Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ tạo VIỆC làm THÔNG QUA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.84 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn
nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao
động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa
nước ta với các nước. Cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính,
xuất khẩu lao động là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ
lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước…
Chính vì vậy “Tạo việc làm cho người lao động thông qua xuất khẩu lao động là
một giải pháp mới khắc phục mất cân đối thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế” được tôi lựa chọn làm chủ đề nghiên cứu.
1. Tạo việc làm và xuất khẩu lao động - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn
1.1 Khái niệm.
Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất, số
lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết khác để kết
hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Như vậy muốn tạo việc làm cần có 3 yếu tố cơ bản: Tư liệu sản xuất, sức lao
động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp các yếu tố đó vơi nhau.
Tạo việc làm là quá trình, còn việc làm là kết quả của quá trình ấy. Muốn có
nhiều việc làm cần có nhiều chính sách tạo việc làm hiệu quả. Có thể kể ra một số
chính sách tạo việc làm như:
Chính sách tạo vốn để phát triển kinh tế.
Chính sách di dân đi vùng kinh tế mới.
Chính sách gia công sản xuất hàng tiêu dùng cho xuất khẩu.
Chính sách phát triển ngành nghề truyền thống.
Chính sách phát triển hình thức hội, hiệp hội ngành nghề làm kinh tế và tạo việc
làm.
Chính sách xuất khẩu lao động…


Xuất khẩu lao động là chính sách, giải pháp mới đã và đang phát huy hiệu quả


tạo ra nhiều việc làm cho lao động Việt Nam nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế.
Xuất khẩu lao động (Export of Labour): Thực chất là xuất khẩu hàng hóa sức
lao động, được hiểu là sự di chuyển lao động có tổ chức đi làm việc trong thời hạn
nhất định ở nước ngoài thông qua các hiệp định về xuất khẩu lao động và các thỏa
thuận khác giữa các quốc gia nhận và gửi lao động
Lao động xuất khẩu (Labour Export): Là người lao động hoặc một tập thể
người lao động có những tuổi khác nhau, sức khoẻ, trình độ nghề nghiệp và kỹ năng
lao động khác nhau với những xuất phát điểm khác nhau.
Nguồn nhân lực xuất khẩu lao động là đội ngũ những người lao động di chuyển
đi lao động ngoài nước của tổ chức được phép xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là hoạt động mua bán hàng hoá sức lao động nội địa cho
người sử dụng lao động nước ngoài.
Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài, thường gọi tắt là Xuất khẩu lao
động Việt Nam, là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt Nam ra
nước ngoài theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ cho nhu cầu nhân công lao động của
doanh nghiệp nước ngoài. Hoạt động này bắt đầu từ năm 1980 dưới hình thức hợp tác
lao động với các nước Xã hội chủ nghĩa, trong tình hình kinh tế Việt Nam đang gặp
nhiều khó khăn. Kết quả đã đem lại nhiều thuận lợi cho đất nước. Từ khi cơ chế thay
đổi năm 1991, hoạt động xuất khẩu lao động phát triển mạnh mẽ, mở rộng thị trường ra
nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Bước sang thế kỷ 21, có sự tăng đột biến lượng lao
động Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài
+ Người sử dụng lao động nước ngoài ở đây là chính phủ nước ngoài hay cơ
quan, tổ chức kinh tế nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động trong nước.
+ Hàng hoá sức lao động nội địa: muốn nói tới lực lượng lao động trong nước
sẵn sàng cung cấp sức lao động của mình cho người sử dụng lao động nước ngoài.
+ Hoạt động mua bán : thể hiện ở chỗ người lao động trong nước sẽ bán quyền
sử dụng sức lao động của mình trong một khoảng thời gian nhất định cho người sử



