Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Lời Văn Nghệ Thuật Trong Vợ Nhặt - Kim Lân Và Vợ Chồng A Phủ - Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.47 KB, 15 trang )

SangKienKinhNghiem.org
Tổng Hợp Hơn 1000 Sáng Kiến Kinh Nghiệm Chuẩn

LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG VỢ NHẶT - KIM LÂN VÀ VỢ
CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

I.

Đọc – Hiểu văn bản văn học là khâu rất quan trọng trong quá trình Dạy Học Văn ở trường Trung học phổ thông. Đặc biệt, về phía giáo viên Ngữ văn tôi
luôn trăn trở làm sao giúp học sinh của mình tiếp cận văn bản một cách hiệu
quả nhất. Qua thực tế chấm bài kiểm tra, bài thi môn của học sinh, tôi nhận
thấy: bài làm của các em về văn bản tự sự (trong phần nghị luận văn học)
thường chỉ kể lan man, dài dòng, không đi vào trọng tâm nên không đạt điểm
cao. Bởi vì các em thường không nắm được cốt truyện, chủ đề tư tưởng nghệ
thuật, tình huống truyện, hình tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật… của các
văn bản tự sự học trong chương trình. Vì thế tôi chọn đề tài :
“LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG VỢ NHẶT - KIM LÂN VÀ VỢ
CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI”.
Khi thực hiện đề tài này, tôi hiểu đã có bao công trình nghiên cứu, bao bài
viết hay về văn bản tự sự. Do đó thật khó để cá nhân tôi có thể tìm được những
ý tưởng sâu sắc, độc đáo. Nhận thức rõ thực tế đó nên trong phạm vi đề tài, tôi
chỉ đi sâu tìm hiểu các văn bản tự sự với mục đích:
- Đánh giá sự đóng góp riêng về lời văn nghệ thuật của nhà văn Kim Lân và
Tô Hoài trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Dấu ấn phong cách riêng của nhà văn Kim Lân và Tô Hoài.
1. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ
TÀI.
1.1.Thuận lợi:
- Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp Dạy – Học của Ngành và của
toàn xã hội.


1


- Yêu cầu của mục tiêu bài học trong chuẩn kiến thức, kỹ năng của mỗi bài
dạy cụ thể của Bộ Giáo Dục và Đào tạo.
- Gợi ý hướng dẫn giảng dạy của từng bài trong sách giáo viên.
- Kinh nghiệm giảng dạy của bản thân giáo viên.
- Học sinh phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong việc tìm hiểu,
khám phá tác phẩm văn học.
1.2. Khó khăn:
- Phương pháp này khó đạt hiệu quả cao nếu học sinh không tích cực chủ
động chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Xu thế xã hội, tâm lí học sinh chú trọng các môn học về khoa học tự nhiên
hơn là các môn học về khoa học xã hội.
- Văn bản tự sự đòi hỏi học sinh phải hiểu đặc trưng văn bản tự sự: tư tưởng
nghệ thuật của nhà văn, phong cách nhà văn, lí luận văn học, cuộc đời và sự
nghiệp của nhà văn …
- Đọc – hiểu văn bản tự sự đòi hỏi học sinh phải trải qua nhiều công đoạn :
tóm tắt cốt truyện, cảm nhận cái hay, độc đáo của nhan đề tác phẩm, tình huống
truyện, lời văn nghệ thuật, phân tích nhân vật, giá trị nội dung, giá trị nghệ
thuật….cần thái độ chăm chỉ, chịu khó, tốn nhiều thời gian …
2. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
Chương trình Ngữ văn 12 cơ bản, học kì 2, phần văn bản tự sự (kể cả đọc thêm)
chiếm 15 tiết, 7 tuần. Chính vì thế trong đề tài này, tôi chỉ đề cập đến nội dung
các văn bản tự sự : Vợ nhặt - Kim Lân; Vợ chồng A phủ - Tô Hoài.
Việc Đọc – Hiểu văn bản tự sự là một khâu quan trọng trong giờ học Ngữ văn.
Chính vì thế người giáo viên dạy Văn luôn tìm cách giúp học sinh của mình tiếp
cận văn bản tự sự sao cho hiệu quả nhất. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh:
định hướng giọng đọc, tóm tắt văn bản, nhan đề tác phẩm, tình huống truyện,
hình tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật … Tuy nhiên, việc tìm hiểu lời văn

nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi tự sự ở trường THPT còn sơ lược. Vì vậy,
tôi chọn đề tài này với mong muốn có thể vận dụng vào công việc giảng dạy,
nâng cao chất lượng học tập, kết quả kiểm tra, bài thi ở học sinh.
2


