Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận môn Tâm lý học văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.76 KB, 21 trang )

3
MỞ ĐẦU
Tâm lý học văn hóa là một phân ngành còn rất non trẻ trong hệ thống các
phân ngành của khoa học tâm lý ở Việt Nam. Mặc dù vậy, Tâm lý học văn hóa
cũng đã nhanh chóng khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của mình trong sự
phát triển muôn màu của tâm lý học. Đặc biệt là những kết quả nghiên cứu về mối
quan hệ giữa văn hóa và sự phát triển tâm lý nhân cách con người Việt Nam; các
quy luật, quá trình tâm lý trong sáng tạo và tiếp nhận các giá trị văn hóa để góp
phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người phù hợp với trình độ
tiến hóa và văn minh đương đại.
Quá trình xã hội hóa nhân cách chính là quá trình chiếm lĩnh các giá trị, kinh
nghiệm xã hội lịch sử của cá nhân thông qua hoạt động và giao tiếp để hình thành
và phát triển nhân cách, trong đó việc chiếm lĩnh các giá trị văn hóa đóng vai trò
cốt lõi. Đây chính là cái để khẳng định vị thế xã hội của cá nhân trong quá trình
sống và hoạt động cùng nhau. Trong quá trình xã hội hóa nhân cách, yếu tố bản
năng và văn hóa luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, có thể coi nó như hai mặt
của một cặp phạm trù trong mối quan hệ biện chứng, thống nhất. Sự tác động qua
lại của hai yếu tố này tạo nên động lực thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển
nhân cách.
Để làm rõ mối quan hệ giữa bản năng và văn hóa trong quá trình xã hội hóa
nhân cách, tác giả lựa chọn vấn đề : “Mối quan hệ giữa bản năng và văn hóa
trong quá trình xã hội hóa nhân cách - vận dụng trong hình thành và phát triển
nhân cách quân nhân hiện nay” làm chủ đề viết tiểu luận.

NỘI DUNG


4
1- Mối quan hệ giữa bản năng và văn hóa trong quá trình xã hội hóa
nhân cách.
1.1. Mối quan hệ giữa bản năng và văn hóa


Các công trình nghiên cứu về tâm lý học và văn hóa học đã thống nhất và
thừa nhận: bản năng là cái "vốn có" gắn với sự sống, là cái tự nhiên, không phải là
văn hóa, con người cũng như con vật đều có, "văn hóa là sự chế ngự bản năng".
Con vật thì bản năng là cái thống trị, còn ở con người thì cái văn hóa là cái chủ
đạo, nó điều hòa bản năng và cơ chế xã hội. Nhưng vấn đề cần nghiên cứu là ở chỗ
văn hóa (xã hội) và bản năng có mối quan hệ với nhau như thế nào, chúng có
chuyển hóa cho nhau hay không và tác động như thế nào đến sự hình thành và phát
triển nhân cách.
Tâm lý học khẳng định con người có bản năng sinh vật và bản năng xã hội.
Bản năng hay phản xạ bản năng thường là phản xạ tự động từ hệ thần kinh thực vật
như đói thì thèm ăn, khát thì thèm uống. Bản năng này là bản năng sinh vật. Nhưng
các phản xạ này nếu thực hiện lặp đi, lặp lại nhiều lần một cách không đổi sẽ hình
thành nên thói quen. Trong đời sống xã hội thì thói quen do xã hội được tạo nên
mang tính rộng lớn, ở chiều sâu văn hóa xã hội và tác động lâu dài chính là tập tính
xã hội hay bản năng xã hội.
Bản năng sinh vật khác về chất so với bản năng xã hội, tuy nhiên giữa chúng
lại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bản năng xã hội lại bắt nguồn từ bản năng
sinh vật, chứ không phải từ số không hay hoàn toàn ở ngoài bản năng. Khi bàn về
vấn đề này, Mác cho rằng: bản năng quần xã của động vật dần dần qua lao động thì
tính xã hội xuất hiện ở loài người. Mác và Ăngghen cho rằng "bản năng xã hội là
một trong những đòn bẩy quan trọng nhất của sự phát triển của con người từ khỉ".
Bản năng xã hội đó dù là lao động hay tập tính quần xã thì nó là "vốn di truyền" đã
được xây dựng trong sự tiến hóa từ tổ tiên loài vượn lên loài người. Bản năng sinh
vật "bị thu hút và hội nhập vào bản năng xã hội" , tức là bản năng sinh vật bị xã hội
hóa nhưng nó không mất đi. Về mặt tâm lý, lao động cải tạo bản năng trên hai bình


5
diện: bình diện đè nén, kìm hãm bản năng và bình diện cải tạo bản năng thành
trạng thái mới về chất của hoạt động nhận thức thuần tuý của con người: trực giác.

Nhưng chỉ có bản năng xã hội mới thì con người có khả năng hướng về
tương lai, vượt khỏi giới hạn sinh vật, có khả năng thích nghi, sáng tạo ra cái bản
năng mới - thiên nhiên thứ hai, từ quá khứ, từ bản năng sinh vật nhưng cao hơn
bản năng sinh vật. Bản năng đó cố kết lại là bản sắc văn hóa dân tộc trong các tộc
người và thể hiện ở từng cá nhân. Cái tạo nên bản sắc đó, chi phối và cũng in dấu
vào bản sắc đó là ba nguyên lý không tách rời nhau: nguyên lý cùng cội nguồncùng dòng máu, nguyên lý cùng chỗ ở, sau cùng là nguyên lý cùng lợi ích (theo
GS.Trần Quốc Vượng).
Như thế thì bản năng văn hóa phát triển trên nền tảng bản năng sinh vật và
thực tiễn xã hội cũng như môi trường sống. Nói cách khác, bản năng xã hội nhập
vào bản năng sinh vật và nâng bản năng sinh vật lên bản năng người. Tất cả hai
loại bản năng sinh vật (con) và bản năng xã hội (người) đều là thuộc về bản chất
con -người, không thể tách rời được. Chính GS Trần Đức Thảo, khi nói về bản chất
hàng 1 (sinh vật) và bản chất hàng 2 (xã hội) ở con người là cũng với nhận thức
như thế nhưng nhìn theo phương pháp cấu trúc trên dưới trong quá trình tiến hóa
bản chất con người như tiến hóa địa chất.
Bản năng xã hội của con người là dựa trên những phản xạ có điều kiện,
nhưng nó được mã hóa vào gen văn hóa (di truyền) hay thậm chí ảnh hưởng thành
thói quen trong gen tự nhiên sinh học. Ví dụ như ý thức, lao động, ngôn ngữ, giao
tiếp… là bản năng xã hội. Bản năng xã hội là bản năng do tác động bên ngoài tạo
nên, thành phản xạ tự nhiên của cơ thể. Nhưng bản năng xã hội vẫn là bản năng
sinh học nhưng là có thức (ý thức về ăn uống, tình dục). Không có bản năng sinh
vật thì không có bản năng xã hội. Nhưng bản năng xã hội, tức bản năng có ý thức
không đồng nhất với phản xạ có điều kiện. Vô thức sinh vật hoạt động không cần
phản xạ có điều kiện. Vô thức tinh thần là vừa mang tính bản năng sinh vật vừa
mang tính bản năng xã hội.


