biến sự chỉ đạo một chiều từ trên xuống, ít có ý kiến
tranh luận, nội dung thường trùng lặp và tràn lan, việc gì cũng tham lam ôm đồm
nhưng đều không mang lại kết quả rõ rệt. Cán bộ Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân ít có thời gian đi sâu tìm hiểu thực tế, đối thoại với dân, lắng nghe ý kiến
của dân. Bệnh hành chính hoá, nhà nước hoá, bệnh hình thức, bệnh thành tích
đang tồn tại và phát triển trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân.
Công tác thông tin, báo cáo công khai, minh bạch còn yếu. Thông tin
thiếu đa dạng, nhất là ít thông tin nhiều chiều và thông tin phản hồi. Không ít
trường hợp lãnh đạo không nắm được thông tin, do việc tổ chức thông tin chưa
khoa học, do bệnh thành tích, sợ khuyết điểm nên bưng bít thông tin với cấp
trên. Tình trạng “nhiễu thông tin” còn khá phổ biến. Chế độ báo cáo của cấp
dưới lên cấp trên, của cơ quan Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể cho các cấp có
thẩm quyền và việc trả lời những kiến nghị, đề xuất của cấp dưới, của cơ quan
Nhà nước, Mặt trận và đoàn thể không kịp thòi và chưa thành nền nếp.
16
Việc kiểm tra các hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân chưa kịp
thời, nên không phát hiện được nhân tố mới và uốn nắn những lệch lạc. Việc sơ kết,
tổng kết đạt chất lượng thấp, nặng về báo cáo thành tích, chưa có tính khái quát và
chưa rút ra được các bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế:
- Công tác quần chủng của Đảng chưa được coi trọng khi Đảng Cộng sản
trử thành đảng cầm quyền. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội không được xác định đúng đắn, những tổ chức này chưa thoát
khỏi tình trạng phụ thuộc trong hệ thống chính trị. Việc đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn chưa thoát khỏi những quan
điểm và phương thức truyền thống. Chưa xây dựng được lý luận về Đảng cầm
quyền là một khoảng trống lớn trói buộc sự đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tồ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của cả hệ thống chính trị nước ta
chưa được đổi mới mạnh mẽ, bộ mảy lãnh đạo và quản lý đất nước đang bị quan
hoá một cách nặng nề. Những thiếu sót trong hệ thống Đảng, Nhà nước tác động
trực tiếp đến tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội. Những thiếu sót này tồn tại dai dẳng và ngày càng trầm
trọng và không được khắc phục đã là trở ngại cho đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Bản thân Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
chưa tự vươn lên đổi mới nhận thức và tổ chức, hoạt động của tổ chức mình
trước sự biến đổi nhanh chóng của đất nước.
Đó là ba nguyên nhân cơ bản làm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chậm đổi mới. cần phải nỗ lực to lớn
vượt bậc mới có thể khắc phục nổi ba nguyên nhân đó. Đó thực sự là một thách
thức lớn lao đối với Đảng cầm quyền hiện nay.
III. Tính tất yếu khách quan của việc đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của mặt trận tổ quốc việt nam và các đoàn thể chính trị-xã hội
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
3.1. Những yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển đất nước
1. Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu bức xúc trong công tác vận
động quần chúng. Quá trình công nghiệp hoá đã và đang tác động, ảnh hưởng
đến toàn bộ đời sống xã hội, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự biến đổi
các tầng lớp nhân dân, các giai cấp xã hội. Công nghiệp hoá đặt ra hàng loạt vấn
đề về đô thị hoá, về vùng công nghiệp tập trung, về môi trường liên quan trực
tiếp đến cuộc sống, lao động, nghề nghiệp, sức khoẻ, công ăn việc làm, trình độ
văn hoá, chuyên môn và công nghệ, tới sự công bằng xã hội… Thực tiễn cho
thấy, huy động vốn đầu tư phát triển, huy động tiềm năng công nghiệp mà đất
nước đã xây dựng trong những năm qua, huy động tiềm lực con người mà đặc
17
biệt là huy động và tạo dựng đội ngũ lao động có kỹ năng và trí tuệ, thích ứng
nhanh với khoa học công nghệ hiện đại; bảo đảm môi trường hoà bình, ổn định
của đất nước để dồn sức cho sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh đòi hỏi phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
2. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi không ngừng
hoàn thiện và phát huy sức mạnh của toàn hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động; nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt Đảng; nâng cao chất lượng đảng viên và hoạt động của tổ chức
Đảng ở cơ sở; đổi mới công tác tổ chức, cán bộ… đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp
cách mạng hiện nay. Từng bước hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý của
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Nhà nước của chúng ta lấy mục tiêu phục vụ nhân dân, làm công bộc của
nhân dân, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, bảo vệ quyền con người, các quyền công dân… đưa đất
nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện quản lý
xã hội bằng pháp luật phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra pháp luật và
tổ chức quản lý mọi mặt của xã hội bằng pháp luật. Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức, động viên,
phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân; thực hiện Quy chế dân chủ, tham gia thực hiện công việc quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân.