II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Để học sinh hiểu sâu, có cơ sở lí luận chặt chẽ và vận dụng được vào bài kiểm
tra, bài thi, khi dạy văn bản tự sự, người giáo viên phải:
- Giúp học sinh nắm các khái niệm thể loại:
Truyện ngắn: là thể loại tự sự mang những đặc điểm như truyện nhưng có quy
mô nhỏ. Truyện ngắn được xem như một “lát cắt”, một “mảnh nhỏ” của cuộc
sống, cuộc đời nhân vật.
Thể loại truyện ngắn hiện đại là kiểu tư duy nghệ thuật mới, một cách nhìn
cuộc đời, cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại với đặc điểm
loại hình riêng biệt. Truyện ngắn hiện đại phát triển theo nhiều hướng khác
nhau, tùy cách sử dụng các yếu tố cốt truyện, nhân vật, trần thuật và kết cấu
truyện của nhà văn… Tác giả Phùng Hoài Ngọc với bài giảng đại cương “Thi
pháp học hiện đại” (Trường Đại Học An Giang, 2006) có đề cập vấn đề thi
pháp hiện đại chung chung, chưa xem xét đến các truyện ngắn trong chương
trình 12 THPT. Thái Phan Vàng Anh với bài viết “Ngôn ngữ trần thuật trong
truyện ngắn Việt Nam đương đại” đăng trên Tạp chí Sông Hương số 237, 112008 chỉ bàn đến các vấn đề có tầm khái quát, nhưng chưa chỉ ra một hướng
tiếp cận cụ thể nào trước một văn bản tự sự được học trong chương trình phổ
thông.
Mặt khác, truyện ngắn lấy phương thức trần thuật (là một phương diện cơ bản
của nghệ thuật tự sự - một phương thức biểu đạt thông dụng mà văn học lựa
chọn) để hiểu biết và phản ánh đời sống. Nghệ thuật trần thuật giúp cho người
nghiên cứu đi sâu khám phá những đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của mỗi
nhà văn, trên cơ sở đó, người đọc tiếp nhận và giải mã cấu trúc bên trong tác

phẩm, đồng thời có thể đánh giá những sáng tạo, những đóng góp của nhà văn
đối với sự phát triển truyện ngắn nói riêng và quá trình hiện đại hoá văn xuôi
Việt Nam nói chung.
Với văn học hiện đại, khi ý thức tạo dựng nhiều góc nhìn thì điểm nhìn trần
thuật thực sự trở thành một phạm trù quan trọng của thi pháp học hiện đại. Tìm
3


hiểu điểm nhìn là tìm hiểu một kiểu quan hệ, một phương thức tiếp cận của nhà
văn với hiện thực…
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Người giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu được một số vấn đề liên quan đến
lời văn nghệ thuật trong các văn bản tự sự cụ thể:
Lời văn trong tác phẩm văn học nghệ thuật là một hiện tượng nghệ thuật.
Văn học, một loại hình độc lập, phát triển song song với các loại hình nghệ
thuật khác nhưng lấy ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt. Ngôn ngữ là yếu tố đầu
tiên của văn học. Và ngôn ngữ văn học lại có những đặc trưng riêng: tính chính
xác, trong sáng; tính hàm xúc; tính mơ hồ, đa nghĩa; tính tạo hình, biểu cảm.
Lời văn nghệ thuật của tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng có chức năng xây
dựng hình tượng nên luôn luôn mang tính thẩm mĩ cao. Lời văn nghệ thuật
được xây dựng từ tất cả những khả năng và phương diện ngôn ngữ toàn dân
trên mọi bình diện từ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các phương thức tu từ … đến
các hình thức ngôn từ vốn có trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc: từ cổ, từ địa
phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở thành di sản nghệ thuật dân tộc.
Truyện ngắn, một thể loại tự sự trong văn học bao giờ cũng phản ánh cuộc
sống qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào
đó, qua đó ta hiểu được sự nhận thức đánh giá của nhà văn đối với cuộc sống.
Do đó tác phẩm bao giờ cũng có hình tượng người trần thuật với vai trò kể lại,
tả lại những diễn biến, sự việc và khắc hoạ nhân vật trong câu chuyện. Lời kể
luôn xuất phát từ những điểm nhìn nhất định, gắn với vấn đề vai kể, giọng kể…