dụng lao động nước ngoài để nhận về một khoản tiền dưới hình thức tiền lương (tiền
công). Còn người sử dụng nước ngoài sẽ dùng tiền của mình mua sức lao động của
người lao động, yêu cầu họ phải thực hiện công việc nhất định nào đó (do hai bên thoả
thuận) theo ý muốn của mình. Nhưng hoạt động mua bán này có một điểm đặc biệt
đáng lưu ý là: quan hệ mua bán chưa thể chấm dứt ngay được vì sức lao động không
thể tách rời người lao động. Quan hệ này khởi đầu cho một quan hệ mới quan hệ lao
động. Và quan hệ lao động sẽ chỉ thực sự chấm dứt khi hợp đồng lao động ký kết giữa
hai bên hết hiệu lực hoặc bị xoá bỏ hiệu lực theo thoả thuận của hai bên.
Nội dung Xuất khẩu lao động
Gồm hai nội dung:
+ Đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài;
+Xuất khẩu lao động tại chỗ (XKLĐ nội biên): người lao động trong nước làm
việc cho các doanh nghiệp FDI, các tổ chức quốc tế qua Internet. Người lao động ở đây
bao gồm: người lao động làm các công việc như lao động phổ thông, sản xuất, giúp
việc,…(những công việc ít đòi hỏi về trình độ chuyên môn); chuyên gia; tu nghiệp
sinh. Chuyên gia: là những người lao động có trình độ chuyên từ bậc đại học trở lên;
Tu nghiệp sinh (TNS): (Mới chỉ có ở Nhật Bản, Hàn Quốc) chỉ những người lao động
chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn của nước nhập khẩu lao động và
nếu muốn vào làm việc ở các nước này họ phải được hợp pháp hoá dưới hình thức TNS
nghĩa là vừa làm vừa được đào tạo tiếp tục về trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Có 5 hình thức xuất khẩu lao động sang nước ngoài:
Hiệp định chính phủ ký kết giữa hai nước
Hợp tác lao động và chuyên gia
Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công trình, liên
doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài
Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động (chủ
yếu)
Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức nước ngoài.
1.2. Thực trạng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động Việt Nam



1.2.1 Số lượng: Là một đất nước có dân số trẻ với 90 triệu dân (ngày 01 tháng
11 vừa qua Việt Nam chào đón công dân thứ 90 triệu), nguồn lực lao động dồi dào
cộng với chi phí nhân công rẻ, thị trường lao động Việt Nam được đánh giá là một
trong những thị trường hấp dẫn nhất khu vực. Theo thống kê, năm 2010 số người trong
độ tuổi lao động của cả nước là 49,44 triệu, trong đó số lao động trong độ tuổi thanh
niên chiếm khoảng 47%. Mục tiêu đề ra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, từ
2010 đến năm 2015 đảm bảo và tạo việc làm cho 54,5 triệu lao động, giảm tỉ lệ thất
nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%. Cụ thể, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho
khoảng 1,6 triệu lao động. Điều này đặt ra một thách thức to lớn cho các nhà quản lý.
Trong khi đó, theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thị trường lao động thế giới hiện nay đã
tăng gấp 4 lần so với năm 1980 và dự báo sẽ tăng gấp đôi vào 2050. Ở các nước phát
triển chẳng hạn như Mỹ, giới phân tích thị trường việc làm cho rằng lao động có tay
nghề, có kỹ thuật cao vẫn thiếu trầm trọng. Trong xu hướng toàn cầu hoá gia tăng cùng
với việc thiếu lao động trầm trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới, làn sóng người lao
động ở các nước đang phát triển thiếu việc làm đã di chuyển đến các nước phát triển
với hy vọng tìm việc làm và kiếm được nhiều tiền hơn. Chính vì vậy, xuất phát trên hai
mặt cung - cầu, xuất khẩu lao động được xem như một bước đi đúng đắn góp phần giải
quyết gánh nặng việc làm trong nước đồng thời đem lại nguồn thu cho cá nhân người
lao động và cho xã hội. Theo xu hướng này, trong những năm qua, Việt Nam đã tập
trung đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động và đã thu được những thành tựu khả quan.
Tính đến 2011, Việt Nam có khoảng 660.000 lao động làm việc tại nước ngoài, trong
đó 85.650 tại Đài Loan, giữ vị trí thứ 2 về tổng số lao động nước ngoài tại Đài Loan
Chỉ tính riêng năm 2011, số lao động được đưa đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài là 78.885 lao động, bằng 105% so với chỉ tiêu, vượt 12% so với
2009; trong đó, đưa sang thị trường Malaysia nhiều nhất: 37.950 người, tiếp
đến là Đài Loan: 14.120 người, Hàn Quốc: 10.500 người, Nhật Bản: gần 5.400
người. Hàng năm số lao động này chuyển về gia đình khoảng 2,6 tỷ USD, góp
phần nâng cao thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Song song với việc
giữ vững các thị trường truyền thống, Việt Nam đã mở rộng thị phần tại một số



