Tải bản đầy đủ (.pdf) (230 trang)

Khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.19 MB, 230 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

LÝ THỊ MINH HẰNG

KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA PHỤ NỮ
TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội -2014


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

LÝ THỊ MINH HẰNG

KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA PHỤ NỮ
TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Chuyên ngành: Tâm lý học chuyên ngành
Mã số: 62.31.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học 1: PGS.TS. HOÀNG ANH
Người hướng dẫn khoa học 2: TS. LÊ VĂN HẢO


Hà Nội -2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tất cả số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kì một
công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 15 tháng 01 năm 2014
Tác giả

Lý Thị Minh Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA
PHỤ NỮ TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ............... 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu
tranh chống bạo lực gia đình ............................................................................. 6
1.2. Một số vấn đề lý luận về khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh
chống bạo lực gia đình. ................................................................................... 27
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 62
2.1. Tổ chức nghiên cứu .................................................................................. 62
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận.............................................................. 70
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn .......................................................... 70
2.4. Phƣơng pháp xử lý tài liệu ....................................................................... 73
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ
CỦA PHỤ NỮ TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ....... 77
3.1. Thực trạng bạo lực gia đình của khách thể nghiên cứu .............................. 77
3.2. Thực trạng khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia

đình .................................................................................................................. 83
3.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh
chống bạo lực gia đình .................................................................................. 115

3.4. Một số trƣờng hợp điển hình................................................................. 128
3.5. Một số biện pháp tác động tâm lý nhằm khắc phục khó khăn tâm lý cho
phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình ............................................ 135
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 143
1. Kết luận ..................................................................................................... 143
2. Kiến nghị ................................................................................................... 144


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLGĐ

: Bạo lực gia đình

CLB

: Câu lạc bộ

CSAGA

: Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học
về Giới – Gia đình – Phụ nữ và Vị thành niên.

ĐTB

: Điểm trung bình


ĐLC

: Độ lệch chuẩn

HB

: Hòa Bình

HN

: Hà Nam

HV

: Hành vi

HY

: Hƣng Yên

HPN

: Hội phụ nữ

KKTL

: Khó khăn tâm lý

NT


: Nhận thức



: Thái độ


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu................................................................ 65
Bảng 2.2. Các nhóm điểm của thang đo trong bảng hỏi ........................................... 73
Bảng 3.1. Tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực tinh thần .............................................................. 80
Bảng 3.2. Tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực thể chất ............................................................... 81
Bảng 3.3. Tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực tình dục ............................................................... 82
Bảng 3.4. Tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực kinh tế ................................................................. 83
Bảng 3.5. Tỷ lệ các nhóm phụ nữ bị các hình thức bạo lực gia đình khác nhau ...... 84
Bảng 3.6. Nhận thức không đúng vai trò của ngƣời phụ nữ trong gia đình đối với
việc đấu tranh chống bạo lực gia đình ..................................................... 86
Bảng 3.7. Nhận thức không đúng về hành vi bạo lực gia đình ................................. 89
Bảng 3.8. Thái độ tiêu cực đối với bản thân trong đấu tranh chống bạo lực gia đình ... 92
Bảng 3.9. Thái độ từ bỏ đấu tranh chống bạo lực gia đình với mong muốn giữ gìn
sự ổn định của gia đình ............................................................................ 94
Bảng 3.10. Thái độ thiếu tin tƣởng vào sự giúp đỡ của ngƣời thân và cộng đồng
trong đấu tranh chống bạo lực gia đình ................................................... 96
Bảng 3.11. Hành vi của phụ nữ trong mối quan hệ với ngƣời xung quanh ............ 100
Bảng 3.12. Hành vi giải quyết vấn đề bạo lực gia đình của phụ nữ ....................... 102
Bảng 3.13. Đánh giá mức độ khó khăn tâm lý của phụ nữ (tính theo %) ............... 108
Bảng 3.14. Sự khác biệt giữa các nhóm phụ nữ bị các hình thức bạo lực gia đình
khác nhau ............................................................................................... 110
Bảng 3.15. Sự khác biệt giữa các mặt biểu hiện khó khăn tâm lý của phụ nữ tham

gia và không tham gia Câu lạc bộ “Cùng chia sẻ” ................................ 114
Bảng 3.16. Sự khác biệt về khó khăn tâm lý của phụ nữ thuộc các địa bàn khác
nhau .............................................................................................. 114
Bảng 3.17. Những khác biệt khó khăn về nhận thức trong đấu tranh chống bạo lực
gia đình .................................................................................................. 115
Bảng 3.18. Những khác biệt khó khăn về thái độ trong đấu tranh chống bạo lực gia
đình ........................................................................................................ 116


Bảng 3.19. Những khác biệt khó khăn về hành vi trong đấu tranh chống bạo lực gia
đình ........................................................................................................ 117
Bảng 3.20. Tỷ lệ phụ nữ chứng kiến bạo lực gia đình khi còn nhỏ ........................ 119
Bảng 3.21. Mức độ hài lòng về cuộc sống .............................................................. 121
Bảng 3.22. Sự hỗ trợ của ngƣời thân và cộng đồng đối với phụ nữ ....................... 123
Bảng 3.23. Tỷ lệ số con của phụ nữ tham gia khảo sát ........................................... 126
Bảng 3.24. Dự báo thay đổi về khó khăn tâm lý từ thay đổi trong nhóm yếu tố chủ
quan........................................................................................................ 128
Bảng 3.25. Dự báo thay đổi về khó khăn tâm lý từ thay đổi trong nhóm yếu tố
khách quan ............................................................................................. 129
Bảng 3.26. Cụm các yếu tố dự báo mức độ khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu
tranh chống bạo lực gia đình ................................................................. 131


DANH MỤC HÌNH VẼ - ĐỒ THỊ - BIỂU ĐỒ
Hình 1.1. Nhận diện các giai đoạn trong chu kỳ bạo lực .......................................... 35
Hình 1.2. Mô hình rào cản đối với phụ nữ ............................................................... 53
Hình 1.3. Mô hình rào cản tìm kiếm sự giúp đỡ (MBHS) ........................................ 56
Đồ thị 2.1. Phân bố điểm khó khăn tâm lý về nhận thức của phụ nữ trong đấu tranh
chống bạo lực gia đình .............................................................................................. 71
Đồ thị 2.2a. Phân bố điểm khó khăn tâm lý về thái độ của phụ nữ trong đấu tranh

chống bạo lực gia đình .............................................................................................. 71
Đồ thị 2.2b. Phân bố điểm về khó khăn tâm lý trong thái độ (sau khi đã xử lý) ........... 72
Đồ thị 2.3. Phân bố điểm khó khăn tâm lý về hành vi của phụ nữ trong đấu tranh
chống bạo lực gia đình .............................................................................................. 72
Đồ thị 2.4. Phân bố điểm khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực
gia đình ...................................................................................................................... 73
Biểu đồ 3.1. Nguồn hỗ trợ đƣợc phụ nữ bị bạo lực gia đình tìm kiếm ..................... 98
Biểu đồ 3.2. Đánh giá mức độ khó khăn tâm lý của phụ nữ .................................. 108
Hình 3.1. Tƣơng quan giữa các mặt khó khăn tâm lý ............................................. 106
Hình 3.2. Tƣơng quan giữa các biểu hiện trong từng mặt khó khăn tâm lý ........... 106