Trong văn xuôi tự sự điểm nhìn có khi được di chuyển, vai kể, giọng kể cũng
không thuần nhất. Xét về chức năng xây dựng hình tượng, có thể phân loại lời
người kể thành lời kể/ lời trần thuật, lời miêu tả, lời trữ tình( lời bình luận trực
tiếp).
Mỗi văn bản tự sự ( Vợ nhặt – Kim Lân; Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) sẽ được
xem xét, phân tích lời văn nghệ thuật, cụ thể là ở các mặt sau:
- Kết cấu văn bản
- Nghệ thuật trần thuật
4


- Điểm nhìn nghệ thuật
- Ngôn ngữ nghệ thuật
2.1. Lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân:
2.1.1.

Kết cấu văn bản:

* Trong văn học, khái niệm kết cấu bao hàm không chỉ sự liên kết bên
ngoài (mối liên hệ kết nối giữa các phần, các chương đoạn) mà cả sự liên
kết bên trong (cấu trúc nội dung cụ thể) của tác phẩm. Đó là "phương tiện
cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật", có "chức năng đa dạng bộc lộ
tốt chủ đề tư tưởng của tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện,
tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn vẹn của tác
phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ" (Từ điển thuật Ngữ văn học, nhà
xuất bản Giáo dục, 1992). Như vậy, kết cấu là một yếu tố của hình thức
tham gia thể hiện chủ đề nội dung và tư tưởng tác phẩm, đóng vai trò quan
trọng trong việc biến tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật.
Nhữ Bá Sĩ rất quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối thế kỉ XVIII đầu
thế kỉ XIX. Ông từng nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của thiên hạ đúng là

không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà không đóng, mở, kết
cấu thì cũng không thành văn chương”. Sách Lí luận văn học (tập 2 : Tác phẩm
và thể loại văn học) cho rằng : “Kết cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể,
quan hệ hay quy tắc, phương pháp, mô hình đều là yếu tố tạo thành văn bản, là
thực tế không thể bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc hiểu văn bản.”
Truyện Vợ nhặt – Kim Lân cũng có một kết cấu rất riêng.
Truyện Vợ nhặt diễn ra trong không gian nghệ thuật nhỏ bé là ngôi chợ, xóm
nhỏ ngụ cư và căn nhà của gia đình Tràng. Đây là không gian một làng quê
nhưng không có ruộng đồng cò bay thẳng cánh mà chỉ là xóm ngự cư trong
những ngày cận kề bên cái đói, cái chết. Sự chết chóc hiện lên với con đường
khẳng khiu cùng những bóng người dật dờ đi lại, kèm theo âm thanh của tiếng
quạ kêu từng đàn thê thiết. Nhưng không gian ấy phát triển ấm áp dần theo tâm
lí nhân vật với ý nghĩa biểu tượng.Và truyện dẫn đến không gian ngôi nhà, tổ
ấm. Căn nhà lúc đầu được miêu tả rúm ró, lổn nhổn cỏ dại nhưng đến sáng hôm
5


sau quang quẻ hơn, tạo thành bước ngoặt tâm lí ở Tràng: “Bỗng nhiên hắn thấy
hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Ngoài ra, không gian bối
cảnh xã hội trong truyện là xã hội nghèo đói, loạn lạc Việt Nam những năm
trước Cách mạng tháng Tám, cụ thể là năm 1945.
Thời gian nghệ thuật cũng ngắn ngủi. Chỉ là buổi chiều Tràng đưa người vợ
về, buổi tối trong căn nhà và buổi sáng hôm sau. Ở đây, Kim Lân đã sử dụng
yếu tố hồi tưởng: nhân vật nhớ lại đã “nhặt vợ” như thế nào. Đó là thời gian quá
khứ gần, vừa mới xảy ra, cách thời gian hiện tại trong gang tấc nên sự việc vẫn
còn mới nguyên. Mạch truyện cũng dẫn đến tương lai được mở ra với câu nói
của bà cụ Tứ: “ ... Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau... Này ngoảnh đi
ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”.
Trên trục không gian và thời gian ấy, truyện Vợ nhặt có kết cấu bốn phần:
Phần 1: Tràng xuất hiện trong bóng chiều, đi làm về qua xóm nhỏ. Khi cái đói