thị trường như, tại Trung Đông, hiện có khoảng 3.000 lao động làm việc ở các
Tiểu vương quốc Ả- rập thống nhất, gần 2.000 lao động làm việc tại Ca-ta.
Đồng thời, Việt Nam đang triển khai kế hoạch đưa lao động sang Ả-rập Xê-út.
Đặc biệt, nhằm đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa ngành nghề phù hợp với
yêu cầu của nhiều loại thị trường, chúng ta đã đầu tư nghiên cứu thí điểm đưa
lao động sang một số thị trường mới như Canada, Macao, Australia, Hoa Kỳ…
Nước tiếp nhận
Năm

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

Tổng số


Đài Loan Nhật Bản
1995
810
1996 3.990
164
1997 10.150
382
1998
7.187
286
1999 12.950
1.046
2000 18.470
191
2.227
2001 12.240
1.697
1.896
2002 21.810
558
1.856
2003 31.500
8.099
1.497
2004 36.168
7.782
3.249
2005 46.122
13.191

2.202
2006 75.000
29.069
2.256
2007 67.447
37.144
2.752
2008 70.594
22.784
2.955
2009 78.855
14.127
5.360
2010 85.020
23.640
5.517
2011 87.000
33.000
5.800
Cộng 665.292
191.282
39.445
Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước

(Đơn vị tính: Người)

Hàn Quốc
210
3.318
4.781

5.270
7.826
4.880
1.500
4.518
7.316
3.910
1.190
4.336
4.779
12.102
10.577
12.187
16.000
104.700

Malaysia
7
1
239
23
19.965
38.227
14.567
24.605
37.941
26.704
7.800
170.061


Nước khác
600
478
4.987
1.631
4.087
11.172
7.140
14.877
14.349
21.204
9.574
1.112
8.205
8.148
10.850
16.972
24.400
159.786

Từ năm 2006, trung bình mỗi năm có hơn 80.000 lao động xuất khẩu sang nước
ngoài, chiếm khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm trong cả nước. Đến
năm 2011 đã có 665.292 lao động Việt Nam làm việc ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ
với hơn 30 nhóm ngành nghề khác nhau. Vào thời điểm năm 2011, xét về lượng tiếp
nhận thì lao động Việt Nam nhiều nhất tại Đài Loan, sau đó là Hàn


Quốc, Malaysia, Nhật Bản, Ả Rập Saudi, Lào, Campuchia,... Trong số đó lao động nữ
chiếm gần 50%, chủ yếu làm trong ngành phục vụ cá nhân và xã hội và công nghiệp.
Một số thị trường khác như Brunei, Singapore, Các Tiểu vương quốc Ả Rập

