Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

thuc trang quy hoach su dung dat o nuoc ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.76 KB, 10 trang )

(Tài chính) Lãng phí trong sử dụng và bất cập trong quản lý đất đai là hiện trạng
diễn ra ở hầu khắp các địa phương hiện nay. Đây cũng là một trong những trở ngại
lớn của phát triển kinh tế - xã hội đã được đề cập nhiều. Thời gian qua, dù các cấp,
các ngành đã đẩy mạnh thanh tra, xử lý vi phạm nhưng tình trạng sai phạm trong
quản lý, sử dụng đất đai vẫn chưa mấy suy giảm.

Sai phạm trên diện rộng
Trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội tại kỳ họp tháng 6/2012 về tình trạng đất đai bỏ
hoang, lãng phí, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang
cho biết: Kết quả kiểm tra đến đầu năm 2012 cho thấy, cả nước có 5.828 tổ chức vi
phạm với diện tích hơn 73.992 ha, trong đó có 1.945 tổ chức vi phạm với tổng diện
tích vi phạm là 18.048,37 ha; có 21 tổ chức chính trị vi phạm với diện tích 308,24
ha; có 521 cơ quan nhà nước vi phạm về đất với diện tích 2.480,47 ha…
Số liệu trên chỉ là một góc phác họa về những vi phạm và sự lãng phí đất đai trên
toàn quốc tại thời điểm hiện nay. Thực tế, có thể khẳng định sự lãng phí còn lớn
hơn và nó diễn ra trên khắp các địa phương với muôn hình vạn trạng khác nhau.
Ngày 13/6/2012, Thanh tra Chính phủ đã có báo cáo tổng hợp về kết quả Chương
trình thanh tra chuyên đề về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất năm 2011. Theo kết
quả thanh tra, hầu hết các dự án đều có tiến độ chậm, có dự án chậm tới 5-7 năm
nhưng chưa được xử lý theo quy định. Công tác sử dụng đất thiếu chặt chẽ, chủ
đầu tư nhiều dự án vi phạm các quy định của pháp luật, nhất là các dự án kinh
doanh bất động sản. Bên cạnh đó, tổng diện tích đất sử dụng không đúng quy
hoạch tại 35 tỉnh, thành phố là 19.182 ha; giao đất, cho thuê đất không đúng quy
định tại 39 tỉnh, thành phố với diện tích 241.988 ha; sử dụng đất sai mục đích,
không có hiệu quả tại 45 tỉnh, thành phố với diện tích 21.758 ha…


Những vi phạm về tài chính đất đai cũng đang diễn ra tại nhiều địa phương như
miễn giảm, tính giá thu tiền sử dụng đất sai quy định tại 12 tỉnh, thành phố trị giá
hàng nghìn tỷ đồng; nợ, chậm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tại 29 tỉnh, thành
phố trị giá cũng lên đến c ả chục nghìn tỷ đồng.