chưa tràn về, Tràng thường được bọn trẻ đón mừng, nhưng dạo này chúng ngồi
ủ rủ còn Tràng thì mệt mỏi lê bước. Nhưng một buổi chiều Tràng về với một
người đàn bà nữa. Xóm ngụ cư bỗng xôn xao, người ta bàn tán, người đàn bà
ngượng nghịu còn Tràng thì không giấu niềm vui, niềm sung sướng.
Phần 2: Tràng nhớ lại hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa, bốn bát bánh đúc mà
mình có vợ.
Phần 3: Bà cụ Tứ xuất hiện. Tâm trạng và tình thương của bà đối với vợ
chồng mới.
Phần 4: Sáng hôm sau, bữa cơm ngày đói trong tiếng trống thúc thuế. Vợ
Tràng nói đến đòan người đi cướp kho thóc của Nhật và Tràng nghĩ về chuyện
đó.
Đầu truyện là ánh sáng lúc chạng vạng mặt người. Tràng một mình đi về. Cuối
truyện là ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt Tràng, lửng
lơ như từ giấc mơ đi ra, chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân, lòng lâng
lâng nghĩ về hạnh phúc gia đình.

6


Đầu truyện là nạn đói, kết thúc truyện là đoàn người đi cướp kho thóc của
Nhật, phía trước có lá cờ đỏ bay phấp phới. Truyện có một kết cấu chặt chẽ, phù
hợp với qui luật phát triển của lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
2.1.2.

Nghệ thuật trần thuật:

Ngòi bút kể chuyện của Kim Lân đã dựng lại được không khí bao trùm bởi
cái đói, cái chết năm Ất Dậu qua khung cảnh xóm ngụ cư đầy tử khí. Và không
khí truyện lại sáng lên một buổi chiều Tràng về với một người đàn bà. Đây là sự
sáng tạo trong bút pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa của Kim Lân. Nhưng thành

công ở truyện là nghệ thuật dẫn truyện: khéo léo, linh họat. Truyện được dẫn
dắt theo bước chân của Tràng và người đàn bà về đến nhà.
Không khí truyện tươi sáng qua đoạn kể cuộc đối thọai giữa đôi vợ chồng mới
bỗng chùng xuống với khuôn mặt “bần thần” của người vợ và nỗi lo sợ vu vơ
của Tràng khi về đến nhà. Và nỗi lo sợ ấy dồn vào câu nghĩ: “Sao hôm nay bà
lão về muộn thế không biết!”. Sự xuất hiện của bà cụ Tứ trong truyện thật tự
nhiên và hợp lí.
Nhà văn Kim Lân lại quay về hồi tưởng để thuật lại hai lần gặp gỡ của Tràng
với người “vợ nhặt”. Cách kể đó góp phần tăng sự hấp dẫn, thuyết phục đến
người đọc.
Bà cụ Tứ chỉ xuất hiện gần cuối truyện. Việc đặt nhân vật vào đúng lúc này có
ý nghĩa trong kết cấu câu chuyện và tăng giá trị cho tác phẩm. Tác giả đã thuật
một cách đằm thắm tâm trạng của người mẹ nghèo khổ nhưng rất mực thương
con, thương dâu. Tâm trạng bà cụ Tứ được diễn tả từ ngạc nhiên, buồn vui lẫn
lộn, xen lẫn lo lắng, đến xót thương. Nếu giọng văn nhanh, gấp rút theo bước
chân sầm sập của cô gái, cái liều lĩnh của Tràng ở đoạn đầu thì ở đoạn này thật
chậm rãi, kéo dài theo tâm trạng của bà cụ Tứ. Ngôi nhà của gia đình Tràng giờ
đã có ánh sáng của đèn dầu do bàn tay anh tự thắp.
Những dòng văn tả cảnh sân vườn sáng hôm sau, với giọng điệu chân thành,
giản dị. ấm áp vô cùng. Tác giả cho Tràng thức dậy muộn trong trạng thái bồng
bềnh giữa thực và mơ. Đôi mắt Tràng đã nhận ra sự thay đổi khác thường trên
sân vườn. Với những chi tiết thực, sống động, Kim Lân đã miêu tả: áo quần
7


rách được phơi hong, ang khô cong đã đầy nước, đống rác đã hốt sạch và hai
người đàn bà đang giẫy cỏ, quét sân. Ánh nắng sớm mùa hè, khiến Tràng nheo
mắt nhưng lại giúp Tràng nhận rõ hơn không gian hạnh phúc của mình. Câu
chuyện dừng lại trong sự suy tư của Tràng với những lời độc thoại nội tâm của
nhân vật đã giúp nhà văn bộc lộ chiều sâu quan niệm của Kim Lân về hạnh

phúc của những người lao động nghèo.
2.1.3.