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là vấn đề có tính chất toàn cầu. Hàng năm,
trên thế giới có khoảng 20-50% phụ nữ bị bạo lực về thể chất do bạn tình hoặc
thành viên gia đình gây ra[86]. Trƣớc năm 1993, phần lớn các Chính phủ coi bạo
lực gia đình là vấn đề riêng tƣ của mỗi cá nhân. Hiện nay, thông qua các diễn đàn
quốc tế và khu vực cho sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, bạo lực gia đình đã
đƣợc nhìn nhận nhƣ một trở ngại cho sự phát triển và là sự vi phạm không thể chấp
nhận đƣợc đối với nhân phẩm con ngƣời[41].
Giống nhƣ nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam cũng phải đối mặt
với vấn đề bạo lực gia đình. Những năm qua, tình trạng bạo lực gia đình đã diễn ra
khá phổ biến ở mọi tầng lớp nhân dân và đã có mặt ở hầu hết các vùng khác nhau
trên đất nƣớc. Kết quả từ nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở
Việt Nam (2010) cho thấy: Tỉ lệ bị bạo lực thể xác do ngƣời chồng gây ra cho phụ
nữ từng kết hôn chiếm 32%, bạo lực tinh thần là 54% và bạo lực tình dục là
10%[50]. Bạo lực gia đình đã tƣớc đi của ngƣời phụ nữ sức khoẻ, tình thƣơng yêu,
lòng tự tôn, làm gia đình tan nát. Không chỉ làm kiệt quệ kinh tế gia đình, bạo lực
gia đình còn gây thiệt hại cho cộng đồng, xã hội, đất nƣớc ở nhiều mức độ khác

nhau. Nó làm giảm khả năng sản xuất của ngƣời phụ nữ trong gia đình và cộng
đồng, làm suy giảm nguồn lực từ các dịch vụ xã hội, làm giảm khả năng học tập và
giáo dục toàn diện, khả năng vận động và sáng tạo của phụ nữ, con cái và cả ngƣời
gây ra bạo lực.
Trong chiến lƣợc phát triển kinh tế- xã hội của đất nƣớc ta hiện nay, cùng
với việc phát triển kinh tế, cải cách hành chính, giảm nghèo, thực hiện các chính
sách về công bằng xã hội, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan tâm đến việc giải quyết
nạn bạo lực gia đình. Việt Nam đã chứng tỏ cam kết của mình đối với vấn đề chấm
dứt bạo lực đối với phụ nữ thông qua việc phê chuẩn một số Hiệp định quốc tế cơ
bản về quyền con ngƣời. Những cam kết này đã tạo cơ sở tiền đề cho việc xây dựng
các khung pháp lý và chính sách quốc gia nhằm giải quyết bạo lực đối với phụ nữ
tại Việt Nam. Năm 2006, Luật bình đẳng giới ra đời và tiếp theo là Luật Phòng,
Chống bạo lực gia đình đƣợc Quốc hội thông qua năm 2007. Mặc dù Việt Nam đã

1


thể hiện cam kết cao trong việc xây dựng Luật và các chính sách đối phó với bạo
lực gia đình nhƣng vẫn tồn tại khoảng trống giữa lý thuyết và thực tế triển khai.
Xã hội văn minh ngày càng giải phóng ngƣời phụ nữ, công nhận quyền của
ngƣời phụ nữ nhƣng trong khá nhiều gia đình, bạo lực với ngƣời phụ nữ vẫn chƣa
chấm dứt. Để xây dựng một nền văn hóa mới, đạo đức mới, công bằng và dân chủ, tự
chủ và văn minh thì phải đấu tranh chống lại bạo lực gia đình. Tiếc rằng, phần lớn
những phụ nữ bị bạo lực thƣờng không dám đối diện với vấn đề này. Họ vẫn thƣờng
dấu kín, e ngại bày tỏ, không dám tìm kiếm sự trợ giúp. Họ cố gắng chịu đựng với
mong muốn có đƣợc sự bình yên trở lại trong gia đình. Chính vì vậy mà hậu quả của
bạo lực thƣờng rất nghiêm trọng. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do sự thiếu
hiểu biết của ngƣời phụ nữ cũng nhƣ thiếu sự hỗ trợ của cộng đồng trong phòng
chống bạo lực gia đình. Vì vậy, cần thiết phải thay đổi nhận thức và thái độ của xã
hội từ quan niệm cho rằng bạo lực gia đình là chuyện riêng tƣ, chuyện nội bộ trong

mỗi nhà sang nhìn nhận bạo lực gia đình là một sự vi phạm quyền con ngƣời và ảnh
hƣởng nghiêm trọng đến nhân phẩm con ngƣời.
Trong tiến trình chung của công cuộc phòng chống bạo lực gia đình, mỗi cá
nhân, cơ quan, tổ chức cần có những nỗ lực trong hoạt động của mình để góp phần
cải thiện tình trạng này. Đặc biệt, cần xây dựng một cơ sở dữ liệu nhằm giải quyết
vấn đề bạo lực gia đình ở Việt Nam. Thông tin và những dữ liệu từ các ban ngành
liên quan có thể tạo nên một cơ sở bằng chứng vững chắc cho việc xây dựng các
hoạt động nâng cao nhận thức, vận động chính sách, phát triển chƣơng trình, can
thiệp và theo dõi, đánh giá công tác phòng chống bạo lực gia đình.
Trƣớc đòi hỏi này, nghiên cứu ứng dụng rất có giá trị để giải quyết các vấn đề
đang đặt ra cho khoa học và thực tiễn. Thời gian qua, nghiên cứu Xã hội học đã có
nhiều đóng góp trong công tác Phòng, chống bạo lực gia đình. Kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra thực trạng mức độ, nguyên nhân và hậu quả của bạo lực gia đình. Tuy nhiên,
để giảm thiểu và chấm dứt hành vi bạo lực, vấn đề cốt lõi là cần phát hiện và chỉ rõ
nguyên do của những khó khăn tâm lý mà phụ nữ đang gặp phải. Vì vậy, việc nghiên
cứu đề tài: “Khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình ”
là rất cần thiết.

2


2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Phát hiện những khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia
đình và những yếu tố tác động đến khó khăn tâm lý này. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số biện pháp giúp phụ nữ khắc phục những khó khăn tâm lý đã đƣợc xác định.