Thống nhất cũng đang được mở rộng. Các quốc gia phát triển có thu nhập cao
như Úc, Mỹ, Canada, Phần Lan và Ý cũng là mục tiêu xuất khẩu lao động Việt Nam
hướng đến.
Năm 2008, Hàn Quốc nhận thêm 12.000 lao động Việt Nam mới và tái tuyển
dụng 6.000 lao động, tăng số lao động Việt Nam tại quốc gia này lên gần 50.000 lao
động. Đến năm 2011, Việt Nam có khoảng 60.000 lao động tại Hàn Quốc và 85.650 tại
Đài Loan - giữ vị trí thứ 2 về tổng số lao động nước ngoài tại Đài Loan. Không giống
với Đài Loan và Malaysia được xem là thị trường truyền thống ít đòi hỏi, Nhật Bản
được đánh giá là thị trường có nhiều đòi hỏi cao. Tuy nhiên, theo những chính sách và
chương trình hợp tác tạo nhiều thuận lợi, lượng tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật làm
việc ngày càng tăng. Với con số 35.000 tu nghiệp sinh theo thống kê năm 2011, Việt
Nam đứng thứ 2 trong trong tổng số 14 nước có tu nghiệp sinh làm việc tại Nhật Bản
(sau Trung Quốc). Chất lượng lao động cũng được tín nhiệm. Năm 2011 Riêng số lao
động Việt Nam đang có mặt tại bốn thị trường lớn nhất là Đài Loan, Malaysia, Hàn
Quốc và Nhật Bản là hơn 200.000 người (40% tổng số lao động Việt Nam tại nước
ngoài).
1.2.2 Chất lượng : Lao động xuất khẩu là những người lao động đi làm việc có
thời hạn ở nước ngoài theo các hợp đồng ký kết giữa người lao động với các công ty, tổ
chức nước ngoài và những người đi làm việc ở nước ngoài theo các hình thức khác.
Chất lượng lao động xuất khẩu được hiểu là năng lực sinh thể, văn hóa, đạo đức, tư
tưởng và sự thống nhất với kỹ năng lao động theo nghề nghiệp của người lao động xuất
khẩu. Cụ thể ở đây chất lượng lao động xuất khẩu được đánh giá bởi các tiêu chí sau:
Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn: Các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm liên quan
đến công việc của người lao động. Khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ Hiểu biết về văn
hóa, pháp luật của nước tiếp nhận lao động, khả năng hòa nhập cộng đồng và ứng xử
với các nền văn hóa khác Phẩm chất người lao động: bao gồm tác phong lao động, ý


thức kỷ luật, khả năng làm việc với cường độ cao, khả năng thích ứng với môi trường
mới… Về trình độ chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ Chất lượng lao động xuất khẩu

Nước ta về chủ yếu vẫn xuất khẩu lao động phổ thông chưa qua đào tạo. -8Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và có nghề trước khi đi xuất khẩu lao động Trong
đó tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo của các doanh nghiệp XKLĐ nhà nước cao
hơn nhiều so với các doanh nghiệp tư nhân. Trong giai đoạn 2005-2010, tỷ lệ này của
doanh nghiệp nhà nước là 43.69% trong khi các doanh nghiệp tư nhân chỉ có 13.72%.
Những lao động đã qua đào tạo chất lượng cũng chưa cao, đa số chỉ đáp ứng được
những công việc giản đơn, chưa tập trung vào đào tạo lao động kỹ thuật cao. Trình độ
ngoại ngữ của đa số lao động còn yếu dẫn tới những sự cố như hiểu lầm, xung đột
trong quan hệ chủ - thợ và hạn chế trong việc giao tiếp, trao đổi, tiếp thu kiến thức mới
tại nơi tiếp nhận lao động xuất khẩu.
Về phẩm chất, ý thức kỷ luật
* Ưu điểm
Lao động xuất khẩu nước ta tiếp thu công việc nhanh, cần cù, chịu khó, trình độ
văn hóa khá, nhiều lao động đã chủ động học ngoại ngữ, nâng cao tay nghề, tìm hiểu
về văn hóa pháp luật, chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đi làm việc
* Hạn chế
Lao động đi xuất khẩu phần đông là lao động từ các vùng nông thôn và hoạt
động trong nông nghiệp nên tác phong làm việc, tập quán suy nghĩ và hành động còn
nhiều điểm chưa phù hợp với môi trường làm việc tiên tiến ở các nước tiếp nhận lao
động. Về mặt thể lực còn yếu so với các nước khác trong khu vực nên khả năng chịu
đựng kém khi làm những công việc nặng nhọc. Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn,
cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài và phải về nước trước thời hạn còn rất phổ biến.
Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2010 tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn tại Anh
là 50%, Nhật Bản là 34% chiếm 42,1% tổng số lao động nước ngoài bỏ trốn tại nước
này, tình hình này làm cho đối tác Nhật Bản rất ái ngại tiếp nhận lao động Việt Nam.
Tại Hàn Quốc, tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn là 59,25% đứng thứ ba trên 15 nước
được phép đưa lao động vào nước này. Tại Đài Loan tỷ lệ này xấp xỉ 10% buộc chính