Công tác quy hoạch xây dựng vẫn còn nhiều bất cập, gây lãng phí, chưa khai thác
hết nguồn lực tài chính trong lĩnh vực này. Công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy
hoạch chậm, chưa phù hợp về thời gian, nội dung với quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Chất lượng các đồ án quy hoạch chưa
được quan tâm đúng mức, nhiều đồ án quy hoạch chi tiết có chất lượng thấp, nhỏ
lẻ, thiếu đồng bộ trong sử dụng đất cũng như chưa đầy đủ căn cứ pháp lý. Chỉ tiêu
phê duyệt chưa đảm bảo diện tích đất tối thiểu so với quy chuẩn xây dựng về giao
thông, y tế, giáo dục…
Trong thực hiện đầu tư xây dựng, nhất là tại các khu đô thị, nhà ở tập trung còn dàn
trải. Quy hoạch, kiến trúc đô thị thiếu đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
Công tác quản lý thực hiện quy hoạch còn nhiều hạn chế, bất cập về cơ chế, nhiều
nơi bị buông lỏng, thiếu sự phân cấp, phân công hợp lý về chức năng đối với các
sở chuyên ngành như xây dựng, quy hoạch – kiến trúc và ủy ban nhân dân các
quận, huyện trong quản lý, theo dõi việc lập, thẩm định, trình duyệt và thực hiện
quy hoạch. Lực lượng cán bộ chuyên trách cho công tác này còn nhiều hạn chế về
năng lực. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ, thường xuyên dẫn tới
tình trạng vi phạm quy hoạch diễn ra phổ biến, khó xử lý và gây thiệt hại không
nhỏ về kinh tế, nhất là trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Công tác quản lý và sử dụng đất đại tại các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự
nghiệp nhà nước, các bộ, ngành còn nhiều lãng phí. Theo Cục Quản lý Công sản
(Bộ Tài chính), trên địa bàn cả nước, các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập đang quản lý, sử dụng diện tích đất, nhà với tổng diện tích đất lên đến 1,5 tỷ
m2, giá trị tương đương khoảng 594.000 tỷ đồng; trong đó khu vực sự nghiệp công
lập chiếm 1,2 tỷ m2, bằng 80% tổng diện tích; tổng diện tích nhà lên đến hơn
100.000m2 với tổng giá trị khoảng 138.000 tỷ đồng. Riêng các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước hiện đang quản lý, sử dụng khoảng 155 triệu m2 đất, trong đó nhiều
đơn vị chiếm giữ số lượng nhà, đất rất lớn, nguồn đất chưa sử dụng khoảng 3.164
ha. Phần lớn đất công được giao cho các đơn vị thuộc những vị trí đắc địa ở các đô
thị lớn, các trung tâm công nghiệp, tuy nhiên, tình trạng sử dụng đất lãng phí, sai
mục đích đang diễn ra phổ biến, gây thất thoát lớn cho ngân sách. Theo tính toán,

nếu tính đúng, thu đủ và có cơ chế buộc phải sử dụng đất hiệu quả thì, ngân sách
nhà nước có thể thu được khoảng 5 tỷ USD mỗi năm - một khoản tiền không nhỏ
trong bối cảnh hiện nay để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.


Từ việc chính quyền cấp xã, thậm chí là cấp thôn, hợp tác xã tự ý cấp đất, cho thuê
đất trái thẩm quyền đến việc các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn được
Nhà nước giao nhiều đất nhưng để hoang hóa, để nhiều cá nhân lợi dụng kinh
doanh, thu lợi cá nhân đang phản ánh thực trạng quản lý đất đai lỏng lẻo ở nhiều
địa phương. Ngay ở Hà Nội, nơi “tấc đất tấc vàng”, kết quả rà soát của Sở Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội cho thấy có 30 cơ quan, doanh nghiệp nhà nước
đang để hoang hóa hàng trăm nghìn m2 đất, biến đất thành khu dịch vụ tổng hợp
gồm các quán bar, karaoke, nhà hàng, siêu thị, sân tennis, bãi giữ xe…
Chuyện “dự án treo” và đất quy hoạch sân gôn tập trung ở các nơi vốn là đất hai vụ
lúa, đất “bờ xôi ruộng mật” không được sử dụng hiệu quả, bỏ hoang hóa, đang có
nguy cơ thu hẹp mục tiêu giữ vững 3,8 triệu ha đất lúa. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, tính đến hết năm 2010, cả nước có 267 khu công nghiệp với tổng diện tích
72.000 ha nhưng tỷ lệ lấp đầy bình quân chỉ đạt gần 46%; ngoài ra, cả nước còn
28.000 ha đất của 650 cụm công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy bình quân cũng chỉ đạt 44%;
trong đó chỉ tính riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 20 khu công
nghiệp lấn vào diện tích lúa với tổng diện tích 3.465 ha, diện tích cho thuê đạt 810
ha, chiếm tỷ lệ 22% gây nên lãng phí lớn về đất đai, nông dân thiếu đất sản xuất
lương thực.
Bên cạnh đó, việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp cũng còn nhiều bất cập,
chưa mang lại hiệu quả cao. Theo tính toán của Viện Chính sách và Chiến lược
phát triển nông nghiệp nông thôn, tốc độ tăng hệ số sử dụng đất lúa giảm từ 2,15%
giai đoạn 1990 – 2000 xuống còn -0,03% giai đoạn 2000 – 2009, do đó tỷ lệ đóng
góp cho tăng trưởng của hệ số sử dụng đất giảm từ 40,4% giai đoạn 1990 – 2000
xuống còn -1,5% giai đoạn 2000 – 2009. Ngành Lâm nghiệp với diện tích lớn,
chiếm gần 14 triệu ha, nhưng có đóng góp rất nhỏ cho GDP (tính giá trị kinh tế đơn