6
Bản năng sinh vật và bản năng xã hội trong con người, loài người không
hoàn toàn tách biệt và cũng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Không có bản năng xã hội,

về cơ bản, tách rời bản năng người, bên ngoài bản năng sinh vật, trên cơ thể, cơ
năng từ cơ thể. Con người bao giờ cũng mang theo bản năng, bản năng tồn tại
trong con người, từ bản năng sinh vật thuần tuý, nó trở thành bản năng người khi
thông qua môi trường xã hội, môi trường văn hóa trong hoạt động của con người.
Cũng như vậy, không có hoạt động người lại phi sinh vật, phi cơ thể và cơ năng
của nó. Không thể nó tiêu diệt bản năng sinh vật mà là hạn chế bản năng mà thôi.
Cho nên nói văn hóa là sự chế ngự, điều khiển bản năng.
Bản năng là cái di truyền, cái không di truyền là không phải bản năng. Lao
động là bản năng xã hội, nó di truyền qua cả cơ thể sinh học và môi trường văn hóa.
Nhưng khi con người mất một trong hai cơ sở đó thì nó thoái hóa, mất đi khả năng
lao động. Đứa trẻ sinh ra nhưng không may rơi vào sống cảnh rừng hoang cùng loài
thú thì nó trở lại bản năng sinh vật, khi trở về môi trường xã hội khó trở lại thành
người, hoặc ở trong gia đình, trong cộng đồng nhưng cơ chế sinh học tâm thần bị
trục trặc (bệnh tâm thần phân liệt chẳng hạn) thì cũng khó nên người. Bản năng tính
dục của con người cũng mất dần theo tuổi già (cơ chế sinh học bị lão hóa). Cơ chế
văn hóa xã hội và bản năng văn hóa cũng có khi bị trục trặc, khủng hoảng, lão hóa,
gây ra những cú xốc xã hội. Phải dần dần mới ổn định, phát triển theo cái mới dưới
tác động của bản năng có ý thức. Đổi mới tư duy, cải cách hay cách mạng xã hội là
vượt qua thời kỳ rối loạn ấy, khắc phục cái bản năng sinh vật và vô thức cộng đồng.
Như vậy, là cần hiểu cho rõ bản chất, đặc điểm và các biểu hiện, loại hình của
bản năng với tính đa dạng của nó và cái trung gian giữa bản năng và văn hóa, nhân
cách. Con người có bản chất (bản năng) vốn có là thiện hay là ác hay không ác cũng
không thiện, hay vừa thiện vừa ác? Thiện ác là bản năng sinh vật hay bản năng xã
hội? Bản năng dù là cái vốn có cũng được sinh ra từ quan hệ với cái khác của nó mà
sinh ra chứ không phải hoàn toàn "tiên thiên".
Nhiều tôn giáo chỉ thấy mặt xấu của bản năng (ác), cố giải thoát khỏi bản
năng, nhưng đó là một phần đời nếu không có nó sẽ còn gì bàn về đạo (thiện)?


7

Không có bản năng con người không thể tồn tại. Tuy rằng, bản năng có thể (khả
năng) hạ thấp con người xuống hàng động vật, vì nó cũng vốn có như bản năng động
vật. Nhưng chính thông qua xã hội con người đã nâng bản năng động vật lên hàng bản
năng người, nhân cách con người từ đó mà hình thành, phát triển hoàn thiện.
Bản năng nào có ý thức và nhằm vào thoả mãn theo hướng Chân - Thiện Mỹ thì mới là bản năng văn hóa (hành động theo qui luật của cái đẹp). Bản năng
thỏa mãn nhu cầu sinh dục của con người có cả mặt sinh vật và có cả mặt văn hóa,
tuỳ quan hệ mà nó xuất hiện ở mặt nào là chính. Như vậy, bản năng sinh vật và bản
năng xã hội là trung tính, tuỳ theo giới hạn, phạm vị và tính chất xã hội cụ thể mà
nó là bản năng xấu hay bản năng tốt có tính văn hóa hay không? Lòng vị kỷ, ham
muốn quyền lực, sắc dục, của cải cũng có sẵn ở con người như hành vi bản năng.
Nhưng tham lam, cá nhân vị kỷ chỉ vì mình mà hại người khác, xâm phạm lợi ích
người khác là trở thành hành vi xấu. Hồ Chí Minh khuyên cán bộ "ít ham muốn vật
chất" chứ không phải khuyên bỏ ham muốn vật chất. Rằng, tiền tài, sắc dục không
chuyển lay, quyền uy không khuất phục… mới nên anh hùng. Phật cho rằng tham
là một cội nguồn của bể khổ. Nhưng, nếu tiêu diệt (triệt tiêu hết) nhục dục, xóa bỏ
lòng ham muốn thì không tưởng và rơi vào chủ nghĩa thầy tu, khổ hạnh, còn chống
(hạn chế) tham lam, ích kỷ là hành vi có văn hóa, có đạo đức. Hồ Chí Minh, riêng
về bản thân thì Người không ham tiền tài, địa vị mà chỉ có một lòng ham muốn:
ham học, ham làm, ham hiểu biết, ham muốn dân tộc độc lập tự do, ai cũng được
học hành, có cơm ăm áo mặc, tiến bộ, dân giàu nước mạnh, người người hạnh
phúc, sống trong nhân ái, hoà bình và hữu nghị… Đó là bản năng văn hóa, tinh hoa
văn hóa Hồ Chí Minh.
Bản năng và văn hóa hay bản năng và nhân cách có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Không nên hiểu sự chuyển hóa nói trên một cách đơn giản, thông thường kiểu
lôgíc hình thức mà phải bằng tư duy biện chứng… Chuyển hóa biện chứng là sự
xâm nhập lẫn nhau giữa hai mặt đối lập, cái này thành cái kia và ngược lại, khi có
những điều kiện nhất định. Từ đó, ta nhận thấy bản năng và văn hóa là một cặp