quyền Đài Loan phải đóng cửa thị trường lao động dịch vụ gia đình và dịch vụ xã hội,
thuyền viên đánh cá. Tình trạng này không chỉ gây nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp

như bị đối tác phạt tiền, tốn kém chi phí hòa giải, thất thu khoản phí dịch vụ được thu
theo quy định của Nhà nước nếu người lao động bỏ trốn mà nó còn làm giảm uy tín của
lao động Việt Nam, dẫn tới nguy cơ thu hẹp các thị trường xuất khẩu lao động truyền
thống như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malayxia. Thực tế tại một số thị trường, lao
động Việt Nam đã không còn được ưa chuộng như trước do sự thiếu ý thức kỷ luật của
các lao động gây ra đặc biệt là tại thị trường Malayxia, nhiều doanh nghiệp đã từ chối
nhận các lao động nam Việt Nam. Ngoài ra hiện tượng các lao động không thực hiện
đúng cam kết trong hợp đồng tự ý bỏ hợp đồng đi làm việc cho chủ khác, vi phạm kỷ
luật lao động, tổ chức đình công rủ rê lôi kéo các lao động khác vi phạm cũng không
phải là ít. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần là do chất lượng nguồn lao động
đầu vào không cao, mặt khác là do hạn chế trong công tác giáo dục định hướng của
doanh nghiệp XKLĐ.
1.2.3. Phân bổ: Nếu như giai đoạn 1980-1990: Liên Xô và các nước XHCN ở
Đông Âu là thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam thì đến giai đoạn
1991-2010 thị trường đó lại là: Hàn Quốc, Nhật Bản, Lybia, CHDCND Lào. Các thị
trường mới tiềm năng như: Đài Loan, Malaysia. Thị trường Trung Đông và Châu Phi:
chủ yếu là xuất khẩu chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo dục. Chúng ta
đang dần tiến đến các thị trường khó tính nhưng đầy sức hấp dẫn như Mỹ, Nga,
Canada, Singapor, Hylap, CH Ailen. Sau đây là tình hình cụ thể về lao động Việt Nam
tại một số thị trường: Tại Trung Đông. Lybia: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam
trong lĩnh vực lao động từ năm 1990 thông qua hai hình thức:
Một là, hợp tác trực tiếp theo thoả thuận giữa bộ quốc phòng hai nước. 19901994 đưa gần 2000 lao động cơ khí và lắp ráp sang làm việc tại các nhà máy của Lybia.
Năm 1994 sự hợp tác tạm dừng. Năm 1997 chương trình hợp tác được tiếp nối và triển
khai với quy mô tính đến năm 2002 là 1000 người.
Hai là, hợp tác gián tiếp thông qua một số công ty của Hàn Quốc, CHLB Đức,
Hylap, Thụy Điển, Manta, Ba Lan trúng thầu tại Lybia. Từ năm 1992- 2002 có 9000


người lao động trong đó 99% làm việc trong lĩnh vực xây dựng, còn lại là nghề khác.
Thu nhập bình quân khoảng 210 USD/ người/ tháng. Tại thị trường này ít xảy ra các