thuần chỉ khoảng 1%; nếu tính cả giá trị kinh tế và giá trị môi trường thì khoảng 3
– 4%). Và đến năm 2012, dù chưa có kết quả nghiên cứu cụ thể nhưng chắc chắn
hệ số này không tăng, thậm chí còn tiếp tục giảm sút…
Đẩy mạnh xử lý sai phạm
Tình trạng nhiều khu đất để hoang, dự án “treo” diễn ra ở hầu khắp các địa phương
trong cả nước, tuy nhiên, chỉ đến khi các phương tiện thông tin đại chúng lên tiếng
về vấn nạn này thì địa phương mới chỉ đạo các sở, ngành liên quan kiểm tra, rà
soát và kiến nghị hướng xử lý đối với các dự án vi phạm pháp luật về đất đai.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang, trước những
sai phạm trong quản lý và sử dụng đất đại, Bộ kiến nghị, chỉ đạo các tỉnh, thành
phố đã xử lý 3.670 tổ chức (đạt 61,84%) với diện tích đất 14.323,2 ha, trong đó đã
thu hồi 12.550,4 ha, xử lý về quy hoạch, nghĩa vụ tài chính để cấp giấy chứng nhận


quyền sử dụng đất đối với 1.353,99 ha, thu nộp ngân sách nhà nước 98 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Thanh tra Chính phủ cũng đã kiến nghị thu hồi 16.820 ha đất, xử lý
khác đối với 292.567 ha đất. Ngành Thanh tra cũng kiến nghị các cơ quan chức
năng truy thu 813,2 tỷ đồng và xử lý khác là 19,5 tỷ đồng; Chuyển cơ quan điều tra
để điều tra, xử lý 11 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng, trong đó
Bắc Cạn có 2 vụ, Hải Phòng 2 vụ, Ninh Thuận 2 vụ, Quảng Ngãi 1 vụ,Thanh Hóa
4 vụ. Đồng thời, kiến nghị với các chủ tịch UBND tỉnh, thành phố chỉ đạo kiểm
điểm, xử lý trách nhiệm đối với những cá nhân, đőn vị lięn quan đến những vi
phạm đã được phát hiện, trong đó tập trung chủ yếu là các sở, ngành, phòng, ban
tham mưu trực tiếp trong công tác quản lý đất đai; Kiến nghị các cơ quan chức
năng có liên quan đến công tác quản lý nhà nước về đất đai như tài chính, kế hoạch
và đầu tư, xây dựng cần tăng cường hơn nữa sự phối hợp để khắc phục những bất
cập về cơ chế, chính sách cũng như xử lý kịp thời những vi phạm trong quản lý sử
dụng đất đai…
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý
chặt chẽ đất đai và sử dụng có hiệu quả đất công, thời gian qua, các cơ quan chính

quyền và Bộ Tài chính đã có nhiều động thái tích cực và kiên quyết trong lĩnh vực
này. Tính đến hết năm 2011, đã có 71 bộ, ngành Trung ương; 17 tổng công ty nhà
nước và 51/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện kê khai và đề xuất
phương án xử lý nhà đất với tổng số 117.498 cơ sở nhà, đất. Theo số liệu chưa đầy
đủ, đến nay, số thu từ sắp xếp nhà, đất là 24.812 ngàn tỷ đồng, trong đó số tiền thu
được từ chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất của các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước trên 15.000 tỷ đồng.
Trước những bức xúc của dư luận, nhiều địa phương đã nhanh chóng đưa ra biện
pháp khắc phục như: tại Hà Nội, các cấp lãnh đạo Thành phố đã chỉ đạo các đơn vị
chức năng tổ chức lập hồ sơ để thu hồi gần 3 triệu m2 đất sử dụng sai mục đích, để
lãng phí. Các dự án nằm trong diện thu hồi sẽ được bàn giao cho Trung tâm phát
triển Quỹ đất Hà Nội. Sau khi tính toán phương án bồi thường thiệt hại cho các chủ
đầu tư, các dự án bị thu hồi sẽ được sử dụng vào mục đích công cộng như xây
dựng trường học, nhà trẻ, bãi đỗ xe ô tô theo đúng quy hoạch, kế hoạch của thành
phố. Tại TP. Hồ Chí Minh, hàng trăm nghìn ha đất sử dụng lãng phí cũng đã được
thu hồi để xây dựng bệnh viện, các công trình phúc lợi xã hội hoặc giao lại cho các
doanh nghiệp, nhà đầu tư có nhu cầu mặt bằng để phát triển sản xuất, kinh doanh.
Tỉnh Long An từ năm 2009 đến 2012, đã thu hồi 57 dự án với tổng diện tích hơn
3.000 ha. Đây là một trong những địa phương đầu tiên tại Đồng bằng sông Cửu
Long rà soát, thu hồi các dự án “treo” để lãng phí trong nhiều năm, gây thiệt hại
lớn về kinh tế và an sinh xã hội. Nhiều địa phương khác cũng đã tích cực thu hồi
đất sử dụng sai mục đích, để lãng phí, chuyển sang sử dụng làm đất nông nghiệp,