3. Những thành tựu của thời kỳ đổi mới vừa qua cùng với truyền thống
đoàn kết yêu nước và ý chí tự lực, tự cường vẫn là những thuận lợi cơ bản đưa
đất nước ta vững bước vào thế kỷ XXI. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn
nhiều, mà nổi bật là nước ta vẫn là một nước nghèo, điểm xuất phát thấp; trình
độ của lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ, năng lực quản lý
vẫn còn lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Những biến động
phức tạp trên thế giới và khu vực đang tác động mạnh làm cho công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế của nước ta vốn đã rất khó khăn lại càng khó khăn
hơn, chúng ta đã phải điều chỉnh chủ trương, chính sách kinh tế, tài chính để hạn
chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Trong cơ chế thị trường, nhiều vấn đề xã
hội phức tạp tiếp tục nấy sinh, đặc biệt là các tệ nạn xã hội như: tham nhũng,
buôn lậu, ma tuý, mại dâm, cờ bạc… chưa có các biện pháp hữu hiệu để ngăn
chặn kịp thời. Vấn đề việc làm, đời sống… vẫn đang là những vấn đề bức xúc,
làm cho các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên có nhiều tâm tư lo lắng, ảnh
18
hưởng đến tính tích cực và niềm tin của nhân dân.
Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội để tăng cường công
tác đoàn kết toàn dân, tạo nên một khối thống nhất không gì phá vỡ nổi, phát
huy tinh thần yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng hiện nay.
3.2. Xuất phát từ nhu cầu của quần chúng, của đoàn viên, hội viên đối
với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị-xã hội
1. Điều kiện khách quan của kinh tế, xã hội, nhu cầu và lợi ích của đoàn
viên, hội viên đã thay đổi, nhưng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chưa thay đổi kịp. Trên thực tế, khá đông tổ chức cơ sở của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể vẫn tồn tại hình thức, chưa có hoạt động đủ sức thu hút
quần chúng, đoàn viên, hội viên, sinh hoạt chiếu lệ, tham gia miễn cưỡng; không
ít cán bộ không quan tâm, không muốn gắn bó và làm công tác Mặt trận, Đoàn
thể. Nhìn chung, hình thức hoạt động chưa thiết thực, không đáp ứng kịp thời
những vấn đề đặt ra trong đời sống của đoàn viên, hội viên. Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân chưa thật là “ chất keo” để đoàn viên, hội viên gắn bó.
Nội dung các hoạt động, sinh hoạt của các đoàn thể mới dừng lại ở việc phổ biến
nội dung chủ trương, nghị quyết của cấp trên, phân công thực hiện, ít bàn bạc
đến các vấn đề nẩy sinh từ công tác, cuộc sống đặt ra hàng ngày, hàng giờ đối
với đoàn viên, hội viên. Người đoàn viên, hội viên chưa thấy ý nghĩa của việc
vào tổ chức để sinh hoạt và hoạt động đem lại lợi ích gì cho mình, cho gia đình
và xã hội.
2. Nền kinh tế hàng hoá, với cơ chế thị trường đã tạo nên sự phát triển đa
dạng. Mọi người năng động hơn trong việc tính toán, làm ăn, đòi hỏi hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phải thay đổi cho phù hợp.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường người dân quan tâm đến thu nhập để sống,
lợi ích kinh tế được đặt lên hàng đầu. Lợi ích kinh tế hàng ngày là cơ sở để
người lao động có thể đảm bảo và cải thiện dần điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành,
bảo vệ sức khoẻ, vui chơi, giải trí, nâng cao dần chất lượng cuộc sống…Quần
chúng chỉ gắn bó với đoàn thể của mình, khi họ tìm thấy ở đó những lợi ích
chính đáng và được đoàn thể bảo vệ những lợi ích đó. Lợi ích đó gắn liền với
trách nhiệm công dân trước pháp luật và không đối lập với lợi ích cộng đồng và
dân tộc.