Điểm nhìn nghệ thuật:

Trong tác phẩm văn xuôi tự sự, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm
nhìn, bằng quan điểm trần thuật nào đó. Vì vậy khi dạy Đọc – Hiểu văn bản tự
sự người giáo viên phải giúp học sinh xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ
rõ vị trí người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật câu chuyện trong
tác phẩm.
Truyện Vợ nhặt được khơi gợi từ nạn đói năm 1945 và chủ yếu là từ những
con người trong nạn đói. Kim Lân từng nói :“Nội dung truyện dài này (truyện
Xóm ngụ cư – tiền thân truyện vợ nhặt) nói về thân phận của những con người
bị khinh rẻ, với cuộc sống nghèo đói, bệnh tật kéo dài cho đến ngày khởi nghĩa.
Ý nghĩa truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ
nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm
đạm, để mà vui, mà hi vọng. Có những người sắp chết đói, vẫn cứ kể chuyện về
làng mình, về đất đai, bản quản của mình. Thân xác họ đã lả đi, mà vẫn cứ lởn
vởn, cứ đau đáu nghĩ tới ngày trở về làng…”
Từ cảm hứng ấy và tấm lòng nhân hậu sâu sắc Kim Lân đã tái hiện được cốt
truyện, xây dựng được các nhân vật điển hình với những tâm trạng phong phú,
phức tạp. Đọc truyện của ông ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt
giữa Kim Lân và người nông dân, nên ông mới có thể miêu tả người nông dân
trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy. Ngay cả khi xây dựng
những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên trong đó lại là những nỗi buồn và niềm
thương cảm sâu sắc. Những trang viết về những con người “dưới đáy” ấy đã
khiến ta xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt
hơn trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Ở đây, tác giả không
8



hề muốn nhấn mạnh những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và
nhân cách. Ngược lại, nhà văn đã đặt các nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,
lay lắt của cái đói, cái chết để tìm ra một cơ hội để biểu hiện niềm khao khát
được sống, được thương yêu và hy vọng mãnh liệt của họ. Kết thúc truyện có
câu chuyện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong óc Tràng
đã mang lại niềm tin, niềm hi vọng cho người đọc. Nhà văn muốn thông qua
nhận thức của nhân vật Tràng để chỉ rõ : con đường duy nhất thoát nghèo đói là
đấu tranh cách mạng. Qua truyện, Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của
những người nông dân “rũ bùn đứng dậy sáng loà”, chiến đấu vì đất nước, để
thoát khỏi số phận tối tăm trước mắt. Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá
cờ đỏ sao vàng, lá cờ lý tưởng cách mạng, lá cờ của niềm tin chiến thắng. Đây
chính là quan điểm tiến bộ của nhà văn Kim Lân giác ngộ, đi theo cách mạng.
Kết thúc truyện “Vợ nhặt”cũng là nét chung chứng minh đặc điểm thi pháp văn
học cách mạng.
2.1.4. Ngôn ngữ nghệ thuật:
M. Gorki khẳng định: “Ngôn ngữ yếu tố thứ nhất của văn học”. Ngôn
ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là
mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều
nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ. Trong bài viết “Sử dụng ngôn
ngữ nghệ thuật đặc sắc của truyện Kim Lân” tác giả Bảo Nguyên đã cho
rằng “Kim Lân lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở của cuộc sống hằng
ngày, để diễn đạt chúng với cuộc sống miền quê với những con người giản dị
mà đáng yêu”.
Trong truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã sử dụng ngôn ngữ nông thôn mộc cách tự
nhiên. Trong nghệ thuật tả cảnh, tả người, miêu tả tâm lí nhân vật hay xây dựng
đối thọai, nhà văn tỏ ra có vốn từ ngữ dân quê. Con đường qua xóm chợ được
tác giả miêu tả với hai từ “khẳng khiu”, hết sức tượng hình, và sự tối tăm, của
xóm chợ được miêu tả “Hai bên dãy phố, úp súp tối om”, thật độc đáo, rất đắt.
Khi miêu tả nơi ở nghèo khó, tạm bợ của mẹ con Tràng, Kim Lân chỉ cần miêu