xây dựng hạ tầng giao thông, phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp...
Có thể khẳng định, một trong những nguyên nhân khiến đất đai bị sử dụng lãng
phí, không hiệu quả là do thuế sử dụng đất đang ở mức quá thấp (0,03%). Ở các
nước, thuế bất động sản phải tối thiểu từ 1% trở lên và họ dùng tiền thuế thu được
này để xây dựng hạ tầng, làm dịch vụ công cộng. Bên cạnh đó, giá đất đã không
được tính đúng với giá thị trường. Nếu giá đất được tính sát theo giá thị trường,

làm căn cứ để thu thuế, phí sử dụng đất sẽ buộc các doanh nghiệp hiện đang nắm
giữ nhiều đất phải cân nhắc, tính toán việc sử dụng có hiệu quả quỹ đất đang có.
Qua khảo sát, chi phí tiền thuê đất hàng năm trong tổng chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hiện nay chỉ chiếm khoảng 5%. Do đó, tình trạng “giữ
đất” ở các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước cũng như ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế khá phổ biến. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân gây lãng phí đất đai hiện nay và trách nhiệm để thất thoát nguồn lực
tài chính từ đất đai như hiện nay trước hết thuộc về UBND cấp tỉnh (cơ quan có
thẩm quyền quyết định giá đất).
Khắc phục tình trạng lãng phí đất đai, trong thời gian tới nhiều chuyên gia cho rằng
Nhà nước nên bỏ khung giá đất mà chỉ quy định nguyên tắc, phương pháp xác định
giá đất để UBND cấp tỉnh ban hành bảng giá đất và quyết định giá đất theo thị
trường. Đây là một giải pháp để khắc phục tình trạng khung giá đất quy định của
chính quyền địa phương chỉ bằng 1/10 giá đất thị trường. Tuy nhiên để làm được
điều này, cơ quan chuyên ngành cần nghiên cứu để đưa ra phương pháp định giá
đất sát với giá thị trường, khắc phục tình trạng các doanh nghiệp kinh doanh bất
động sản kiếm lời từ chênh lệch giá đất. Cần có cơ chế buộc người chuyển nhượng
quyền sử dụng đất phải khai báo trung thực giá đất; chuyển nhượng. Đồng thời, có
chính sách về việc thu hồi đất theo quy hoạch, tạo quỹ đất “sạch” để đấu giá. Theo
đó, Chính phủ cần quy định cụ thể để buộc các địa phương khi thu hồi đất để xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị phải quy hoạch và tổ chức
khai thác quỹ đất hai bên đường, vùng phụ cận để tạo nguồn lực từ đất đai đầu tư
cho chính công trình này.
Bài đăng Tạp chí Tài chính số 10/2012