3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Biểu hiện và mức độ khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia
đình.
4. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

Khảo sát bằng bảng hỏi 150 phụ nữ và phỏng vấn sâu 30 phụ nữ. Bên cạnh đó,
chúng tôi còn trƣng cầu ý kiến của 5 chuyên gia Tâm lý học, 8 cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình, 12 cán bộ quản lý xã, thôn...(Hội phụ
nữ, Hội nông dân, Trƣởng thôn...).
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
5.1. Khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình biểu
hiện trên cả ba mặt: Nhận thức, thái độ và hành vi, trong đó khó khăn về thái độ
trong đấu tranh chống bạo lực gia đình đƣợc thể hiện rõ nét nhất.
5.2. Có nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh
chống bạo lực gia đình nhƣ: Chứng kiến bạo lực gia đình khi còn nhỏ, trình độ học
vấn, mức độ hài lòng về cuộc sống, sự hỗ trợ của cộng đồng…trong đó sự hỗ trợ của
cộng đồng có ảnh hƣởng nhiều nhất đến các mặt biểu hiện của khó khăn tâm lý.
5.3. Xây dựng niềm tin- Nâng cao nhận thức – Tạo sức mạnh hành động tích
cực cho phụ nữ sẽ giúp họ hạn chế và khắc phục những khó khăn tâm lý trong đấu
tranh chống bạo lực gia đình.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
6.1. Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu
tranh chống bạo lực gia đình. Cụ thể: Làm rõ khái niệm công cụ: “Khó khăn tâm
lý”, “Bạo lực gia đình đối với phụ nữ", “Đấu tranh chống bạo lực gia đình”, “Khó
khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình”; Xác định biểu hiện
khó khăn tâm lý, tiêu chí đo và yếu tố tác động đến khó khăn tâm lý đƣợc nghiên
cứu.
6.2. Làm rõ thực trạng khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực
gia đình, các yếu tố ảnh hƣởng đến khó khăn tâm lý và mối tƣơng quan giữa chúng.

3


6.3. Đề xuất một số biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu
tranh chống bạo lực gia đình.

7. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
7.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu bạo lực của chồng đối với phụ nữ.
Khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình đƣợc
xem xét ở các mặt biểu hiện về nhận thức, thái độ và hành vi.
Luận án chỉ đề xuất một số biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý của phụ nữ
trong đấu tranh chống bạo lực gia đình mà không tiến hành thực nghiệm.
7.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu đƣợc thực hiện trên nhóm khách thể là phụ nữ bị bạo lực.
7.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu đƣợc thực hiện tại 6 xã thuộc 3 tỉnh phía Bắc:
- Xã Liêm Cần và Liêm Phong thuộc huyện Thanh Liêm- Hà Nam
- Xã Phạm Ngũ Lão và Song Mai thuộc huyện Kim Động - Hƣng Yên
- Xã Mƣờng Khến và Thanh Hối thuộc huyện Tân Lạc- Hoà Bình
8. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
8.1. Những nguyên tắc phương pháp luận
- Tiếp cận hoạt động: Thông qua hoạt động, những đặc điểm tâm lý của cá
nhân hay của nhóm sẽ đƣợc hình thành, biểu hiện và phát triển một cách rõ ràng
nhất. Vì thế, những khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia
đình đƣợc chúng tôi tiến hành nghiên cứu thông qua hoạt động thực tiễn của phụ
nữ. Cách tiếp cận này nhằm nghiên cứu các mặt biểu hiện về nhận thức, thái độ và
hành vi của khó khăn tâm lý trong đấu tranh chống bạo lực gia đình của phụ nữ.
- Tiếp cận hệ thống: Cần phải xem xét, nghiên cứu các chuẩn mực văn hóa
của dân tộc (lối sống, hệ thống giá trị truyền thống,…), coi đây là những chuẩn
mực chủ chốt trong quá trình xác định các yếu tố ảnh hƣởng đến khó khăn tâm
lý. Đồng thời, việc nghiên cứu về bạo lực gia đình đối với phụ nữ phải đứng trên
quan điểm bình đẳng giới, trong đó cần quan tâm đến quyền của phụ nữ. Cần xác
định khó khăn khiến bên có quyền (phụ nữ) không thực hiện đƣợc quyền của mình,
đồng thời xác định khó khăn khiến bên có trách nhiệm (các cơ quan, ban ngành, đoàn
thể...) không hoàn thành nghĩa vụ của mình. Cách tiếp cận này nhằm xem xét các yếu


4


tố ảnh hƣởng đến khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình
và đề xuất những biện pháp tâm lý nhằm giảm thiểu khó khăn tâm lý đó.
8.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
8.2.1. Phƣơng pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
8.2.2. Phƣơng pháp điều tra bảng hỏi
8.2.3. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
8.2.4. Phƣơng pháp quan sát
8.2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu trƣờng hợp điển hình (case study)
8.2.6. Phƣơng pháp lấy ý kiến chuyên gia
8.2.7. Phƣơng pháp thống kê toán học
9. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình là một
chủ đề khó nghiên cứu về cả nội dung cũng nhƣ phƣơng pháp thực hiện. Cho đến
nay, ở Việt Nam có rất ít công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này, đặc biệt
dƣới góc độ Tâm lý học.
9.1. Đóng góp về mặt lý luận
Luận án đã xây dựng đƣợc khái niệm khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu
tranh chống bạo lực gia đình, chỉ ra đƣợc các biểu hiện cụ thể của khó khăn tâm lý
về nhận thức, thái độ và hành vi, tiêu chí đánh giá khó khăn tâm lý và một số yếu tố
tác động đến khó khăn tâm lý đƣợc nghiên cứu. Những nét mới này góp phần làm
sáng tỏ hơn lý luận về khó khăn tâm lý nói chung và của ngƣời phụ nữ nói riêng
trong đấu tranh chống bạo lực gia đình.
9.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận án đã mô tả đƣợc bức tranh khó khăn tâm lý trên các mặt nhận thức,
thái độ và hành vi của ngƣời phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình và thực
trạng một số yếu tố tác động đến khó khăn tâm lý này. Trên cơ sở đó, một số biện

pháp tác động tâm lý: Xây dựng niềm tin- Nâng cao nhận thức- Tạo sức mạnh hành
đồng cho phụ nữ đƣợc xác định là có hiệu quả trong giảm bớt khó khăn tâm lý.
Những kết quả mới này có thể góp phần vào việc phòng, chống bạo lực gia đình đối
với phụ nữ hiện nay.

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU KHÓ KHĂN TÂM LÝ
CỦA PHỤ NỮ TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA PHỤ
NỮ TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Theo nhiều nghiên cứu, loại hình bạo lực gia đình phổ biến nhất là bạo lực
đối với phụ nữ mà thủ phạm là chồng hay bạn tình gây ra. Dạng bạo lực này có thể
xảy ra ở những cặp đã kết hôn hoặc chƣa kết hôn, những cặp đồng tính, những cặp
đã ly thân hoặc ly dị. Vì thế, trong nhiều tài liệu nghiên cứu, bạo lực gia đình đối
với phụ nữ còn đƣợc gọi là bạo lực trong mối quan hệ thân thiết (IPV).
1.1.1. Những nghiên cứu khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống
bạo lực gia đình ở nƣớc ngoài
1.1.1.1. Những nghiên cứu về bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là hiện tƣợng xảy ra ở mọi quốc gia trên
thế giới, là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng và nhân quyền cơ bản. Nó có thể ảnh
hƣởng đến sức khoẻ thể chất và tinh thần của ngƣời phụ nữ. Từ những thập niên
80 của thế kỷ XX, các nghiên cứu về bạo lực gia đình đối với phụ nữ tăng nhanh
ở cả những nƣớc có thu nhập cao và thu nhập thấp cho thấy tính nghiêm trọng và
quy mô của vấn đề này [110].
Số liệu báo cáo từ nhiều quốc gia cho thấy bạo lực gia đình đối với phụ nữ
chiếm một tỉ lệ tƣơng đối cao. Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO), ở

hầu hết các nƣớc phƣơng Tây, khoảng ¼ phụ nữ có nguy cơ bị bạo lực gia đình
dƣới nhiều hình thức khác nhau: Bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần và bạo lực tình
dục[115].
Dạng bạo lực đƣợc nghiên cứu phổ biến nhất là bạo lực thể chất. Kết quả
nghiên cứu thực hiện ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới trong khoảng 10 năm từ
1994 đến 2005 cho thấy có khoảng 10->70% phụ nữ đang phải gánh chịu hình thức
bạo lực này. Cụ thể trong báo cáo của Hesei (1994) về kết quả nghiên cứu từ 35
nƣớc đã chứng minh rằng có khoảng từ 20-> 50% phụ nữ các nƣớc này bị chồng
đánh đập [86]. Tiếp đó là nghiên cứu điều tra dựa trên số dân ở 48 nƣớc trên thế