8

phạm trù, một mâu thuẫn biện chứng vì chúng làm tiền đề cho nhau, xâm nhập lẫn
nhau, cái nọ thành cái kia và ngược lại.
Nhưng chúng ta cũng lại thấy chính trong quá trình tiến hóa, tha hóa và phát
triển bản chất của con người là xã hội hóa bản năng, văn hóa hóa bản năng, nhân
tính hóa bản năng, nhân cách hóa bản năng để thành người ngày càng trọn vẹn.
Một thanh niên bình thường, có nhân cách, song đã rơi vào vũng bùn ma tuý hay
phạm tội là suy thoái hay tha hóa nhân cách thành hành vi thú tính, tức bản năng
sinh vật. Nhưng nếu họ được cải tạo, được giáo dục để phục hồi nhân cách và nhân
tính thì cũng là chuyển từ bản năng sang văn hóa sang nhân cách.
Mối quan hệ chuyển hóa này thể hiện quan hệ giữa bản năng sinh vật và bản
năng xã hội, giữa bản năng và văn hóa, giữa con vật và con người. Trong con
người thì giữa con và người (con người bản năng và con người xã hội - con người
văn hóa) là có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình hiện thực hóa, tiến hóa bản
chất người. Nhưng đó không phải là hai vật mà là cái này lấy cái kia làm tiền đề.
Con chưa phải là người nhưng không có con thì không có con - người, trên cơ sở
con mới nên người. Nhưng phải thông qua lao động và đấu tranh mới có sự chuyển
hóa ấy. Không ở trong môi trường xã hội, không học tập và rèn luyện, không lao
động và đấu tranh vì tình thương và lẽ phải thì người lại thành con! Xu hướng chủ
đạo, phổ biến, mạnh hơn là văn hóa hóa bản năng, là con thành con người nhưng
không coi thường luật tiến hóa không phải là một đường thẳng tuyến tính mà là
một mâu thuẫn, bao hàm cả sự giật lùi: có khi bản năng thắng văn hóa. Nhưng
không chỉ có mặt đó mà có cả cái văn hóa xâm nhập vào bản năng sinh vật, ghi vào
bản năng sinh vật (trong xã hội thì thành tập quán, vô thức cộng đồng) để trở thành
bản năng văn hóa (bản sắc văn hóa = hệ thống giá trị = gen văn hóa = di truyền văn
hóa). Khi nói bản năng văn hóa thì ở đây là đồng nhất bản năng và văn hóa, không
còn phân biệt, chúng chuyển hóa lẫn nhau đi đến đồng nhất (hai = một, một = hai).
Nếu hiểu nhân cách chỉ là cái bên ngoài con người, tức môi trường xã hội chuyển
hóa vào con người (con người là sản phẩm của hoàn cảnh) mà không hiểu bản



9
năng, sự kết hợp cả hoàn cảnh và bản năng trong hoạt động của con người thì
không thể hiểu được sự hình thành con người và nhân cách con người.
Chính trên cơ sở bản năng sinh vật và bản năng xã hội (văn hóa), hình thành
nhu cầu sinh vật và nhu cầu xã hội (văn hóa) trong quá trình đáp ứng, thỏa mãn
nhu cầu - động cơ thúc đẩy hành động cũng chính là quá trình hình thành nên nhân
cách. Quá trình hình thành nhân cách cũng chính là quá trình văn hóa làm chủ bản
năng - văn hóa hóa bản năng ở từng con người với tư cách là chủ thể ý thức về bản
thân mình trong quan hệ với xã hội, với người khác. Với ý nghĩa đó, những bản
năng biến thành nhân cách thông qua các khâu trung gian và điều kiện mà chuyển
hóa. Nhưng nhân cách đã hình thành không phải là bất biến mà nếu thiếu những
điều kiện nào đó (môi trường tốt và sự rèn luyện bản thân…) thì nhân cách sẽ bị
thoái hóa, tha hóa, mất nhân cách, và như thế nhân cách trở lại bản năng, biến
thành bản năng. Dù xu hướng chính là bản năng chuyển hóa thành nhân cách là
chính, phổ biến, chủ đạo nhưng không nên mất cảnh giác với khả năng nhân cách
cũng có thể bị mất, trở về đời sống bản năng, từ đó mất tính người khi bản năng
sinh vật hoàn toàn thống trị.
Khi không nhận thấy và quan tâm chiều sâu sự chuyển hóa biện chứng cả hai
chiều nói trên, khi hiểu một chiều bản năng và văn hóa là hai cái hoàn toàn khác
nhau, xa lạ với nhau, hoặc chỉ thấy một chiều xấu, tốt, sẽ thiếu công cụ phương
pháp luận biện chứng khi phân tích sự tồn tại bản chất người và các sự chuyển hóa
bản chất người cụ thể: sự hoàn thiện nhân cách hoặc sự tha hóa nhân cách, văn hóa
và phản văn hóa.
1.2. Quá trình xã hội hóa nhân cách.
Xã hội hoá nhân cách được coi là quá trình làm chuyển biến con người từ
thực thể sinh học thành thực thể xã hội, quá trình hội nhập của cá nhân vào đời
sống xã hội. Đó là quá trình hình thành các giá trị nhân cách, trong đó xảy ra sự cọ
sát và thích ứng của cá nhân với các giá trị, chuẩn mực và các khuôn mẫu hành vi
xã hội, qua đó cá nhân duy trì được khả năng hoạt động xã hội. Trong quá trình xã
hội hoá sự tác động của xã hội lên cá nhân, nhất là sự tác động có định hướng, có