tả “cái nhà vắng teo”, “đứng rúm ró” trên vườn cỏ “lổn nhổn”. Còn miêu tả
9


về ngọai hình khác thường của Tràng, tác giả lại dùng : “gà gà”, “nhấp
nhỉnh”,...Hoặc trong truyện tác giả còn dùng “dật dờ đi lại”, “gào lên từng hồi
thê thiết”, “khoặm mặt lại”, “tầm phơ tầm phào”, “ngồi vêu ra ở đấy”, “con
mắt trũng hoáy”... tất cả được sử dụng rất chính xác.
Ngoài ra, những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ
hành động một cách tinh tế: tiếng gắt vô duyên vô cớ, một tiếng khẽ ho bình
thường, những bước chân bước vội ra sân, thái độ điềm nhiên và miếng cám
vào trong miệng… Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, mang đậm tính
chất nông thôn, cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo,
giản dị mà hào hoa.
Truyện Vợ nhặt càng đặc sắc hơn là ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật.
Chúng ta đọc đoạn văn sau:
Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu
chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ
đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắngmấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt cười tít.
Qua đoạn văn trên, nhà văn Kim Lân giúp ta hiểu sự gần gũi, mộc mạc, sự chân

tình, dí dỏm của những người lao động nghèo, trẻ trung. Cuộc đối thoại diễn ra
tự nhiên, thoải mái : nhiều câu nói trống không( không có chủ ngữ, không có từ
xưng hô) hoặc dùng từ xưng hô kiểu thân mật của khẩu ngữ( đằng ấy, nhà tôi),
nhiều câu đùa nghịch thân mật, dùng cả hình thức hò trong dân gian. Lúc đầu
10


quan hệ giữa họ là xa lạ, không quen biết, nhưng sau đó thân mật hơn và có
phần suồng sã. Họ cười đùa, nói chuyện làm ăn, về công việc và miếng cơm
manh áo. Nhân vật Tràng được tác giả giới thiệu là một chàng trai hiền lành,
chân chất; thị và các bạn gái thì lanh lợi, vui vẻ. Riêng thị thì tốt bụng, rất bạo
dạn. Như vậy, qua ngôn ngữ đối thoại, tác giả đã làm nổi bật tính cách, giọng
điệu riêng của từng người. Nhấn mạnh sự quê mùa, cục mịch, thô kệch của
Tràng; sự chao chát, chỏng lỏn của người “vợ nhặt” - kẻ đang gặp cảnh đói kém,
lang thang, Kim Lân đã cho họ gặp gỡ và về cùng một nhà với những câu như:
“ Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã”, “Có
ăn thì ăn thật, chả ăn giầu”,“Rích bố cu, hở”, “Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt
tiền thì bỏ bố”, “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân
hàng lên xe rồi cùng về”. Đó là ngôn ngữ giao tiếp đời thường, của tình duyên
của những người lao động nghèo trong xã hội cũ.
Khi Tràng đưa người phụ nữ về nhà, tác giả cho hai nhân vật nói những câu
cộc lốc, những câu tỉnh lược, những câu đặc biệt như: “Gì hả”, “Không”, Còn
chán”, “Khiếp”, “Nhà có ai không?”, “ Có một mình tôi mấy u”, “Đằng này
à”, “Ừ”, “Sắp đến chưa?”, “Sắp”... Những lời nói đó đã bộc lộ sự mới mẻ, sự
xa lạ, sự ngượng ngùng của đôi vợ chồng mới. Thậm chí, nhà văn còn lột tả sự
thiếu hụt lời ăn tiếng nói ở anh chàng Tràng: “Hắn định nói với thị vài câu rõ
tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng ...” hay cách trả lời
lúng túng, không rõ nghĩa của Tràng “Có một mình tôi mấy u”. Khi đọc truyện
Vợ nhặt, người đọc không thể quên những đoạn đối thọai đặc sắc:
“ Câu chuyện xem chừng đã thân thân. Hắn đi sát gần bên thị hơn, ngẫm

nghĩ một lúc, chợt hắn giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay khoe:
-

Dầu tối thắp đây này.