6


giới về các yếu tố nguy cơ về bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã chỉ ra 10-69% phụ
nữ cho biết họ đã trải qua một số bạo lực thân thể bởi một ngƣời bạn tình của họ
trong đời[53]. Gần đây nhất, nghiên cứu đa quốc gia của Tổ chức Y tế thế giới
(2005) về bạo lực đối với phụ nữ đƣợc tiến hành ở 11 quốc gia cho biết 13-61% phụ
nữ bị bạo lực thể chất bởi một ngƣời bạn tình.[115]
Dạng bạo lực thể chất có liên quan chặt chẽ với bạo lực tình dục. Theo một số nhà
nghiên cứu, bạo lực tình dục là hiện tƣợng ngƣời vợ bị chồng ép buộc trong sinh
hoạt tình dục, đặc biệt khi ngƣời chồng trở về nhà trong cơn say rƣợu. Ở Mỹ,
khoảng 10-14% phụ nữ bị buộc phải sinh hoạt tình dục với chồng khi họ không
mong muốn và trong số những ngƣời bị chồng đánh có ít nhất 40% ngƣời bị ép
buộc trong quan hệ tình dục. Tỉ lệ phụ nữ bị bạo lực cả về thể chất và tình dục
chiếm từ 30-50%. Nghiên cứu định tính về “Quá trình ra quyết định về nạo phá thai
của phụ nữ có chồng” ở hai làng thuộc bang Uttar Pradesh (Ấn Độ) cho thấy 68%
những ngƣời đƣợc phỏng vấn trả lời họ bị chồng ép buộc phải sinh hoạt tình dục lúc
họ không muốn, nếu từ chối họ có thể bị đánh.[32]
Ở hầu hết các nƣớc, nghiên cứu về phạm vi và sự ảnh hƣởng của bạo lực tinh
thần đối với phụ nữ còn rất ít. Mặc dù vậy, theo kết quả nghiên cứu của Silke Meyer

(2010), phụ nữ bị bạo lực tinh thần chiếm tỉ lệ khá cao từ 40-75% [97, tr.244]. Các
biểu hiện của loại bạo lực này đƣợc Catherine So-kum Tang mô tả trong nghiên cứu
về “Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ Trung quốc” bao gồm các hành vi đe doạ,
kiểm soát, ghen tuông, cô lập…[67]. So sánh tỉ lệ phụ nữ bị các dạng bạo lực khác
nhau thông qua báo cáo từ các nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy, bạo lực tinh
thần xảy ra phổ biến nhất.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới về “Bình đẳng giới và phát triển”
(2012), mức độ bạo lực gia đình giữa các quốc gia có những khác biệt rất lớn và
không có quan hệ rõ ràng với thu nhập, trong khi phạm vi bạo lực có xu hƣớng gia
tăng cùng suy thoái kinh tế -xã hội, bạo lực không phân biệt ranh giới. Tại một số
quốc gia có thu nhập trung bình, chẳng hạn nhƣ Braxin và Secbia có tới 25% phụ
nữ bị bạn đời hoặc ngƣời thân bạo lực thể chất. Tại Peru, gần 50% phụ nữ là nạn
nhân của bạo lực thể chất trong suốt cuộc đời. Theo báo cáo ở Etiopia, 54% phụ nữ
bị ngƣời thân lạm dụng thể chất hoặc tình dục trong vòng 12 tháng qua.[36, tr21]

7


Catherine So-kum Tang [67, tr299] trong nghiên cứu về “Bạo lực tinh thần
đối với những ngƣời vợ ở Trung Quốc” đã khẳng định: Các nghiên cứu nhân chủng
học và xuyên văn hoá cũng chỉ ra rằng mặc dù hành động bạo lực vợ là hiện tƣợng
phổ biến trên thế giới nhƣng cần cân nhắc tính đa dạng trong việc xác định hành vi
bạo lực, sự thừa nhận tần suất và mức độ nghiêm trọng của nó với các xã hội khác
nhau. Các nhà nghiên cứu cũng đang tranh cãi về tính đa dạng xã hội trong hành vi
bạo lực vợ phụ thuộc vào mức độ bạo lực nói chung, sự can thiệp của cộng đồng,
mức độ chấp nhận nam tính và quan trọng nhất là sự thừa nhận mang tính văn hoá xã hội đối với những hành vi đó. Ngoài ra, việc xác định mẫu trong các nghiên cứu
cũng là vấn đề cân nhắc về tính đại diện cho việc khẳng định tỉ lệ phụ nữ bị bạo lực ở
mỗi quốc gia.
Tóm lại, nghiên cứu về bạo lực gia đình đối với phụ nữ đƣợc thực hiện ở hầu
khắp các quốc gia trên thế giới cho thấy tính phức tạp, đa dạng của các hình thức

bạo lực. Sự ảnh hƣởng nghiêm trọng của nó không chỉ đối với cá nhân, cộng đồng
mà còn đối với toàn xã hội đã chỉ ra sự cần thiết phải đấu tranh nhằm ngăn chặn và
xóa bỏ tệ nạn xã hội này.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về đấu tranh chống bạo lực gia đình
Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ ở Mỹ và các nƣớc châu Á, châu Phi, châu Mỹ
la tinh hết sức phổ biến và đa dạng, trong đó có bạo lực gia đình. Trong rất nhiều
nghiên cứu, các tác giả đã cung cấp một cái nhìn toàn cảnh và chiến lƣợc liên quan đặc
biệt đến bạo lực giới. Cụ thể: Mở rộng chƣơng trình tuyên truyền vận động, giáo dục,
cải cách pháp luật và hành động chống bạo lực đối với phụ nữ
[58],[60],[66],[107],[108],[111].
DeeL.R Graham cùng với Edna I. Rawling và Roberta K. Rigsby (1994) cho
thấy bạo lực đã đƣa đến sự sợ hãi của nhiều phụ nữ và hiện tại họ nhƣ những kẻ nô
lệ, bị giam cầm và liên tục bị đánh sẽ làm mất khả năng xây dựng năng lực cho bản
thân. Họ trở nên tôn sùng, yêu và nghe lời ngƣời gây bạo lực (hội chứng
Stockholm). Các tác giả đã đƣa lăng kính nữ quyền vào việc chữa trị cho phụ nữ
trong hội chứng Stockholm này. Bằng cách đi sâu vào các vấn đề lý thuyết nữ
quyền, các tác giả đã phê phán quan điểm của S.Freud đã không gắn tâm lý của phụ