3. Hiệu quả là yêu cầu luôn đặt ra cho mọi hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân trong kinh tế thị trường; quần chúng, đoàn viên, hội viên phê
phán, loại trừ các cách làm hình thức, kém hiệu quả. Họ có thể tham gia hoặc
không tham gia tổ chức, không thể ép buộc, chỉ có thể vận động, thu hút bằng sự
hấp dẫn. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với việc công khai nhận
xét, góp ý, phê phán của đoàn viên, hội viên trên các lĩnh vực hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức
19
và hoạt động, thì mới tập hợp được quần chúng.
IV. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của mặt trận tổ quốc việt nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội trong thời kỳ mới
4.1. Quan điểm
1. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và
tiếp tục mở rộng dân chủ, phát huy tiềm năng sáng tạo của các tầng lớp nhân
dân, thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
2. Hướng mạnh về cơ sở, thực sự vì cơ sở, chăm lo nhu cầu, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân. Nâng cao
tính tự giác và gắn bó của quần chúng với việc xây dựng tổ chức Mặt trận và các
đoàn thể vững mạnh, tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào
thi đua yêu nước.
3. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể là công việc thường xuyên, đòi hỏi sự chủ động, sáng tạo của mỗi tổ
chức, mỗi cấp, phù hợp với đặc điểm địa phương, cơ sở. Xây dựng mối quan hệ
gắn bó, chặt chẽ trong phối hợp hành động giữa Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể, tạo thành phong trào quần chúng rộng lớn của các tầng lớp nhân dân, có nội
dung, hình thức phong phú, đa dạng.
4. Kiện toàn tổ chức bộ máy và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới, phát triển đất
nước bền vững và hội nhập quốc tế.
4.2. Mục tiêu
1. Tạo sự chuyển biến thực sự, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong
công tác tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân, thực hiện phong trào thi đua
yêu nước; hướng mạnh về cơ sở, sát với dân, nắm được dân, hiểu được dân,
phục vụ dân, được dân tin cậy; khắc phục bằng được tình trạng hành chính hoá,
phô trương, hình thức trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
2. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò đoàn kết, tập hợp
quần chúng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tăng cường sự đồng thuận xã
hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện
thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
4.3. Nhiệm vụ và những giải pháp
1. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục đoàn viên, hội
viên và quần chúng nhân dân nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
20
trị-xã hội
- Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục đoàn viên,
hội viên về trách nhiệm xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh;
về ý thức, năng lực làm chủ, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống cách mạng của
dân tộc, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao nhận thức về
quyền và nghĩa vụ công dân, sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể coi trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục chính trị tư tưởng, văn hoá, nghề nghiệp, chính sách, pháp luật xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho đoàn viên, hội viên và quần chúng
nhân dân. Giác ngộ, tập hợp quần chúng vào tổ chức và tự nguyện hoạt động
vì tổ chức đoàn thể; động viên, cổ vũ những nhân tố tích cực, phê phán các
nhận thức và việc làm tiêu cực có hại đến tổ chức và lợi ích của mỗi đoàn thể,
đoàn viên, hội viên.
- Kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về tổ chức, hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các giai tầng xã hội trong điều kiện thực hiện
nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Củng
cố liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, làm
cơ sở xã hội cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và vai trò làm chủ của nhân dân thông
qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội trong cơ chế
chính trị nước ta, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
nâng cao đời sống nhân dân.
- Đảng và Nhà nước thực sự tạo cơ chế, điều kiện để Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị-xã hội làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; uốn
nắn kịp thời những biểu hiện lệch lạc, xa rời tôn chỉ, mục đích trong nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
2. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân
- Phát huy tiềm năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội
viên, tập trung đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, làm cho đất nước
phát triển bền vững.
- Xây dựng và nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, với hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với đặc điểm
đối tượng vận động theo phương châm không bỏ sót đối tượng, ở đâu có quần
chúng, ở đó có công tác vận động và quần chúng được tổ chức, lãnh đạo thông
qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội. Cổ vũ, động
viên kịp thời những cách làm hay, sáng tạo và có hình thức tôn vinh đối với các
21
tập thể, cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, doanh nhân có những cống hiến,
đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
- Tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm để có kế hoạch phối hợp, lồng
ghép các mục tiêu và nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể,
tránh chồng chéo và có phân công rõ trách nhiệm để Mặt trận Tổ quốc giữ vai
trò chủ trì, các đoàn thể thành viên giữ vai trò phối hợp.