10
hoạch định (thường được coi là giáo dục) và ngược lại là sự tác động của cá nhân
đối với xã hội liên tục được thực hiện. Chính vì vậy, xã hội hoá nhân cách được thể
hiện như một trong những mối quan hệ cơ bản nhất của xã hội: đó là mối quan hệ
giữa con người và xã hội.
Con người khi sinh ra như một tờ giấy trắng, do ảnh hưởng của môi trường
sống và do sự phấn đấu, rèn luyện của mỗi cá nhân mà hình thành những con
người thiện, ác khác nhau. Chính sự tác động, sự giáo dục của xã hội cùng với khả
năng và sự tiếp nhận của mỗi cá nhân (thông qua hoạt động và giao tiếp) đối với sự
tác động đó đã làm nên bản chất thiện, ác của mỗi con người trong xã hội. Đó là
quá trình tương tác qua lại liên tục giữa một bên là xã hội và một bên là cá nhân.
Sự tác động của xã hội giữ vai trò chủ đạo, cá nhân đóng vai trò quyết định đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của chính bản thân mình.
Xã hội hoá nhân cách là quá trình tác động đa chiều trong sự học hỏi lẫn
nhau. Đó là mối quan hệ tương tác qua lại giữa cá nhân với xã hội thông qua hoạt
động và giao tiếp. Cá nhân tác động đến người khác và có thể học hỏi ở tất cả
những người khác, đến lượt mình, người khác lại tác động đến cá nhân qua hành vi
và cách ứng xử của mình. Vì vậy, trong giáo dục xã hội hoá nhân cách, thế hệ đi
trước không những chỉ dạy bảo, chỉ dẫn, mà luôn luôn phải thể hiện như một tấm
gương tốt để thế hệ đi sau bắt chước và học tập.
Xã hội hoá nhân cách là một quá trình diễn ra thường xuyên liên tục trong
suốt cuộc đời của một con người. Điều này có nghĩa là trong cuộc sống, chúng ta
phải liên tục học tập, thường xuyên trau dồi kiến thức, để bắt kịp với sự phát triển
của xã hội. Một nhân cách có thể coi là hình mẫu của ngày hôm nay, chưa chắc đã
là hình mẫu của ngày mai sau. Quá trình tha hóa nhân cách về với cái bản năng sẽ
làm mất các giá trị của nhân cách. Do đó, nhân cách con người phải luôn luôn
được tích lũy, được xã hội hóa cái bản năng sinh vật thành bản năng xã hội, bản
năng văn hóa người.

Xã hội hóa nhân cách chịu sự quy định bởi môi trường xã hội. Môi trường xã
hội hoá nhân cách là nơi mà cá nhân có thể thực hiện các mối quan hệ xã hội thông


11
qua hoạt động và giao tiếp, nhằm tiếp thu, lĩnh hội và tái tạo những kinh nghiệm xã
hội. Môi trường xã hội hoá cho các khả năng khác nhau để kinh nghiệm xã hội đến
với cá nhân và chấp nhận sự hoà nhập xã hội của cá nhân. Người ta cũng đã nói nhiều
đến các loại môi trường xã hội hoá theo các các nhóm xã hội mà trong đó cá nhân
thực hiện các hoạt động sống của mình. Theo đó, các môi trường xã hội hoá quan
trọng với cá nhân là: gia đình, nhà trường và các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã
hội, các nhóm sở thích v.v...
1.3. Sự tha hóa và khủng hoảng nhân cách.
Khi chuyển sang phát triển theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và mở cửa hội nhập, nước ta quả là có một bước dài tiến bộ về kinh tế xã hội và
phát triển con người. Nhưng cũng đã đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, nhất là vấn
đề tha hóa, khủng hoảng nhân cách trên nhiều phương diện liên quan tới quan hệ giữa
bản năng và văn hóa trong từng môi trường xã hội.
Khái niệm tha hóa trong đạo đức - lối sống
Trước đây, khái niệm tha hóa, như Phơbách nói, thì chỉ có ý nghĩa trong tôn
giáo, tức tôn giáo là sự tha hóa bản chất con người thành bản chất thần thánh, cuộc
sống trần gian bị tha hóa thành cuộc sống thiên đường hư ảo.
Hoặc khi Các Mác phân tích trên phương diện kinh tế thì tha hóa là chỉ chế
độ bóc lột lao động làm thuê, người công nhân làm ra sản phẩm và giá trị thặng dư
nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Tha hóa như thế có hai mặt, mặt xấu phản lại bản chất tốt đẹp của con người.
Nhưng theo một ý nghĩa nhất định, sự tha hóa ấy là khách quan thì có mặt tốt, hợp
lý, có vai trò tiến bộ. Ví như khi quan hệ sản xuất còn phù hợp với lực lượng sản
xuất thì bóc lột là động lực của sự phát triển kinh tế. Hoặc về bản chất, tôn giáo
vẫn có mặt đạo đức phù hợp với bản chất của con người và đạo đức xã hội chủ

nghĩa hiện nay.
Tuy nhiên, hiện nay khi ta dùng khái niệm tha hóa trong lĩnh vực đạo đức =
tha hóa đạo đức, lối sống thì hoàn toàn theo nghĩa tiêu cực. Tha hóa đạo đức cũng
là thoái hóa về phẩm chất người nhưng ở lĩnh vực xã hội, lối sống. Đó là khi chúng


12
ta nói về những con người từ có đạo đức trở nên tha hóa nhân cách, tức từ khủng
hoảng nhân cách, sai lệch nhân cách đến thoái hóa nhân cách. Chẳng hạn, những
người tham nhũng, hay những người nghiện ngập ma tuý, hoặc những người buôn
lậu, những kẻ kiếm sống, làm giàu bằng bạo lực, giết người cướp của… Sư tha hóa
này chủ yếu tha hóa về giá trị sống, lý tưởng sống, các phẩm chất đạo đức và lý trí.
Từ lối sống và nhân cách người chuyển hóa lại lối sống bản năng tầm thường,
thậm chí thành kẻ chống lại cộng đồng, chống lại, phá hoại chính loài của mình và
cuối cùng là cả chính bản thân mình.
Khủng hoảng nhân cách hay lệch lạc nhân cách, loạn nhân cách là chỉ trạng
thái mâu thuẫn đang có xu hướng chuyển thành tha hóa nhân cách. Một số người
như nghiện ngập ma tuý, mại dâm…thì ở mức loạn nhân cách, lệch nhân cách và
nếu không được ngăn chặn, chữa trị sẽ tha hoá nhân cách.
Sau đây là một số loại tha hóa cụ thể trong lĩnh vực xã hội và lối sống.
Trên lĩnh vực tệ nạn xã hội:
- Tha hóa và khủng hoảng trầm trọng nhân cách do nghiện ngập ma tuý. Số
nghiện ngập đa số là thanh thiếu niên. Số nghiện nhập thì ngày một gia tăng, số tái
nghiện sau cai là khá cao (80%-90%).
Đây là số người bị tổn thương nặng nề về não, thần kinh, tâm thần, tạo nên sự
lệch nhân cách, khủng hoảng nhân cách, mà muốn phục hồi phải lâu dài. Nếu không
ngăm chặc được sẽ làm hỏng một thế hệ và khủng khoảng bao nhiêu gia đình.
- Thực trạng mại dâm cũng là tệ nạn nhức nhối không những lây nhiễm các
căn bệnh thế kỷ mà còn tạo nên mất nhân cách trong lĩnh vực lối sống hôn nhân và
tình cảm gia đình, lòng chung thuỷ. Số mại dâm cũng rất nhiều ở giới trẻ. Nhiều

gia đình tan nát cũng từ đây.
- Trộm cướp , giết người, cũng là một căn bệnh đang gai tăng, qua đó ta thấy
một bộ phận thanh thiếu niên đã mất dần nhân tính. Có thể do nhiều nguyên nhân
nhưng trong đó có nguyên nhân ma tuý, mại dâm, cờ bạc.
Trên lĩnh vực kinh tế xã hội và chính trị xã hội:


13
-Tệ buôn lậu, kiếm tiền bất cứ giá nào, hễ lợi nhuận cao là lao vào như thiêu
thân. Trong buôn lậu, thì trầm trọng nhất là buôn bán ma tuý, buôn người.
- Tham nhũng - một loại bệnh trầm trọng mà những người vướng vào cũng
đã biểu hiện tha hóa nhân cách đến cực độ.
- Tệ quan liêu, hành dân, xa dân, không quan tâm đến cuộc sống của người
dân của không ít đội ngũ cán bộ chính quyền.
- Lãng phí tài sản của quốc gia, sống xa hoa, vung tiền qua cửa sổ không đốt
thương tiếc.
Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị:
- Tha hóa về lý tưởng, giao động lập trường tư tưởng về chủ nghĩa xã hội.
- Mất niềm tin ở chủ nghĩa xã hội, ở Đảng và chế độ ta;
- Một chiều ca ngợi chủ nghĩa tư bản, tô hồng con đường cải lương "xã hội
dân chủ".
Trên lĩnh vực văn hóa:
-Tệ mua bán bằng cấp,
- Tệ ăn cắp bản quyền;
- Tuyên truyền văn hóa phẩm độc hại.
- Cá độ bóng đá, cờ bạc…
Như vậy, sự khủng hoảng nhân cách con người Việt Nam hiện nay diễn ra rất
đa dạng, trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta có thể nhận biết sự khủng hoảng đó trên
một số dẫu hiệu như:
1- Kiếm tiền bất cứ giá nào; bị kích động sống theo bản năng, thú tính. Tức

là rơi vào trạng thái mà Phật bảo tham, sân -si, tức là trở lại nhau cầu do bản năng
chi phối là chính, vượt quá mức bình thường.
2- Khủng hoảng giá trị sống; mất cả lý trí lành mạnh, thậm chí có trường hợp
mất cả sức khỏe, tính mạng. Do vậy mà không thích lao động, không lo học tập rèn
luyện, chỉ thích ăn chơi, tham tiền, tham địa vị, tham gái, tham hưởng lạc. Sống chỉ
biết mình, cái tôi là tất cả, không coi ai ra gì. Đó là điều cực kỳ xâu xa mà có khi ta
sử dụng khái niệm chủ nghĩa cá nhân để chỉ bản chất ích kỷ đo.


14
* Nguyên nhân sâu xa, chung cho tất cả các dạng tha hóa và khủng hoảng
nhân cách hiện nay:
1- Tác động mặt trái kinh tế thị trường và hội nhập, lối sống ích kỷ, thực dụng;
2- Những thói hư tật xấu của xã hội cũ trỗi dậy;
3- Cách thức quản lý xã hội và giáo dục có vấn đề, tức trở nên lỗi thời, hoặc
không thích hợp, nhiều kẻ hở;
4- Gia đình và tổ chức xã hội không có quan niệm sống đúng đắn, sống thực
dụng, lười lao động, ham ăn chơi, coi tiền bạc cao hơn nhân phẩm, trụy lạc, cờ bạc,
thiếu tình nghĩa.
5- Việc rèn luyện nhân cách trong môi trường xã hội và gia đình của mổi
người kém, nên bản năng thắng nhân cách.
Tuy vậy, không nên hiểu đơn giản về các nhân tố tác động gây nên sự tha
hóa nhân cách, dù hình thức tha hóa nào mà ở từng hình thức tha hóa có thể có
nguyên nhân chủ yếu nào đó. Vấn đề có tính qui luật nhân quả là bản năng- môi
trường và nhân cách. Môi trường tốt thì con người dễ tốt, môi trường xấu thì con
người dễ lây cái xấu, cái ác, "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng"; "đi với ma thì
mắc áo giấy", "ở với ống thì tròn, ở với bầu thì dài". Vì con người và môi trường là
một hệ sinh thì như cá với nước như không khi với sinh vật. Sự tương tác, chuyển
hóa và tác động qua lại như thế là có phần khó tránh khỏi. Môi trường gia đình mà
cha mẹ bất hạnh thì người con cũng bất hạnh.

Nhưng con người là động vật làm nên lịch sử của mình, biết cải tạo hoàn
cảnh cho hợp với tính người, nó là một động vật khôn ngoan, có lý trí, sáng suốt và
cũng là một động vật có tính hợp quần, tính nhân văn, biết sống vì người khác.
Cho nên "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Con người có bản năng nhưng bản
năng đó không thuần tuý động vật, tự nhiên mà luôn luôn bị xã hội hóa, được xã
hội hóa, văn hóa hóa. Nên văn hóa là chế ngự bản năng, thắng bản năng. Phát huy
bản chất, năng lực người như thế là nhân tính, là văn hóa, là nhân cách.
Tác hại của sự tha hóa về đạo đức, chính trị, tư tưởng, nói chúng là tha hóa
nhân cách là rất lớn:


15
Sự tha hóa đạo đức lối sống, tha hóa nhân cách hiện nay không chỉ gây nên
tác hại về kinh tế xã hội mà cả về văn hóa, về con người không chỉ trước mắt mà
còn lâu dài.
Sự tha hóa còn gia tăng ở mặt này, hay mặt khác, mức độ này hay mức độ
khác. Vì mặt trái của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa còn lớn theo tiến trình phát
triển; đồng thời thói hư tật xấu xã hội còn đất sống. Nhưng nếu chúng ta chủ động
thay đổi, tìm các giải pháp về kinh tế xã hội, tư tưởng, giải pháp tổ chức, thể chế…
đúng, trúng thì có thể giảm thiểu tác hại và mức độ của nó. Tất nhiên, tuỳ theo
từng đối tượng, từng hoàn cảnh và từng mức độ mà chúng ta có giải pháp thích
hợp. Có như thế thì mới phòng, chống và ngăn chặn được sự tha hóa nhân cách, lối
sống, tha hóa đạo đức, tha hóa tư tưởng trong xã hội ta hiện nay..
2. Vận dụng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách quân nhân
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
2.1. Đặc điểm nhân cách quân nhân hiện nay.
Trước hết, có thể khẳng định quân nhân là những nhân cách đã và đang
trưởng thành. Họ đã có sự phát triển khá hoàn thiện về mặt thể chất, nhưng phần
lớn số họ còn chưa ổn định về mặt nhân cách. Đây là một đặc điểm gắn liền với
đặc trưng tâm lí của lứa tuổi thanh niên. Hiện nay phần lớn quân nhân thuộc lứa

tuổi này. Họ thường tỏ ra nhạy cảm với cái mới, sôi nổi, nhiệt tình, có quyết tâm
cao nhưng còn thiếu chín chắn, khă năng tự kiềm chế kém và chưa biết chọn lọc
khi tiếp thu, lĩnh hội... Chính vì vậy mà đời sống tâm lí, tinh thần của quân nhân
biến động nhanh, đồng thời với nó một số thuộc tính tâm lí nhân cách chưa hoàn
toàn định hình. Thông thường người ta thấy xu hướng nhân cách của chiến sĩ và sĩ
quan trẻ biểu hiện chưa rõ nét, một số nét tính cách thiếu ổn định, năng lực chuyên
môn còn đang hình thành. Do đó, việc giáo dục, rèn luyện nhân cách quân nhân,
nhất là chiến sĩ và sĩ quan trẻ cần phải đặc biệt coi trọng.
Hiện nay đất nước ta cư dân làm nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao, điều đó
dẫn đến chỗ quân nhân xuất thân từ gia đình nông dân cũng chiếm một số lượng
lớn trong quân đội. Vì vậy, nhân cách quân nhân mang khá nhiều dấu ấn tâm lý


16
của giai cấp nông dân. Những kết quả nghiên cứu gần đây đã xác định quân nhân
hiện nay mang nhiều đức tính tích cực của nông dân Việt Nam như : Sự cần cù
trong lao động, sự chân thành, thật thà, mộc mạc, chất phác trong quan hệ, sự
khiêm tốn, giản dị trong lối sống. Mặt khác, trong nhân cách của họ cũng ít nhiều
rơi rớt những nét tiêu cực của tâm lí nông dân. Đó là, tư tưởng đẳng cấp; gia
trưởng; thiếu dân chủ, tính thiển cận; dễ bị hấp dẫn bởi những lợi ích trước mắt, bộ
phận; dễ thoả mãn dừng lại; tư tưởng cục bộ địa phương; sự tuỳ tiện, vô nguyên
tắc.... Những nét tâm lí tiêu cực vừa kể trên thường có ảnh hưởng bất lợi tới hiệu
quả hoạt động của quân nhân trong quá trình phục vụ quân đội.
Trong điều kiện xây dựng quân đội thời bình, phần lớn thanh niên gia nhập
quân đội có trình độ học vấn khá. Đây là một trong những đặc điểm của nhân cách
quân nhân hiện nay mà người làm công tác giáo dục, rèn luyện quân nhân phải hết
sức chú ý. Bởi vì, trình độ học vấn cao của quân nhân vừa tạo điều kiện cho mỗi
cán bộ, chiến sĩ tiếp thu tốt những tác động giáo dục, đồng thời nó cũng đòi hỏi sự
cố gắng của đội ngũ cán bộ chỉ huy, lãnh đạo tìm tòi, lựa chọn nội dung và phương
pháp giáo dục bộ đội phù hợp với trình độ phát triển của đối tượng tác động.

Nhân cách người quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng mang
những đặc điểm chung của nhân cách người Việt Nam, đồng thời có những nét đặc
thù, khác biệt so với nhân cách của những người thuộc các nhóm xã hội khác, biểu
hiện ở hành vi ứng xử và giao tiếp xã hội của mỗi người. Cùng một khung cảnh xã
hội mà ở mỗi quân nhân có cách thức ứng xử riêng, với sự phù hợp giá trị, chuẩn
mực văn hóa ở các mức độ khác nhau. Xã hội hóa nhân cách phụ thuộc lứa tuổi,
giới tính, nghề nghiệp, thành phần xuất thân, nơi cư trú, trình độ học vấn,... của
mỗi con người. Với mỗi quân nhân, học hỏi xã hội là một nhu cầu tự thân để sống
và tồn tại trong xã hội; đồng thời, họ cũng luôn tự vạch ra tiến trình, đặt ra mục
tiêu học hỏi xã hội để tự hoàn thiện nhân cách. Với xã hội và cộng đồng, sự tác
động của xã hội đến mỗi con người diễn ra một cách tự nhiên, nhưng yếu tố quan
trọng thuộc về tác động có mục đích của giáo dục. Giáo dục là hoạt động giữ vai
trò chủ đạo trong xã hội hóa nhân cách. Hoạt động giáo dục diễn ra thường xuyên,


17
từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Gia đình - nhà trường - xã hội (trong đó có tập
thể quân nhân), là ba nhân tố giữ vai trò quan trọng nhất trong giáo dục - xã hội
hóa nhân cách quân nhân.
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận và con đường, biện pháp cơ bản trong hình thành
và phát triển nhân cách quân nhân hiện nay.
Qua nghiên cứu quá trình xã hội hóa nhân cách, có thể chỉ ra những ý nghĩa
về mặt phương pháp luận đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách quân
nhân trên những hướng cơ bản như sau:
Thứ nhất, nhân cách người Quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam
cũng mang những đặc điểm chung của nhân cách người Việt Nam. Do đó quá trình
xã hội hóa nhân cách quân nhân cũng chính là quá trình rèn luyện, phát triển nhân
cách quân nhân, quá trình này cũng được thực hiện thông qua hoạt động và giao
tiếp. Bên cạnh những đặc điểm chung, quá trình xã hội hóa nhân cách quân nhân
cũng có những nét đặc thù so với quá trình xã hội hóa ở các nhóm xã hội khác do