-

Sang nhỉ.

-

Khá thôi. Hai hào đấy, đắt quá, có mà thôi chả cần.

-

Hoang nó vừa vừa chứ.

Hắn chặc lưỡi:

11


-

Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ tối đã

rúc vào ngay, hì hì...
-

Khỉ gió”.


2. 2. Lời văn nghệ thuật trong truyện Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài
2.2.1. Kết cấu văn bản:
Truyện Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn trong tập truyện Tây Bắc. Truyện có
hai phần, viết về hai giai đoạn của cuộc đời Mị và A Phủ: Giai đoạn ở Hồng
Ngài, trong nhà thống lí Pa Tra; Giai đoạn ở Phiềng Sa, hai vợ chồng gặp gỡ
cách mạng rồi trở thành du kích.
Đoạn trích trong sách giáo khoa Vợ chồng A Phủ thuộc giai đoạn đầu: ở
Hồng Ngài. Truyện kể không theo trật tự thời gian. Mở đầu là hình ảnh “Ai ở
xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào, cũng vậy, dù quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi…Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải
con gái nhà Pa Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra”. Nhà văn đã có
cách giới thiệu nhân vật Mị đặc sắc, đầy ấn tượng, gợi ra số phận đau khổ éo le
của Mị. Từ đó, mạch truyện đưa chúng ta quay về quá khứ, về kỉ niệm gia đình,
tình yêu êm đềm của Mị; rồi tác giả kể đến chuỗi ngày sống cảnh ngục tù và
tâm trạng vô cảm của Mị khi bị bắt làm dâu gạt nợ ở nhà thống lí Pa Tra. Kế
tiếp là sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông trên núi cao. Kết
thúc truyện là Mị “người đàn bà chê chồng” này đã chạy theo A Phủ.
Không gian nghệ thuật trong truyện là không gian thiên nhiên rộng lớn của
vùng đất Tây Bắc đẹp và nên thơ. Và không gian ấy cũng chứa đựng tâm trạng
của nhân vật Mị. Bên cạnh đó còn có không gian hẹp là nhà thống lí Pá Tra,
cùng gian buồng của Mị. Ngôi nhà ấy đã hủy hoại biết bao đời con người lao
động lương thiện, dập tắt bao sự sống, khát vọng tự do, tình yêu, tuổi trẻ. Căn
buồng Mị ở, thực chất là một địa ngục giam hãm tuổi xuân, sức sống, tình yêu,
hạnh phúc của người con gái tài hoa, xinh đẹp và nết na vùng cao ấy. “Ở buồng

12



Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông
ta cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay lá nắng”.
Thời gian nghệ thuật trong truyện rất đa dạng: có thời gian hiện tại, quá khứ,
tương lai. Thời gian quá khứ được gợi chủ yếu qua hồi ức của Mị. Đó là khi Mị
ở nhà với bố, được sống tự do bên cạnh những người yêu thương nên được
miêu tả đều đều, chậm rãi. Thời gian hiện tại là thời gian Mị bị giam hãm của
kiếp đoạ đày nô lệ ở nhà thống lí Pá Tra nên nó được kéo căng làm cho tưởng
chừng như vô hạn. Thời gian tương lai trong truyện diễn ra nhanh, gấp rút phù
hợp với chuỗi diễn biến từ việc Mị cắt dây trói cứu A Phủ, chạy theo A Phủ và
cùng tìm đến hạnh phúc, đến sự sống, đến tương lai ngày mai.
2.2.2. Nghệ thuật trần thuật:
Truyện Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài coù cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ,
tự nhiên mà ấn tượng. Cách trần thuật ngắn gọn, việc dẫn dắt tình tiết khéo làm
cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không
trùng lặp. Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên
vách làm hiệu, rủ người yêu dở vách ra rừng chơi. Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.
Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại
đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo, tiếng chó
sủa xa xa. Mị lúc tỉnh lúc mê. Cho đến khi trời tang tảng rồi không biết sáng tự
bao giờ”.
Ngôn ngữ trần thuật của Tô Hoài rất sinh động, có sự chọn lọc và sáng tạo.
Lối văn giàu tính tạo hình, có chỗ như quay cận cảnh, viễn cảnh của điện ảnh.
Nhà văn đã vận dụng cách nói của người miền núi hồn nhiên, đầy hình ảnh.
“Đến Tết năm ấy. Tết thì vui chơi, trai gái đánh phao, đánh quay rồi đêm đêm
rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng
chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh
vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.”
Giọng trần thuật hòa nhập tự nhiên với tư tưởng của truyện và nội dung từng
đoạn. Các đoạn văn “Rượu đã tan lúc nào… quả Pao rơi rồi”, “ Nhìn thấy tình

cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước…Người kia việc gì phải chết thế.
13