8


nữ với hoàn cảnh văn hoá cụ thể, thừa nhận bạo lực đã ảnh hƣởng đến cuộc sống
của phụ nữ, cần đƣợc ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi nạn bạo lực nguy hiểm này[73].
Bên cạnh đó, Deirdre Lashgari (1995) đã trình bày các tƣ tƣởng về sự im
lặng, sự tức giận và nhu cầu nói lên tiếng nói chống lại bạo lực đối với phụ nữ, đặc
biệt là bạo lực trong gia đình[74].
Nhƣ vậy, các nghiên cứu về đấu tranh chống bạo lực gia đình đã chỉ ra đƣợc
những vấn đề lý luận về bản chất của quá trình đấu tranh chống bạo lực gia đình là
ngăn chặn và xóa bỏ bạo lực nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ.
1.1.1.3. Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh

chống bạo lực gia đình
Bên cạnh việc đánh giá mức độ, tần suất và các dạng thức bạo lực gia đình,
các nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu suy nghĩ, thái độ, cách ứng phó của phụ nữ trƣớc
hành vi bạo lực, đồng thời cũng chỉ ra những nguyên nhân cơ bản khiến bạo lực vẫn
tiếp diễn. Kết quả chung cho thấy phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong đấu tranh chống
bạo lực gia đình.
* Biểu hiện khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình
“Cách nhìn của phụ nữ về cách nhìn của nam giới” là tựa đề một bài viết
trong cuốn “Sự thống trị của nam giới” (2010) của tác giả Pierre Bourdieu. Ở đây,
tác giả khẳng định rằng phụ nữ có một lòng tin đơn thuần về việc cần tuân thủ một
cách vô điều kiện chồng mình. Họ thấy mình có sự lệ thuộc vào suy nghĩ của ngƣời
chồng và nhƣ vậy mang lại cho họ một cảm giác an toàn hơn. Vì thế, họ có khuynh
hƣớng ƣớc lƣợng thành công của mình dựa theo thành công của chồng. Họ tin vào
tình yêu số phận- đó là tình yêu đối với kẻ thống trị và sự thống trị của kẻ đó, vì thế
mà từ bỏ ham muốn thống trị.[42, tr 120-139]
Nhận thức về vai trò ngƣời phụ nữ trong gia đình nhƣ vậy đã khiến những
ngƣời bị bạo lực có một niềm tin sâu sắc về sự phụ thuộc của mình vào chồng.
Trong tài liệu hƣớng dẫn tƣ vấn qua điện thoại cho phụ nữ bị bạo lực gia đình
(1999), tác giả Lucinda Willshire cho rằng ngƣời phụ nữ bị trói buộc vào cuộc sống
bạo lực bởi họ không tin rằng mình có thể tự sống đƣợc; tin rằng chồng mình sẽ
thay đổi; cho rằng con cái sẽ tốt hơn khi ở với cả bố và mẹ. Những suy nghĩ đó đã
mang lại cho ngƣời phụ nữ nhiều cảm xúc tiêu cực nhƣ [31]:

9


- Sợ sự nghèo đói khi phải tự chi trả nhiều khoản và không có tiền dành dụm.
- Sợ chồng đe doạ giết mình và nói sẽ giết con cái và bố mẹ đẻ của mình.
- Địa phƣơng, gia đình có lẽ không chấp nhận phụ nữ ly thân hoặc ly hôn
nên sợ làm ảnh hƣởng đến những ngƣời thân nếu rời bỏ ngƣời chồng.

- Yêu chồng và cảm thấy có tội và lo lắng cho anh ta.
- Sợ sẽ mất con
- Xấu hổ nếu ly hôn
- Xấu hổ về sự ngƣợc đãi của chồng và muốn giấu kín.
- Cảm thấy mình đáng phải chịu sự ngƣợc đãi của chồng.
Cảm xúc của phụ nữ là khía cạnh đƣợc các nhà nghiên cứu rất chú ý xem
xét. Thông qua phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu là phỏng vấn sâu và phân tích câu
chuyện cuộc đời, cảm xúc của phụ nữ đƣợc lột tả một cách chân thực và rõ nét.
Jan E.Saets và Murray A.Straus cho thấy những tổn thƣơng về mặt tinh thần
thƣờng thể hiện ở sự buồn phiền, căng thẳng và các triệu chứng thần kinh nhƣ: Sự
chán nản; cảm giác tồi tệ, mất hết giá trị; không còn cảm thấy điều gì thú vị nữa,
hoàn toàn mất hy vọng về mọi thứ, nghĩ đến cái chết và tìm đến cái chết, lo lắng,
thấy không có khả năng vƣợt qua đƣợc những khó khăn ngày càng lớn, thấy bản
thân không thể đƣơng đầu với những gì mình phải làm.[82]
Gillian Mezey cùng các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu trên 200 phụ nữ
đang đƣợc chăm sóc trƣớc và sau sinh tại dịch vụ sản phụ ở miền Nam Luân Đôn bị
bạo lực. Kết quả cho thấy, 47 phụ nữ (chiếm 23,5%) bị bạo lực gia đình (cả bạo lực
thể chất và tình dục); 13 phụ nữ (10,7%) những ngƣời đã từng bị chấn thƣơng và
hiện tại bị rối loạn căng thẳng. Triệu chứng sau chấn thƣơng đƣợc gắn kết với quá
trình ngƣợc đãi về thể chất, tình dục và lặp lại sự ngƣợc đãi. Những yếu tố xã hội
quan trọng gắn kết với chấn thƣơng là tình trạng sống đơn độc, tách biệt hoặc sống
trong mối quan hệ không nhƣ vợ chồng.[79]
Nhƣ vậy, những dấu hiệu cảm xúc tiêu cực ở phụ nữ khá phổ biến. Họ sống
trong nỗi lo lắng và thấy không có khả năng vƣợt qua những khó khăn ngày càng
lớn, thấy bản thân không thể đƣơng đầu với những gì mình phải làm, chán nản, có
cảm giác tồi tệ về bản thân, thấy mình mất hết giá trị, mất hy vọng về cuộc sống của
bản thân, nghĩ đến cái chết và thậm chí đã tìm đến cái chết.