- Chủ động phát hiện, xây dựng các mô hình phù hợp để tập hợp các đối
tượng quần chúng như: mô hình chuyển giao khoa học, kỹ thuật; xây dựng mô
hình VAC, VACR, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tín chấp ngân hàng để vay vốn
phát triển sản xuất. Thành lập các câu lạc bộ theo sở thích, nghề nghiệp, diễn
đàn sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể
thao,... đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống của đoàn viên,
hội viên và nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các đoàn thể chính trị-xã hội chủ động
phối hợp với các cơ quan thông tin, tuyên truyền của Đảng và Nhà nước để
tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, phản ánh, nắm bắt tư tưởng và khuyến
khích cách làm hay, sáng tạo của đoàn viên, hội viên và nhân dân trong các
phong trào cách mạng của quần chúng.
- Chú trọng tổng kết các phong trào, các cuộc vận động, tìm ra những
nhân tố mới để tham mưu, kiến nghị với Đảng, Nhà nước bổ sung, hoàn chỉnh
chủ trương, chính sách về công tác vận động quần chúng; xây dựng lực lượng
cốt cán, phát huy vai trò những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng, gia
đình, dòng họ trong công tác vận động quần chúng.
3. Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng
mạnh các hoạt động về cơ sở; phát huy tính năng động sáng tạo của Mặt
trậnTổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội các cấp trong công
tác vận động quần chúng, phù hợp với đặc điểm từng địa phương, cơ sở
- Thực hiện đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân phù hợp với yêu
cầu phát triển của xã hội, để phát huy khả năng sáng tạo và giải quyết những lợi
ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng
cuộc sống mới hiện nay.
- Tiếp tục thực hiện chủ trương hướng mạnh về cơ sở, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể cần xây dựng tổ chức theo hướng dân chủ, chất lượng, thiết
thực; không chạy theo số lượng, tích cực xây dựng, củng cố ban công tác mặt
trận, chi hội, chi đoàn ở cơ sở vững mạnh, thu hẹp diện yếu kém, nhất là ở các
vùng nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, các khu công nghiệp.
- Tăng cường tiếp xúc, trao đổi, toạ đàm với đoàn viên, hội viên và nhân
dân, lắng nghe ý kiến, giải quyết hoặc phản ánh lên cấp trên và các cơ quan chức
năng xử lý kịp thời những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, hội
viên và nhân dân. Giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công
dân, không để xảy ra khiếu kiện vượt cấp, đông người, không để phát sinh thành
22
“điểm nóng”, giữ vững ổn định chính trị ở địa phương, cơ sở.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội làm nòng
cốt trong việc phát huy dân chủ, năng lực, trí tuệ, ý thức trách nhiệm công dân,
thực hiện giám sát và phản biện xã hội; xây dựng, củng cố và hoàn thiện các
thiết chế dân chủ ở cơ sở như: quy chế về hoạt động hoà giải, quy chế giám sát
đầu tư cộng đồng và quy chế hoạt động thanh tra nhân dân; coi trọng và sử dụng
rộng rãi hoạt động tư vấn trong công tác của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở
các cấp; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa.
4. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới chính sách cán bộ của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội đáp ứng yêu cầu đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động
- Sắp xếp tổ chức bộ máy, cán bộ Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể theo hướng
tinh gọn ở cấp trung ương, cấp tỉnh; tổ chức hợp lý bộ máy cấp huyện; mở rộng
thành phần cán bộ bán chuyên trách cho cấp xã, phường, thị trấn. Coi trọng việc
kết hợp, phát huy có hiệu quả đội ngũ cán bộ: chuyên trách, bán chuyên trách
và cộng tác viên. Quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể có phẩm chất, năng lực và kỹ năng vận động quần chúng,
được phát hiện từ trong phong trào quần chúng.
- Giải thể hoặc chuyển giao những tổ chức, cơ quan, đơn vị đang hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế không thuộc chức năng nhiệm vụ của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội. Thực hiện đúng tôn chỉ, mục
đích hoạt động của từng đoàn thể trong công tác vận động quần chúng.
- Xây dựng tiêu chuẩn, chức danh, cơ chế, chính sách phù hợp đối với
cán bộ dân vận, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; chú trọng bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở những vùng đặc
biệt khó khăn như vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc, đồng bào có đạo.
- Nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ công tác vận động
quần chúng cho cán bộ mặt trận Tổ quốc, đoàn thể ở cơ sở và thôn, ấp, làng,
bản, khu phố,... nơi trực tiếp triển khai ra dân để thực hiện các chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của
địa phương, cơ sở.
- Do đặc điểm cán bộ Đoàn thanh niên luân chuyển rất nhanh, cho nên
cần quan tâm bố trí khoảng 5% biên chế cán bộ nguồn (hưởng lương và chế độ
từ cơ quan Trung ương Đoàn hoặc tỉnh Đoàn) để thực hiện việc đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển cán bộ chủ chốt của Đoàn thanh niên.
- Đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương,
Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục-Đào tạo và các đoàn thể xây dựng đề
án, sắp xếp và tổ chức lại các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn thể ở Trung
ương. Thành lập Khoa Dân vận ở Học viện Xây dựng Đảng, thuộc Học viện
23
Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân vận, mặt trận và các đoàn thể trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Củng cố, tăng
cường và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Khoa Dân vận đã có ở 63
trường chính trị của các tỉnh, thành phố hiện nay.
5. Tăng cường công tác quần chúng của chính quyền nhà nước các
cấp; thể chế hoá cơ chế phối hợp giữa chính quyền nhà nước với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội trong đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động
- Đổi mới nội dung, phương thức phối hợp hoạt động giữa cơ quan
chính quyền nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị-xã hội. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, các
quy chế phối hợp, ký kết liên tịch, chương trình phối hợp công tác giữa Uỷ
ban nhân dân với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị - xã hội các cấp.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước về
phong cách dân vận: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm
với dân”; “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, thực sự vì nhân dân, phục
vụ lợi ích của nhân dân.
- Chính quyền nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
để
phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng
và tạo mọi điều kiện để nhân dân thông qua đoàn thể của mình tham gia xây
dựng, tuân thủ chức năng quản lý và bảo vệ chính quyền nhà nước. Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể là chỗ dựa của chính quyền, từng bước phát huy vai trò
giám sát và phản biện xã hội, giúp chính quyền nhà nước khắc phục những hạn
chế, yếu kém trong quản lý nhà nước; đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu,
lãng phí và các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân được thực thi trong đời sống xã hội.
- Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị-xã hội, phù hợp với thực tiễn công tác vận động quần
chúng. Cần nghiên cứu để hình thành cơ chế Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
xây dựng “quỹ hoạt động” thông qua các chương trình, dự án, góp vốn và tiếp
nhận sự ủng hộ của các tổ chức, doanh nghiệp phù hợp với chủ trương của Đảng
và quy định của pháp luật để chủ động trong hoạt động phong trào. Không thực
hiện việc khoán kinh phí hoạt động với số lượng biên chế của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể như các cơ quan, đơn vị hành chính.
- Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đồng bộ với các thiết chế văn
hoá cơ sở phục vụ nhu cầu hoạt động học tập, vui chơi, giải trí cho thanh, thiếu
nhi và sinh hoạt cộng đồng của nhân dân.
6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới nội dung,
24
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị-xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và hội nhập quốc tế
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và hệ thống
chính trị về nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn
thể chính trị-xã hội vững mạnh. Các cấp uỷ đảng tiến hành kiểm điểm sâu sắc
việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã ban hành về công tác
Dân vận, công tác Mặt trận và các Đoàn thể. Đưa nội dung lãnh đạo xây dựng
Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể vững mạnh thành một trong những tiêu chuẩn
đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tính tiền phong gương mẫu của
cán bộ, đảng viên, phát huy tính năng động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và
các Đoàn thể phù hợp với tôn chỉ, mục đích và tính chất chính trị-xã hội của mỗi
tổ chức trong công tác tập hợp quần chúng.
- Chú trọng lãnh đạo phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các Đoàn
thể trong phát triển kinh tế, văn hoá -xã hội, quốc phòng-an ninh.Các cấp uỷ
đảng thường xuyên tiếp xúc và đối thoại trực tiếp với nhân dân, lắng nghe ý kiến
đóng góp của nhân dân.
- Xây dựng và ban hành quy chế công tác Dân vận của hệ thống chính
trị. Các cấp uỷ Đảng cần thực hiện nghiêm túc việc giao ban định kỳ với Dân
vận, Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể chính trị-xã hội.
- Bộ Chính trị tiếp tục lãnh đạo Nhà nước bổ sung, hoàn thiện luật pháp,
các văn bản pháp quy của Nhà nước; xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Đoàn thể chính trị-xã hội để góp
phần quản lý đất nước có hiệu quả.
- Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm rõ vị trí và mối
quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc với tư cách Đảng vừa là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc, đồng thời lãnh đạo Mặt trận. Quy định cụ thể nhiệm vụ của
người đại diện tổ chức Đảng trong Mặt trận Tổ quốc các cấp; đồng thời, xác
định rõ trách nhiệm của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc trong việc tham mưu cho
cấp uỷ cùng cấp về công tác quần chúng.
Quan tâm lãnh đạo công tác sơ kết, tổng kết nội dung và phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể; định kỳ hàng năm hoặc khi
thấy cần thiết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư làm việc, nghe báo cáo tình hình và định
hướng nội dung hoạt động của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
25