Quy hoạch lại việc sử dụng đất nông nghiệp góp phần phát triển “Tam nông” bền
vững
(Mard-13/9/2011): Nghị quyết 26 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khóa X về Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn được đánh giá là toàn diện



nhất về vấn đề “Tam nông”. Song để tạo nên tính đột phá trong thực hiện Nghị
quyết quan trọng này, vấn đề cấp bách hiện nay là phải rà soát quy hoạch không
gian và chi tiết việc sử dụng đất đai trên phạm vi toàn quốc.
Nhất là dành đất cho sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa), để đảm bảo
an ninh lương thực bền vững và lâu dài.
Theo báo cáo kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thời kỳ 20012010 của Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường): Năm 2010 đất
nông nghiệp của cả nước có 26.226.000 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là
10.126.000 ha, tăng 556.000 ha so với năm 2000. Diện tích đất sản xuất nông
nghiệp không những không giảm mà còn cao hơn chỉ tiêu được giao. Đây là cố
gắng lớn của các địa phương trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển quỹ đất.
Riêng đất trồng lúa nước thời kỳ 2001-2010, chỉ tiêu Quốc hội duyệt cho phép
giảm 407.000 ha, kết quả thực hiện trong 10 năm chỉ giảm 270.000 ha. Như vậy,
nhìn chung diện tích lúa nước của cả nước vẫn đáp ứng yêu cầu an ninh lương
thực. Song tại một số địa phương tốc độ giảm diện tích đất trồng lúa tương đối
nhanh, như các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông
Cửu Long do chuyển sang xây dựng các khu công nghiệp và đô thị, hoặc chuyển
sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả...
Đất trồng lúa nước tuy có giảm nhưng năng suất lúa của Việt Nam vẫn tiếp tục
tăng từ 42,4 tạ/ha lên 53,2 tạ/ha, nên sản lượng lúa tăng từ 32,5 triệu tấn lên 38,9
triệu tấn. Bình quân đạt 460kg thóc/người/năm, tăng 41kg/người/năm so với năm
2000, đồng thời xuất khẩu gạo bình quân đạt từ 5-6 triệu tấn/năm.
Như vậy, công tác quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong 10
năm vừa qua ngày càng đi vào thực chất, góp phần tích cực vào việc sử dụng đất
nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng hợp lý và có hiệu quả rõ nét. Tuy
vậy, chất lượng dự báo nhu cầu quỹ đất cho phát triển các ngành, các lĩnh vực khi
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa sát thực tế, dẫn tới tình trạng vừa thiếu
lại vừa thừa quỹ đất.
Một số địa phương chưa thực hiện đúng chủ trương sử dụng tiết kiệm đất nông
nghiệp, nhất là đất trồng lúa nước, nên vẫn còn tình trạng quy hoạch sử dụng đất

phi nông nghiệp trên đất sản xuất nông nghiệp có năng suất cao, thậm chí trên đất
chuyên thâm canh lúa nước, trong khi ở địa phương vẫn còn nhiều quỹ đất khác.
Việc quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị nhiều nơi còn dàn
trải, có không ít địa phương tỷ lệ lấp đầy còn dưới 60% song vẫn đề nghị mở thêm


nhiều khu, cụm công nghiệp khác.
Công tác quản lý, thực hiện quy hoạch sử dụng đất sau khi phê duyệt tại nhiều địa
phương chưa được coi trọng trong khâu thực hiện; việc công khai quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất được duyệt còn mang tính hình thức, các quyền của người sử
dụng đất trong phạm vi quy hoạch ở nhiều nơi còn bị vi phạm, chẳng hạn như
không cấp Giấy chứng nhận, không được sửa chữa nhà cửa...gây nhiều bức xúc
cho người dân.
Nhiều nơi để cho dân ngang nhiên lấn chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất trái
phép không bị xử lý, gây khó khăn phức tạp và làm tăng chi phí bồi thường, giải
phóng mặt bằng khi thu hồi đất. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa thực sự nghiêm túc, đặt biệt là
việc quản lư, sử dụng đất theo các chỉ tiêu quy hoạch đã được phê duyệt.
Do đó, để tạo nên sự đột phá trong thực hiện Nghị quyết 26 của Trung ương về
“Tam nông”, việc đầu tiên là công tác quy hoạch sử dụng đất phải được coi là công
cụ quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện quyền định đoạt về đất đai; tạo
lập cơ sở pháp lý cho công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích
sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất; kể cả hỗ trợ điều tiết thị trường bất động sản.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên nhận định:
Hiện nay diện tích đất trồng lúa của cả nước có khoảng 4,1 triệu ha. Trong vòng 20
năm tới, nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và tạo đột phá trong xây
dựng kết cấu hạ tầng, đất trồng lúa sẽ tiếp tục phải chuyển sang mục đích phi nông
nghiệp ước khoảng 450-500 nghìn ha (nhất là các vùng đồng bằng). Bên cạnh đó,
để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trước mắt cũng như lâu dài, nước ta cần