A Phủ …” giọng trần thuật của tác giả nhập vào dòng tâm tư của nhân vật Mị,
diễn tả được những ý nghĩ, tâm trạng và cả những trạng thái mơ hồ, vô thức của
Mị.
Nhịp kể chậm rãi, giọng kể trầm lắng cảm thông, sẻ chia, yêu mến hai nhân
vật Mị và A Phủ.
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi
rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị ... Mị thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa”.
“Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa
nhà, lại bị người nhà xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập
chảy máu…”
Giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của
nhân vật, vừa bộc lộ đời sống nội tâm nhân vật, vừa tạo được sự đồng cảm. “
Trời ơi, nó bắt trói....Mị phảng phất nghĩ như vậy”.
Truyện của Tô Hoài sự kết hợp nhiều lời trần thuật: khi trần thuật khách quan,
khi là trực tiếp, lại có khi là nửa trực tiếp. Đọc Vợ chồng A Phủ, người đọc thấm
thía ý nghĩa của tiếng sáo gọi bạn tình vào đêm mùa xuân. Từ khi Mị trở về
chào bố để chết và hiểu rằng mình chưa thể chết, nên Mị đành chấp nhận kiếp
nô lệ, cứ “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Tuổi xuân của người phụ nữ xinh
đẹp, tài hoa ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp, tăm tối, trong căn buồng
chỉ có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài kia cứ thấy một màu mờ
mờ trắng trắng không biết là sương hay là nắng. Mị xem mình sống mà như đã
chết. Ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen cái khổ rồi. Thậm chí, đến khi người bố,
già chết đi, cô cũng chẳng nghĩ đến chuyện rời khỏi nhà thống lí nữa. Nhưng
chính tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm mùa xuân ấy đã đánh thức ở Mị: ý niệm
về thời gian, hoài niệm về tuổi trẻ cùng khát vọng hạnh phúc, tình yêu trong

con người tưởng đã chai sạn, vô cảm bởi lao động cùng cực, đau khổ, bất hạnh.
Ngòi bút Tô Hoài như hồi hộp dõi theo nỗi lòng Mị để diễn tả quá trình trỗi dậy
của một sức sống tiềm tàng theo các bước ngày càng cao, càng nồng nàn. Cũng
từ đây, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật của nhà văn bắt đầu chuyển
14


đổi. Giọng điệu trần thuật không hoàn toàn khách quan nữa mà lúc này có sự
kết hợp với điểm nhìn trần thuật từ nhân vật, xuất hiện lời trần thuật nửa trực
tiếp:“Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết,
Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị
không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho
Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị đã ngồi xuống giường,
trông ra cái lỗ cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới
trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ
lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Trong đoạn văn này, nhà văn từ chỗ
trần thuật khách quan (từ chỗ đứng người kể chuyện) sang nhập thân vào nhân
vật; cụ thể ở ba câu cuối có sự dịch chuyển, kết hợp tự nhiên các điểm nhìn,
giọng điệu. Tô Hoài đã viết liên tiếp ba câu văn ngắn cùng một chủ ngữ là Mị.
Lời văn thay đổi bất ngờ theo nhịp hối hả, dồn dập đã bộc lộ khát vọng sống
đang trào dâng trong lòng Mị. Ở đây ta không thể phân định rạch ròi: đâu là lời
nhân vật, đâu là lời tác giả. Bởi nhà văn không đứng bên ngoài mà tả, mà kể
nữa, mà đã nhập thân vào Mị, thổn thức cùng Mị ở thời khắc ấy.

Tải tài liệu bản đầy đủ tại: />
Tải tài liệu bản đầy đủ tại: />
Tải tài liệu bản đầy đủ tại: />------------------------------------------------------

Tổng Hợp Đề Tài Sáng Kiến Kinh Nghiệm Sư Phạm>>
/>

15



×