tính đặc thù về lĩnh vực hoạt động quân sự. Ở đây, quá trình xã hội hóa cũng diễn
ra ở cả 3 môi trường: gia đình, nhà trường quân sự (hay tập thể quân nhân) và xã
hội. Song chiếm vai trò lớn nhất là môi trường tập thể quân nhân. Chính việc rèn
luyện ở trong môi trường này mà nhân cách người quân nhân được hình thành và
phát triển. Vì vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình, nhà trường (tập thể
quân nhân) và xã hội vẫn là một nguyên tắc không thể thay đổi.
Thứ hai, vai trò quyết định trực tiếp trong quá trình xã hội hóa nhân cách
quân nhân vẫn là ở tính chủ thể của mỗi quân nhân. Vì vậy, phải phát huy tính chủ
động, tự giác, tích cực của quân nhân trong quá trình giáo dục, rèn luyện và phát
triển nhân cách.
Thứ ba, tác động từ môi trường chiếm vai trò chủ đạo trong quá trình xã hội
hóa nhân cách quân nhân (được thể hiện rõ nhất thông qua giáo dục ở cả 3 môi
trường). Vì vậy, nhà giáo dục cần xác định rõ mô hình nhân cách quân nhân và đề
ra những nội dung, phương pháp, cách thức khoa học, phù hợp để điều khiển quá
trình giáo dục, phát triển nhân cách quân nhân.


18
Xuất phát từ những những cơ sở phương pháp luận được rút ra ở trên, có thể
xác định và chỉ ra những con đường, biện pháp cơ bản trong giáo dục, rèn luyện,
hình thành và phát triển nhân cách quân nhân như sau:
Thứ nhất là: Tăng cường các tác động xã hội tích cực đối với quân nhân
thông qua mở rộng quan hệ xã hội kết hợp với củng cố các tập th quân nhân vững
mạnh . Đây là một biện pháp hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục, rèn luyện
nhân cách. Bởi vì, nhân cách con người là sản phẩm của điều kiện xã hội - lịch sử,
khi con người được sống trong môi trường xã hội lành mạnh và chịu ảnh hưởng,
tác động tích cực từ những người xung quanh, từ tập thể thì nhân cách của họ sẽ
phát triển tốt.
Việc tăng cường các tác động tích cực tới quân nhân không thể tách rời với
sự mở rộng các quan hệ xã hội cụ thể của họ. Thành ngữ có câu : “Đi một ngày

đàng, học một sàng khôn” chính là một sự thừa nhận tác dụng tốt của việc mở rộng
phạm vi giao lưu của con người. Nhưng để quân nhân có được những mối quan hệ
xã hội tích cực trong một phạm vi tương đối rộng thì điều hết sức quan trọng là
phải tăng cường các hoạt động chung giữa bộ đội và nhân dân, cũng như giữa các
đơn vị quân đội với nhau. Bởi vì hoạt động chung giữa các cá nhân là một điều
kiện thuận lợi để họ hiểu biết, thông cảm và có đòi hỏi lẫn nhau, từ đó nảy sinh
quan hệ qua lại.
Tuy nhiên, việc mở rộng các quan hệ của quân nhân với những người
xung quanh sẽ đưa đến sự gia tăng không chỉ những tác động tích cực, mà cả
những tác động tiêu cực từ phía đời sống xã hội đến với họ. Vì thế, để tạo môi
trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách quân nhân, thì điều
hết sức quan trọng là phải xây dựng tập thể cơ sở quân nhân vững mạnh, đủ sức
ngăn chặn ảnh hưởng của những nhân tố tiêu cực trong xã hội đối với từng cán
bộ, chiến sĩ trong đơn vị.
Thứ hai là: Phát huy sức mạnh của hệ thống chỉ huy, lãnh đạo trong giáo
dục, rèn luyện nhân cách quân nhân. Nhân cách quân nhân không thể hình thành
một cách tự phát mà phải thông qua sự tác động có mục đích của người chỉ huy,


19
lãnh đạo, trong đó tác động bằng sự giáo dục, rèn luyện bộ đội giữ vai trò quan
trọng. Để giáo dục, rèn luyện quân nhân đạt hiệu quả cao, thiết thực, người chỉ huy,
lãnh đạo căn cứ vào phạm vi quyền hạn của mình phải tham gia vào việc xác lập
mô hình nhân cách quân nhân thuộc quyền. Thực chất, đây là bước cụ thể hoá mục
đích giáo dục nhân cách trên cơ sở tính đến những yêu cầu thực tế của hoạt động
theo chức trách và chuyên môn quân sự của bộ đội. Mô hình nhân cách quân nhân
được xác định theo các thành phần trong cấu trúc nhân cách, nhưng phải đảm bảo
những yếu tố định tính, định lượng rõ ràng và trở thành tiêu chuẩn về nhân cách vừa
để định hướng cho giáo dục, vừa làm căn cứ cho mỗi quân nhân phấn đấu trưởng
thành.

Người chỉ huy, lãnh đạo với tư cách là nhà giáo dục phải gần gũi, tìm hiểu
đối tượng giáo dục, xem xét, đánh giá nhân cách của họ trên cơ sở đối chiếu với
những tiêu chuẩn đã vạch ra trong mô hình nhân cách quân nhân, từ đó xác định
nội dung và phương pháp giáo dục hợp lý. Trong thực tế xây dựng quân đội hiện
nay có rất nhiều phương pháp giáo dục, nhưng người chỉ huy, lãnh đạo cần đặc biệt
lưu ý đến việc giảng giải, thuyết phục để tác động tới lĩnh vực ý thức của bộ đội,
đồng thời phải biết điều khiển, điều chỉnh hành vi của họ tuân theo những yêu cầu
khách quan của hoạt động quân sự. Chỉ có như vậy, việc giáo dục, rèn luyện để
phát triển nhân cách quân nhân mới đạt hiệu quả cao.
Sức mạnh giáo dục của người chỉ huy, lãnh đạo đối với những người thuộc
quyền thể hiện ở chính sự gương mẫu của họ trước toàn thể đơn vị. Vì vậy, mỗi
cán bộ chỉ huy, lãnh đạo phải thường xuyên trao dồi những phẩm chất nhân cách
tốt đẹp của mình, đồng thời đảm bảo sự kết hợp giữa việc quan tâm sâu sắc và yêu
cầu cao đối với quân nhân.
Thứ ba là: Tổ chức mọi mặt đời sống và hoạt động quân sự cho quân nhân một
cách khoa học, phù hợp. Nhân cách quân nhân hình thành và phát triển trong hoạt
động. Việc tổ chức tốt đời sống và hoạt động quân sự trong từng đơn vị sẽ thúc đẩy sự
hình thành và củng cố những nét đặc trưng tâm lí nhân cách quân nhân.