10



Vì thế, phụ nữ thƣờng khó khăn trong việc lựa chọn quyết định cho mình.
Belknap, Ruth Ann [62, tr387-404] thực hiện phỏng vấn sâu 18 phụ nữ nông thôn,
yêu cầu mỗi ngƣời nói rõ về những khó khăn trong cuộc sống cũng nhƣ cách họ đã
ứng phó. Có 3 loại quyết định cơ bản đƣợc phụ nữ đƣa ra: a) Rời bỏ mối quan hệ
hiện có; b) Kháng cự lại; c) Tiếp tục sống trong sự đe doạ đó. Việc đƣa ra quyết
định này có những khó khăn do mâu thuẫn với vấn đề đạo đức truyền thống. Vì thế,
hầu hết phụ nữ có xu hƣớng chấp nhận bạo lực.
Đặc biệt, nghiên cứu về “Bạo lực gia đình trong cộng đồng di cƣ Châu Á”
của nhóm tác giả Lee, Yeon- Shim, Hadeed, Linda(2009) đã chỉ ra rằng: Bạo lực gia
đình là một dịch bệnh nghiêm trọng giữa các cộng đồng ngƣời nhập cƣ châu Á. Tuy
nhiên, còn ít thông tin về phạm vi, tính chất, và các yếu tố văn hóa và xã hội liên
quan đến bạo lực gia đình. Tác giả xem xét kỹ lƣỡng một số lĩnh vực: (a) Bối cảnh
bạo lực gia đình; (b) Tỉ lệ bạo lực gia đình; (c) Nguy cơ mắc bệnh lây truyền qua
đƣờng tình dục và HIV/AIDS; (d) Những hậu quả sức khỏe tâm thần và thể chất; (e)
Hỗ trợ xã hội và giúp đỡ hành vi tìm kiếm và (f) Rào cản đối với việc sử dụng dịch
vụ. Nghiên cứu đã làm rõ khá nhiều khía cạnh liên quan đến khó khăn tâm lý của
phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình xét về cả khía cạnh cá nhân và xã
hội. [89,tr143-170]
Menon, Niveditha [94,tr702] đã nỗ lực mang lại sự rõ ràng đối với nhiều loại
bạo lực gia đình thông qua nghiên cứu “Mối quan hệ giữa chế độ phụ hệ, bạo lực
gia đình và sự nỗ lực của phụ nữ”. Mặc dù chế độ phụ hệ đã đƣợc phần lớn nghiên
cứu cho là nguyên nhân chính của bạo lực gia đình nhƣng các quá trình đánh dấu
mối quan hệ này hiếm khi đƣợc đánh giá. Ngoài ra, ý thức hệ và những hạn chế
trong hệ thống gia đình gia trƣởng Ấn Độ là lý do chính khiến cho phụ nữ ở trong
mối quan hệ bạo lực. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã đặt câu hỏi liệu chế độ gia
trƣởng có phải là yếu tố duy nhất ảnh hƣởng đến bạo lực gia đình và phụ nữ luôn
nạn nhân của bạo lực. Dựa trên những phát hiện này, tác giả đã nảy sinh nhu cầu
cần đánh giá lại các mối quan hệ giữa tính gia trƣởng, bạo lực gia đình và sự nỗ lực
của phụ nữ. Tác giả chú ý tới động lực giữa các cá nhân và trong nội bộ gia đình cụ

thể là hành vi kiểm soát và chiến lƣợc ứng phó trong mối quan hệ hôn nhân. Nghiên
cứu tập trung trả lời bốn câu hỏi nghiên cứu chính: (1) Các loại hành vi bạo lực phổ

11


biến là gì? (2) Việc sử dụng các chiến lƣợc kiểm soát đối với phụ nữ trong những
bối cảnh khác nhau xảy ra nhƣ thế nào? (3) Các chiến lƣợc đối phó khác nhau đƣợc
phụ nữ sử dụng trong những bối cảnh khác nhau là gì? và (4) Chiến lƣợc ứng phó
chịu ảnh hƣởng của sự tƣơng tác giữa các yếu tố văn hóa xã hội và bối cảnh kinh tế
nhƣ thế nào? Để trả lời những câu hỏi này, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp nghiên
cứu định tính và định lƣợng để xác định các loại khác nhau của bối cảnh kiểm soát
bạo lực trong gia đình và các tác động khác nhau của các loại bạo lực gia đình. Bên
cạnh đó còn có sự kết hợp của dữ liệu sơ cấp và thứ cấp. Các dữ liệu thứ cấp lấy từ
“Điều tra y tế nhân khẩu học” của Ấn Độ, đƣợc thực hiện trong năm 1999. Số liệu
điều tra quy mô lớn này đƣợc sử dụng kết hợp với các dữ liệu chính để tạo ra một
bộ dữ liệu duy nhất về cấu trúc của bạo lực gia đình ở Ấn Độ.
Postmus, Judy [98,tr 852-868] và các cộng sự trong nghiên cứu về “Trải
nghiệm bạo lực gia đình của phụ nữ và sự tìm kiếm giúp đỡ” đã cho thấy: Hàng
ngày, phụ nữ phải chịu đựng các hình thức bạo lực thể chất và tình dục. Những phụ
nữ này đã nhận đƣợc sự hỗ trợ từ các dịch vụ. Tuy nhiên, đánh giá về cách mà họ
đã sử dụng dịch vụ cũng nhƣ nhận thức của họ về những dịch vụ này chỉ ra những
gì nhà cung cấp thƣờng ƣu tiên hỗ trợ cho phụ nữ là hỗ trợ về tình cảm, tâm lý,
pháp lý. Tuy nhiên, đây không phải là những gì ngƣời phụ nữ cho là hữu ích nhất.
Thay vào đó, sự hỗ trợ hữu hình, chẳng hạn nhƣ thực phẩm, nhà ở và hỗ trợ tài
chính mới đƣợc xem là hữu ích nhất, cùng với tƣ vấn tôn giáo hay tâm linh. Nhƣ
vậy, sự hỗ trợ chƣa giải quyết đƣợc những nhu cầu căn bản của phụ nữ, vì thế họ
chƣa sẵn sàng đến với các dịch vụ xã hội này.
Những phân tích trên cho thấy, xu hƣớng giải quyết bạo lực gia đình của phụ
nữ đƣợc nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Cụ thể là tìm hiểu về chiến

lƣợc ứng phó của ngƣời phụ nữ trong những hoàn cảnh khác nhau của bạo lực gia
đình, mức độ sử dụng các dịch vụ hỗ trợ...nhƣng kết quả chung cho thấy phụ nữ
thƣờng có xu hƣớng chấp nhận bạo lực.
* Nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống
bạo lực gia đình

12


Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất dẫn đến
hành vi bạo lực gia đình của ngƣời chồng cũng nhƣ sự chấp nhận, cam chịu của phụ
nữ là tính gia trƣởng.
Tác giả Kamla Bhasin, trong cuốn sách“Những nghiên cứu về đặc điểm nam
tính” đã cho rằng: “Tính gia trƣởng là một hệ tƣ tƣởng xã hội mà trong đó coi đàn
ông là đẳng cấp trên so với phụ nữ, một biểu hiện cụ thể là đàn ông điều khiển
nhiều hơn ở mọi lĩnh vực và đƣợc đƣa ra quyết định” [26, tr14]. Theo lẽ đó, đàn
ông là ngƣời lãnh đạo gia đình, ngƣời thừa kế của gia đình và ngƣời đứng tên tài
sản. Uy quyền của ngƣời đàn ông trong gia đình cho phép họ có những hành động
bạo lực đối với ngƣời vợ của mình.[26,tr15]
Nhiều nghiên cứu về giới đã chỉ ra rằng: theo cấu trúc xã hội của giới, nam
giới đƣợc dạy để có nam tính: Mạnh mẽ, uy quyền, xông xáo, độc lập, bình tĩnh,
thống trị, năng động, ganh đua, tự tin…Phụ nữ đƣợc dạy để có nữ tính: Mềm
yếu, thụ động, ân cần, lệ thuộc, mong manh, dễ xúc động, phục tùng, nhu mì, sẵn
sàng hợp tác, thiếu tự tin…Theo Robin Haarr, quan hệ giới và cấu trúc nam tínhnữ tính dựa trên cơ sở nguyên lý tổ chức: Ƣu thế của nam giới đối với phụ nữ; sự
thống trị của nam giới về mặt xã hội, chính trị và kinh tế đối với phụ nữ; sự phục
tùng của phụ nữ đối với nam giới trong gia đình và xã hội. Chính nguyên tắc ƣu
thế và sự thống trị của nam giới đối với phụ nữ dẫn đến vấn đề bạo lực gia đình
đối với phụ nữ.[14]
Trong bài viết “Ngƣợc đãi vợ: Những yếu tố dẫn đến ngƣợc đãi vợ và sự can
thiệp”, Robin Haarr cũng đã khẳng định vai trò của phụ nữ do xã hội xây dựng

