Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.48 KB, 1 trang )
Tìm hiểu một vài tư tưởng của Khổng Tử về phương
pháp dạy học
Khổng Tử (551 - 479 TCN) là người tài cao, học rộng, có chí lớn. Từ năm 20 tuổi, ông làm nghề dạy học rồi chu du khắp thiên hạ
truyền bá đạo Nho. Bằng cuộc đời và hoạt động của mình, ông đã có nhiều đóng góp vào kho tàng giáo dục của Trung Hoa và có
ảnh hưởng không nhỏ đến nền giáo dục phong kiến của một số nước trong vùng. Ngoài những tiến bộ về việc xác định vai trò,
mục đích, vị trí, nội dung giáo dục thì phương pháp dạy học là lĩnh vực đáng để chúng ta tiếp tục nghiên cứu. Nhân dịp kỷ niệm
ngày nhà giáo Việt Nam, tác giả xin bàn về một số nguyên tắc trong cách dạy học của ông - người thầy giáo được học sinh của
mình tôn vinh là "vạn thế sư".
Nguyên tắc thứ nhất: Phát huy tính tích cực của người học, kết hợp việc học với việc tự suy nghĩ.
Trong quá trình dạy học, Khổng Tử đòi hỏi học trò phải cố gắng tự suy nghĩ. Theo ông, việc dụng công suy nghĩ sẽ làm bật ra
những thắc mắc, những câu hỏi để giải quyết vấn đề. Ông nói: "học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi (luận ngữ vi chính)
[1]”, nghĩa là học mà không suy nghĩ thì mờ tối chẳng hiểu gì, nghĩ mà không học thì khó nhọc mất công không. Theo ông cần
học cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho sáng rõ, làm cho hết sức. Do đòi hỏi học trò phải suy nghĩ trong lúc
học nên ông đánh giá cao việc đặt câu hỏi của học trò. Ông nói:"Hữu phất học, học chi phất năng, phất thố giả. Hữu phất vấn, vấn
chi phất tri, phất thế gia..."(Trung dung)[2] - tức là có điều không học nhưng đã học điều gì mà không hay không thôi; có điều
không hỏi nhưng đã hỏi điều gì không biết không thôi. Hay như: "bất phẫn bất khải, phất phí bất pháp. Cử nhất ngung bát dĩ làm
nguy phản, tác bất phục dã"[3] - nghĩa là không tức giận vì muốn biết thì không truyền mở cho, không tức giận vì nói không rõ ra
được thì không bày vẽ cho. Để tạo điều kiện cho người học tự suy nghĩ trong dạy học ông chỉ gợi mở, cho học trò tự giải đáp các
vấn đề còn lại. Ông nói: vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc khác thì không dạy nữa. Không dừng lại ở
đó, ông đặt sự ham học hỏi của học trò trong một phạm vi lớn hơn, đó là thái độ học tập: khiêm tốn, học ở mọi nơi, ở mọi lúc,
mọi người kể cả lúc đi trên đường "ba người cùng đi tất có một người là thầy ta, chọn người hay mà bắt chước, nhìn người dở mà
sửa mình"[4].
Nguyên tắc thứ hai: Học đi đôi với hành
Theo ông, muốn học tập có hiệu quả thì phải tìm thấy vui thú. Có vui thú mới tiến ích: học mà cứ buổi buổi luyện tập luôn thì
trong bụng lại không thoả thích sao? Có bạn ở phương xa nghe tiếng đến học làm điều lành với mình thì không vui sao? ("Học
nhi thời thú tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viến phương lai, bất diệc lạc hồ?")[5]. Vì vậy cần thường xuyên luyện tập
trong học tập, ông nói "đạo thính đồ thuyết, đức chi khí dã"[6] - nghĩa là nghe ngoài đường, nói ngoài đường là bỏ cái đức vậy (ý
nói nghe để nói ra miệng chứ không thực hành thì học lắm dở nhiều). Trong đạo đức cũng vậy, tập luyện giúp con người có tính
cách riêng, nhân cách con người cũng do luyện tập mà thành (tính tương cận dã, tập tương viễn dã - nghĩa là tính người thì ai
cũng gần như ai nhưng luyện tập thì thành ra mỗi người một khác)[7]; hay như "thiếu thành nhược thiên tính, tập quán như tự
nhiên" tức là luyện tập được từ khi còn nhỏ cũng như thiên tính, thói quen như thiên tính. Kết quả cuối cùng của việc học, theo