20
Người cán bộ chỉ huy, lãnh đạo đơn vị cần phải có sự quan tâm đúng mức tới
việc tổ chức đời sống và hoạt động quân sự của bộ đội. Điều đó thể hiện ở chỗ,
thường xuyên chăm lo tới những nhu cầu chính đáng của bộ đội, tìm cách thoả
mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu này bằng chính sự cải thiện những điều kiện
sinh họat vật chất và tinh thần của đơn vị. Đồng thời, đội ngũ cán bộ phải chú ý
xây dựng nề nếp, duy trì kỷ luật quân sự và đưa quân nhân vào các loại hình hoạt
động quân sự.
Đặc biệt, trong điều kiện xây dựng quân đội thời bình, những hoạt động
mang tính nghi thức quân đội phải được tiến hành một cách trang trọng, có tính

hấp dẫn với bộ đội. Mặt khác, hoạt động huấn luyện quân sự phải được tiến hành
thường xuyên theo hướng tăng dần các điều kiện khó khăn, phức tạp, gần sát với
chiến đấu. Thông qua các hoạt động này để rèn luyện toàn diện nhân cách quân nhân
và tạo sự gắn bó của họ với hoạt động quân sự.
Thứ tư là: Khuyến khích mỗi quân nhân tự hoàn thiện nhân cách của mình
trong quá trình phục vụ. Con người có khả năng tự cải tạo chính bản thân mình. Ở
giai đoạn nhân cách đang trưởng thành ở lứa tuổi quân nhân, khả năng này biểu
hiện khá mạnh mẽ. Vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách quân
nhân chúng ta cần đặc biệt khuyến khích mỗi người tích cực tự hoàn thiện mình.
Để nâng cao tính tích cực tự hoàn thiện nhân cách của quân nhân, người cán bộ chỉ
huy, lãnh đạo cần thực hiện những biện pháp thích hợp tác động tới động cơ tự giáo
dục của quân nhân. Những động cơ đó nảy sinh từ sự ý thức được về tình trạng chưa
tương xứng giữa các phẩm chất nhân cách ở mỗi người và yêu cầu của hoạt động theo
chức trách nhiệm vụ. Mặt khác, động cơ hoàn thiện nhân cách còn nảy sinh từ nhu
cầu tự khẳng định và ý thức tranh đua của cá nhân trong tập thể. Vì vậy, trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách quân nhân cần tăng cường việc đánh giá công
khai, khách quan về từng người và chú ý nêu gương người tốt, việc tốt trong phong
trào thi đua học tập, rèn luyện và công tác tại đơn vị.
Hoạt động tự hoàn thiện nhân cách được thực hiện thông qua các hành động
cụ thể như tự ý thức, tự đánh giá bản thân; xây dựng chương trình, kế hoạch tự


21
giáo dục; rèn luyện và điều chỉnh hành vi, thái độ... Những hành động này đòi hỏi
mỗi người phải có ý thức tự phê bình cao, đức tính kiên trì và nghiêm khắc với bản
thân. Do đó người cán bộ chỉ huy, lãnh đạo phải thường xuyên gần gũi, động viên
ý chí quyết tâm đấu tranh với chính bản thân của những người thuộc quyền.

KẾT LUẬN
Như vậy, nhân cách con người không phải là sinh ra đã có (không phải bẩm

sinh, di truyền), nó được hình thành trong hoạt động và giao tiếp tích cực của mỗi
cá nhân trong cộng đồng người. Quá trình xã hội hóa nhân cách là quá trình tích
cực, tự giác của chủ thể dưới tác động của môi trường xã hội. Đó là quá trình giải
quyết mâu thuẫn giữa cái bản năng và cái văn hóa, giữa bản năng sinh vật và bản
năng xã hội trong mỗi con người thông qua từng giai đoạn phát triển của cuộc đời.
Khi mâu thuẫn được giải quyết theo hướng kìm nén, chế ngự cái bản năng để
chuyển hóa thành cái văn hóa, cái tính xã hội trong mỗi con người phù hợp với các
giá trị, chuẩn mực thì khi đó nhân cách được phản ánh một cách tích cực, phù hợp.
Ngược lại, khi cái bản năng thắng cái tính người, cái văn hóa, tức là nó đã vượt lên
trên các giá trị chuẩn mực xã hội thì nhân cách lệch lạc, tha hóa trở về với hàng
động vật.
Quân nhân là những nhân cách đã và đang trưởng thành, việc hình thành nên
nhân cách người quân nhân cách mạng cũng chính là quá trình chiếm lĩnh các giá
trị, chuẩn mực xã hội quân sự trở thành các phẩm chất nhân cách của bản thân.
Nhân cách quân nhân là một cấu tạo tâm lí mới ở con người được hình thành dưới
sự tác động của giáo dục và hoạt động trong môi trường quân sự. Thông qua quá
trình sống, hoạt động và giao tiếp trong môi trường quân sự, nhân cách quân nhân
từng bước định hình, phát triển, hoàn thiện. Thời gian tại ngũ của mỗi quân nhân


22
diễn ra quá trình xã hội hóa nhân cách quân nhân mạnh mẽ, sâu sắc. Nhân cách
người quân nhân cách mạng, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” chỉ có được nếu họ tích
cực tự tu dưỡng và rèn luyện, cùng với sự giáo dục của đơn vị và quân đội. Đồng
thời cũng không thể thiếu được vai trò của gia đình quân nhân, của cộng đồng xã
hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng Tâm lý học văn hóa. Nxb ĐHQG. H.2009
2. David Matsumoto,Tâm lý học văn hóa (dịch từ tiếng nga), Nxb Mockva,

2002.
3. Giáo trình Tâm lý học quân sự, Nxb Q, H.2005
4. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục,
1997, tr.23-24
5. Phan Xuân Biên, Hồ Bá Thâm, đồng chủ biên, Tâm lý học giáo dục nhân
cách người cai nghiện ma túy, từ thực tế TPHCM, Nxb Tổng hợp TPHCM,2004.
6. Trần Đức Thảo, Sự hình thành con người, Nxb, Đại học quốc gia Hà
Nội, 2004
7. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật. Nxb VH-TT, H.2000
8. Vấn đề Nhân cách trong tâm lý học ngày nay. Nxb GD, H.2007
9. Trần Ngọc Thêm, Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb TPHCM,
HCM.1997
10. Hoàng Trinh, Vấn đề văn hóa và phát triển. Nxb CTQG, H,1996
11. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb GD, H.1997
12. Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ. Nxb TPHCM, HCM
2000.


23



×