phải duy trì ổn định quỹ đất trồng lúa khoảng 3,8 triệu ha.
Vì vậy, trong giai đoạn tới Nhà nước cần phải có các giải pháp đầu tư về thủy lợi
để có thể khai thác 250-300 nghìn ha đất chưa sử dụng cho mục đích trồng lúa, để
bổ sung diện tích đất lúa phải chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp; đồng
thời đẩy mạnh đầu tư thâm canh chuyển đổi cơ cấu giống lúa, nâng cao hệ số sử
dụng đất trồng lúa từ 1,82 lên 1,92 lần và đưa năng suất lúa đạt 62 tạ/ha. Phấn đấu
đến năm 2030, sản lượng lương thực của nước ta có thể đạt 46-49 triệu tấn, trong
đó có 43-44 triệu tấn lúa, bảo đảm đủ lương thực cho 110-115 triệu dân với mức
bình quân trên 350kg/người/năm.


Giải pháp hàng đầu về quy hoạch lại việc sử dụng đất đai góp phần phát triển “Tam
nông” bền vững, đó là Nhà nước cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách nhằm
khuyến khích các địa phương giữ đất trồng lúa nước; điều tiết phân bổ ngân sách
nhà nước đảm bảo lợi ích giữa các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp
với các địa phương “thuần nông”, nhất là những vùng thâm canh lúa. Mặt khác,
xây dựng các quy định pháp lý động viên được người dân trồng lúa, bằng cách
thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho người
trực tiếp làm ra lúa gạo, đảm bảo có lãi tương xứng với công sức người nông dân
đã đầu tư
Quy hoạch lại việc sử dụng đất nông nghiệp góp phần phát triển “Tam nông” bền
vững
(Mard-13/9/2011): Nghị quyết 26 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khóa X về Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn được đánh giá là toàn diện
nhất về vấn đề “Tam nông”. Song để tạo nên tính đột phá trong thực hiện Nghị
quyết quan trọng này, vấn đề cấp bách hiện nay là phải rà soát quy hoạch không
gian và chi tiết việc sử dụng đất đai trên phạm vi toàn quốc.
Nhất là dành đất cho sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa), để đảm bảo
an ninh lương thực bền vững và lâu dài.
Theo báo cáo kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thời kỳ 20012010 của Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường): Năm 2010 đất

nông nghiệp của cả nước có 26.226.000 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là
10.126.000 ha, tăng 556.000 ha so với năm 2000. Diện tích đất sản xuất nông
nghiệp không những không giảm mà còn cao hơn chỉ tiêu được giao. Đây là cố
gắng lớn của các địa phương trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển quỹ đất.
Riêng đất trồng lúa nước thời kỳ 2001-2010, chỉ tiêu Quốc hội duyệt cho phép
giảm 407.000 ha, kết quả thực hiện trong 10 năm chỉ giảm 270.000 ha. Như vậy,
nhìn chung diện tích lúa nước của cả nước vẫn đáp ứng yêu cầu an ninh lương
thực. Song tại một số địa phương tốc độ giảm diện tích đất trồng lúa tương đối
nhanh, như các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông
Cửu Long do chuyển sang xây dựng các khu công nghiệp và đô thị, hoặc chuyển
sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả...
Đất trồng lúa nước tuy có giảm nhưng năng suất lúa của Việt Nam vẫn tiếp tục
tăng từ 42,4 tạ/ha lên 53,2 tạ/ha, nên sản lượng lúa tăng từ 32,5 triệu tấn lên 38,9
triệu tấn. Bình quân đạt 460kg thóc/người/năm, tăng 41kg/người/năm so với năm
2000, đồng thời xuất khẩu gạo bình quân đạt từ 5-6 triệu tấn/năm.