đƣợc sắp đặt theo trật tự, trong đó nam giới nắm quyền và kiểm soát phụ nữ. Sự
thống trị của nam giới và sự coi thƣờng phụ nữ thể hiện cả trong hệ tƣ tƣởng và
trong nền tảng hôn nhân. Bạo lực với phụ nữ nhƣ một phƣơng tiện phục vụ sự
thống trị của nam giới. Các hành vi bạo lực với phụ nữ không thể chỉ là do nguyên
nhân duy nhất là các yếu tố tâm lý của cá nhân hoặc các điều kiện kinh tế xã hội
nhƣ thất nghiệp. Sự lý giải về bạo lực không chỉ tập trung chủ yếu vào các hành vi
và lịch sử cá nhân, chẳng hạn nhƣ việc lạm dụng rƣợu hoặc là tiền sử về bạo lực
mà bỏ qua các tác động lớn hơn của bất bình đẳng mang tính hệ thống và sự hạ
thấp vai trò của phụ nữ. Vì vậy, các nỗ lực nhằm phát hiện ra các yếu tố có liên

13


quan đến bạo lực với phụ nữ nên đƣợc đặt trong bối cảnh xã hội của các mối quan
hệ quyền lực rộng hơn.[13]
Rõ ràng, quan niệm về nam tính, đặc biệt là tính thống trị của nam giới ảnh
hƣởng đến sự phát triển của phụ nữ một cách sâu sắc. Bởi nó buộc ngƣời phụ nữ
phải phụ thuộc, họ không phải là thành phần ngang bằng trong sự phát triển. Họ
không đƣợc đƣa ra các quyền và điều khiển hoạt động. “Những người phụ nữ mệt
mỏi vì phải hành động yếu đuối khi cô ấy biết mình khoẻ mạnh”.(Nancy
R.Smith).[26, tr 67]
Pierre Bourdieu đã viết trong lời giới thiệu cuốn sách “Sự thống trị của nam
giới” nhƣ sau: “Sự thống trị của nam giới neo chắc vào vô thức của chúng ta đến
mức ta không nhận thấy nó nữa và phù hợp với những trông đợi của chúng ta đến
mức ta khó mà xét lại nó”[42]. Bởi lẽ, về phƣơng diện lịch sử, sự thống trị của nam
giới đã đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, bền bỉ kể từ khi có đàn ông và đàn bà thông
qua các thể chế gia đình, nhà Thờ, nhà trƣờng, Nhà nƣớc. Những thể chế này đƣợc
tổ chức và điều hoà một cách khách quan và có điểm chung giống nhau là tác động
đến các cấu trúc vô thức. Có lẽ, gia đình có vai trò chính trong việc tái sản xuất nền
thống trị và cách nhìn của nam giới, bởi trong gia đình con ngƣời buộc phải sớm có

trải nghiệm về sự phân chia lao động theo giới. Nhà Thờ thông qua biểu tƣợng của
Kinh thánh, các lễ điển đã có cái nhìn bi quan về phụ nữ và về nữ tính. Nhà trƣờng
là nơi truyền đạt những tƣ tƣởng thống trị của nam giới đã không ngừng chuyên chở
các kiến thức tƣ duy mẫu mực cổ xƣa nhằm hạn chế quyền tự trị của phụ nữ. Nhà
nƣớc có trách nhiệm quản lý và điều chỉnh cuộc sống hàng ngày của con ngƣời có
vai trò phê chuẩn và đề ra những quy định trong xã hội. Trong các yếu tố đó, gia
đình đƣợc coi là nơi mà sự thống trị của nam giới biểu lộ theo cách hiển nhiên nhất
và nhìn thấy rõ nhất. Nhƣng căn nguyên của sự vĩnh cửu hoá quan hệ này lại ở cấp
nhà Thờ, nhà trƣờng, Nhà nƣớc.[42,tr147-154]
Ỏ hầu khắp các quốc gia, tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành nên quan điểm giới bằng cách xây dựng nhận thức của con ngƣời về gia đình,
hôn nhân, vai trò, địa vị quyền lực của vợ-chồng, nam -nữ…Tất cả các tôn giáo đều
có luật liên quan đến hôn nhân, ly dị…và đặc biệt ở những quốc gia mà luật dân sự
không đƣợc coi trọng thì các điều luật trong tôn giáo đã thể chế hoá sự bất bình
đẳng giữa nam và nữ. Kamla Bhasin- một nhà hoạt động nữ quyền nổi tiếng ngƣời

14


Ấn Độ cho rằng: “Hầu hết các tôn giáo đều cho ngƣời đàn ông là ngƣời làm chủ gia
đình và trao trọn cho họ những quyền lực cao hơn vì họ là những đứa con trai hay
những ông chồng. Một văn bản của một tôn giáo còn quy định rõ ràng rằng ngƣời
vợ phải dƣới sự chỉ huy của chồng và anh ta có quyền trừng phạt vợ nếu mình
muốn thoát ra khỏi khuôn phép đó. Ngƣời vợ không có quyền làm điều tƣơng tự
nhƣ vậy với chồng. Quan niệm về quyền lực và sức mạnh của đàn ông đƣợc hình
thành và duy trì bởi tôn giáo. Điều này còn trở nên khó cƣỡng lại hơn khi chính đàn
ông toàn quyền trong các tổ chức tôn giáo, các tƣ tƣởng xã hội. Khi điều gì đó đã là
quy định của tôn giáo thì rất khó chống lại. Những lý lẽ, lý trí và luật dân sự thƣờng
không xoá bỏ đƣợc niềm tin- một điều nằm ngoài lý lẽ và lý trí”.[26, tr26]
Theo Robin Haarr, trong văn hóa Á đông, quan hệ gia đình và giới đƣợc dựa

trên nguyên tắc Khổng giáo. Gia đình châu Á truyền thống có nhiều thành viên của
3 đến 4 thế hệ cùng chung sống, là những đơn vị lớn, do nam giới làm chủ. Những
giá trị gia đình đƣợc đề cao nhƣ[14]:
- Bổn phận và quyết định tập thể đƣợc khuyến khích.
- Quan hệ hài hoà giữa ngƣời với ngƣời và sự lệ thuộc lẫn nhau đƣợc đề cao.
Quyền lợi gia đình đƣợc đặt lên trên quyền lợi cá nhân.
- Quan niệm ƣu quyền và quyền hạn của nam giới.
- Quan niệm khuất phục của nữ giới trƣớc nam giới.
- Phụ nữ đƣợc dạy dỗ để phục tùng gia trƣởng.
- Chồng đƣợc trao quyền tối thƣợng đối với vợ con.
- Bạo lực đối với vợ đƣợc coi là đặc quyền của ngƣời chồng.
- Ly hôn không phải là việc phổ biến.
- Mọi bất hoà trong gia đình đƣợc giải quyết trong phạm vi gia đình với sự hỗ
trợ của các thành viên lớn tuổi đóng vai trò hoà giải.
- Sự chịu đựng đƣợc trân trọng hơn việc làm mất uy tín bản thân và gia đình.
- Phụ nữ đƣợc tôn trọng vì chịu đựng đƣợc gian khổ và bị cấm không đƣợc
tiết lộ chuyện rắc rối trong gia đình, trắc trở trong hôn nhân hoặc tìm kiếm sự giúp
đỡ bên ngoài gia đình.
Theo tác giả, xã hội châu Á thƣờng chấp nhận thụ động bạo lực gia đình đối
với phụ nữ bởi:

15


- Quan niệm bạo lực gia đình là chuyện tự nhiên, là hành động đƣợc chấp nhận,
là việc bình thƣờng trong cuộc sống vợ chồng. Xem bạo lực gia đình là xung đột vợ
chồng hơn là hành hung, cƣỡng bức, khuyến khích phụ nữ yên phận với gia đình.
- Sự thờ ơ trƣớc nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ của cán bộ chính quyền,
đoàn thể, ban ngành chức năng.
- Phụ nữ bị bạo lực gia đình thƣờng cố duy trì nhận thức tích cực về hôn nhân

và cuộc sống gia đình bất chấp nạn bạo lực gia đình đang diễn ra.
Trƣớc những khó khăn trên của ngƣời phụ nữ, nhiều nghiên cứu đã khẳng
định tầm quan trọng của biện pháp can thiệp nhằm hỗ trợ nạn nhân chấm dứt bạo
lực gia đình, ngăn chặn việc dẫn đến tử vong và phục hồi sau những ảnh hƣởng thể
chất và tinh thần. Tuy nhiên, có nhiều lý do cho thấy mức độ nghiêm trọng của bạo
lực gia đình có liên quan đến việc tìm kiếm sự giúp đỡ của nạn nhân.
Bostock,Jan [64,tr 95-110] mặc dù chỉ tiến hành nghiên cứu 12 phụ nữ bị bạo
lực gia đình nhƣng đã quả quyết rằng: Phụ nữ có thể kéo dài tình trạng bị bạo lực
bởi họ bị hạn chế sự lựa chọn do thiếu sự bảo vệ và hỗ trợ. Đồng thời, cộng đồng
chƣa thực sự thừa nhận bạo lực gia đình là không chấp nhận đƣợc.
Walker LE [117] cho thấy tính chất, mức độ thời gian bị bạo lực có tác động
tiêu cực đến hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ. Đồng thời, Gondolf EW& Fisher ER[81]
chỉ ra sự tìm kiếm giúp đỡ của nạn nhân nhƣ một bản năng sinh tồn.
Trong báo cáo nghiên cứu về “Hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình”, tác giả
Silke Meyer đã xác định các hình thức giúp đỡ chính thức và không chính thức chịu
ảnh hƣởng của mức độ bạo lực nhƣ thế nào. Theo tác giả, nguồn hỗ trợ không chính
thức đóng vai trò quan trọng trong tiến trình tìm kiếm sự giúp đỡ của nạn nhân. Có
thể coi đây là nguồn hỗ trợ đƣợc nạn nhân lựa chọn nhiều nhất bao gồm: Gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm…Đây là bƣớc đầu tiên trong quá trình tìm kiếm sự
giúp đỡ, có thể giúp nạn nhân định hình khi đƣa ra các quyết định cho sự tìm kiếm
giúp đỡ tiếp theo. Những phản ứng tích cực của gia đình, bạn bè sẽ khuyến khích
nạn nhân đƣa ra những quyết định tìm sự giúp đỡ chính thức hơn nhƣ các trung tâm
tƣ vấn, tổ chức chính quyền, đoàn thể, công an, y tế…Việc lựa chọn sự hỗ trợ chính
thức phụ thuộc vào nhận thức của nạn nhân về mức độ nghiêm trọng của hành vi
bạo lực, mức độ an toàn của con cái. Tuy nhiên, phụ nữ sẽ im lặng vì sợ con cái mất

16


bố hoặc có liên quan đến bạo lực gia đình. Vì thế, vai trò của con cái là yếu tố tạo ra

sự phức tạp trong việc đƣa ra quyết định của nạn nhân. Tác giả đƣa ra một số
khuyến nghị liên quan đến việc đáp ứng nhu cầu của nạn nhân về vấn đề con cái và
sự ngăn chặn mức độ bạo lực, giảm tác hại do bạo lực gây ra. [103]
Phân tích kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài về
khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình cho thấy, các
nhà nghiên cứu đã chỉ ra đƣợc khá nhiều các biểu hiện và nguyên nhân dẫn đến khó
khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, mức độ
khó khăn tâm lý này chƣa đƣợc nghiên cứu đầy đủ và thiếu tính hệ thống.
1.1.2. Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý của phụ nữ trong đấu tranh
chống bạo lực gia đình ở Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu về bạo lực gia đình
Ở Việt Nam, vấn đề bạo lực gia đình bắt đầu đƣợc quan tâm từ những năm
cuối thập niên 90 của thế kỷ XX. Một số nghiên cứu đƣợc thực hiện trong giai đoạn
1996- 2001 cho thấy mức độ phổ biến của các dạng bạo lực gia đình, nguyên nhân
và hậu quả…Điển hình là một số nghiên cứu của các tác giả: Lê Thị Quý
(1996,1999); Lê Thị Phƣơng Mai (1998,1999); Vũ Mạnh Lợi (1996,1999); Nguyễn
Hoài Đức (2001) và nhiều tác giả khác. Tiếp sau đó, vấn đề bạo lực gia đình đƣợc
nghiên cứu rộng rãi hơn đã khẳng định và bổ sung thêm cho các kết quả nghiên cứu
trƣớc. Tuy nhiên, theo nhận định của Ngân hàng thế giới (2011): “Cho đến nay, các
thông tin về bạo lực gia đình vẫn còn hạn chế, chỉ có một số nghiên cứu định lƣợng
trên quy mô nhỏ và nghiên cứu định tính, mặc dù vậy cũng đủ chỉ ra rằng vấn đề
bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam có tồn tại”.[35,tr41]
*Mức độ phổ biến của bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Số liệu nghiên cứu về bạo lực gia đình tại Việt Nam cho thấy có nhiều điểm
tƣơng đồng với thế giới. Một số nghiên cứu quốc gia trong hơn 10 năm qua đã cho
thấy mức độ phổ biến và tính nghiêm trọng của hiện tƣợng này.
Nghiên cứu về thực trạng bình đẳng giới của tác giả Nguyễn Hữu Minh và
Trần Thị Vân Anh - Viện khoa học xã hội Việt Nam thực hiện năm 2005-2006 ở 13
tỉnh thành với 52 xã phƣờng, số mẫu là 4176 cá nhân đã thu thập những thông tin


17


×