Như vậy, công tác quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong 10
năm vừa qua ngày càng đi vào thực chất, góp phần tích cực vào việc sử dụng đất
nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng hợp lý và có hiệu quả rõ nét. Tuy
vậy, chất lượng dự báo nhu cầu quỹ đất cho phát triển các ngành, các lĩnh vực khi
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa sát thực tế, dẫn tới tình trạng vừa thiếu
lại vừa thừa quỹ đất.
Một số địa phương chưa thực hiện đúng chủ trương sử dụng tiết kiệm đất nông
nghiệp, nhất là đất trồng lúa nước, nên vẫn còn tình trạng quy hoạch sử dụng đất
phi nông nghiệp trên đất sản xuất nông nghiệp có năng suất cao, thậm chí trên đất
chuyên thâm canh lúa nước, trong khi ở địa phương vẫn còn nhiều quỹ đất khác.
Việc quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị nhiều nơi còn dàn
trải, có không ít địa phương tỷ lệ lấp đầy còn dưới 60% song vẫn đề nghị mở thêm
nhiều khu, cụm công nghiệp khác.

Công tác quản lý, thực hiện quy hoạch sử dụng đất sau khi phê duyệt tại nhiều địa
phương chưa được coi trọng trong khâu thực hiện; việc công khai quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất được duyệt còn mang tính hình thức, các quyền của người sử
dụng đất trong phạm vi quy hoạch ở nhiều nơi còn bị vi phạm, chẳng hạn như
không cấp Giấy chứng nhận, không được sửa chữa nhà cửa...gây nhiều bức xúc
cho người dân.
Nhiều nơi để cho dân ngang nhiên lấn chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất trái
phép không bị xử lý, gây khó khăn phức tạp và làm tăng chi phí bồi thường, giải
phóng mặt bằng khi thu hồi đất. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa thực sự nghiêm túc, đặt biệt là
việc quản lý, sử dụng đất theo các chỉ tiêu quy hoạch đã được phê duyệt.
Do đó, để tạo nên sự đột phá trong thực hiện Nghị quyết 26 của Trung ương về
“Tam nông”, việc đầu tiên là công tác quy hoạch sử dụng đất phải được coi là công
cụ quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện quyền định đoạt về đất đai; tạo
lập cơ sở pháp lý cho công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích
sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất; kể cả hỗ trợ điều tiết thị trường bất động sản.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên nhận định:
Hiện nay diện tích đất trồng lúa của cả nước có khoảng 4,1 triệu ha. Trong vòng 20
năm tới, nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và tạo đột phá trong xây
dựng kết cấu hạ tầng, đất trồng lúa sẽ tiếp tục phải chuyển sang mục đích phi nông
nghiệp ước khoảng 450-500 nghìn ha (nhất là các vùng đồng bằng). Bên cạnh đó,


để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trước mắt cũng như lâu dài, nước ta cần
phải duy trì ổn định quỹ đất trồng lúa khoảng 3,8 triệu ha.
Vì vậy, trong giai đoạn tới Nhà nước cần phải có các giải pháp đầu tư về thủy lợi
để có thể khai thác 250-300 nghìn ha đất chưa sử dụng cho mục đích trồng lúa, để
bổ sung diện tích đất lúa phải chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp; đồng
thời đẩy mạnh đầu tư thâm canh chuyển đổi cơ cấu giống lúa, nâng cao hệ số sử

dụng đất trồng lúa từ 1,82 lên 1,92 lần và đưa năng suất lúa đạt 62 tạ/ha. Phấn đấu
đến năm 2030, sản lượng lương thực của nước ta có thể đạt 46-49 triệu tấn, trong
đó có 43-44 triệu tấn lúa, bảo đảm đủ lương thực cho 110-115 triệu dân với mức
bình quân trên 350kg/người/năm.
Giải pháp hàng đầu về quy hoạch lại việc sử dụng đất đai góp phần phát triển “Tam
nông” bền vững, đó là Nhà nước cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách nhằm
khuyến khích các địa phương giữ đất trồng lúa nước; điều tiết phân bổ ngân sách
nhà nước đảm bảo lợi ích giữa các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp
với các địa phương “thuần nông”, nhất là những vùng thâm canh lúa. Mặt khác,
xây dựng các quy định pháp lý động viên được người dân trồng lúa, bằng cách
thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho người
trực tiếp làm ra lúa gạo, đảm bảo có lãi tương xứng với công sức người nông dân
đã đầu tư./.
Văn Hào



×