vấn đề với người lao động và đặc biệt là không có lao động bỏ trốn ra làm việc ngoài
hợp đồng. + Coet: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ
1996. Từ 2002 mới có 4 công ty (VINACONEX, CONSTREXIM, OLECO, LOD) ký
kết và thực hiện hợp đồng nhận thầu xây dựng trên 1000 biệt thự 2 tầng, đưa được trên
200 lao động đi làm việc tại Coet. Tuy nhiên, do đối tác chưa thực sự nghiêm túc trong
thực hiện hợp đồng. Mặt khác thời tiết nắng nóng, vật liệu cũng quá nặng so với sức
khoẻ của người lao động Việt Nam, kỹ thuật khác xa với Việt Nam,…nên đến nay đây
vẫn là thị trường bỏ ngỏ.
+ Các tiểu vương quốc ả rập thống nhất (UAE): bắt đầu có quan hệ hợp tác với
Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1995. Trong giai đoạn 1995- 2002 Việt Nam
đã đưa được trên 1000 lao động đi làm việc ở khu vực này. Số ở lại tính đến năm 2002
là 500 người. Ngành nghề chủ yếu là may mặc, xây dựng, phục vụ nhà hàng. Thu nhập
của công nhân xây dựng khoảng 180-280 USD/ người/tháng, nghề may khoảng 150
USD/ người/tháng. Tại châu Á
+ Nhật Bản: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ
năm 1992.Hình thức hợp tác chủ yếu là thông qua “chương trình tu nghiệp sinh nghề
và thực tập kỹ thuật” cho phép lao động Việt Nam (gọi là tu nghiệp sinh) tham gia thu
nghiệp nghề và thực hành tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản. Thị trường Nhật
Bản là thị trường khó tính vì: thứ nhất, người Nhật ít thiện cảm với lao động ngụ cư
nước ngoài nên có quy định khá ngặt nghèo với lao động làm thuê nước ngoài; thứ hai,
đặc điểm nổi bật của thị trường Nhật Bản là chỉ nhận lao động có tay nghề kỹ thuật từ
một số cơ sở sản xuất công nghiệp như điện tử, xây dựng,… và lao động phải được học
tiếng Nhật trước khi đi. Nhưng thị trường Nhật Bản cũng rất hấp dẫn bởi mức thu nhập
cao. Mức lương cho người học nghề Việt Nam ở năm đầu tiên khoảng 700 USD/ tháng,
sau khi thi tay nghề là 800 USD/ tháng. Khi làm thêm giờ người lao động sẽ được trả
150%so với mức lương chính. Từ năm 2002: có 40 doanh nghiệp xuất khẩu lao động
Việt Nam phối hợp với tổ chức hợp tác lao động quốc tế Nhật Bản (JITCO) đưa được


khoảng 10.000 lao động sang Nhật Bản tu nghiệp, chủ yếu trong lĩnh vực dệt, may, cơ

khí, xây dựng phân bố trên khắp nước Nhật. Từ năm 1994 theo thoả thuận về chương
trình tiếp nhận tu nghiệp sinh y tá. Theo đó, hàng năm Việt Nam đưa 15-20 người sang
học ở một số trường y tá Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp các y tá này đựơc làm việc 4
năm tại bệnh viên Nhật Bản và được hưởng lương + chế độ khác như lao động Nhật
Bản. Thị trường Nhật Bản ít coi trọng tầm vóc, ngôn ngữ của người lao động nước
ngoài nhưng lại rất đề cao tính trung thực và kỷ luật trong lao động. Thế nhưng, lao
động Việt Nam sang tu nghiệp tại Nhật đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài không ít gây
thịêt hại về kinh tế cho cả hai bên và sự mất uy tín cho phía Việt Nam. Trong tương lai
do dân số Nhật đang già hoá nên sẽ có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu lao động nhưng
chủ yếu là các lao động có trình độ kỹ thuật cao.
+ Hàn Quốc: chính thức đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao
động từ năm 1993 chủ yếu thông qua chế độ tu nghiệp sinh. Tính đến năm 2010 có 8
doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam được phép cung ứng TNS cho Hàn Quốc.
Đó là: LOD, TRACIMEXCO, TRACODI, VINACONEX, OLECO, IMS, SULECO,
SOVILACO đưa được tổng số lao động sang làm việc tại Hàn Quốc là 29.000 người
chiếm khoảng 40% thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam kể từ khi thực hiện
theo cơ chế mới. Năm 1996 số lao động đưa đi đạt mức kỷ lực ở con số 6.275 người.
Mức thu nhập bình quân là 500. 000 WON/tháng (trên 400USD/ tháng theo tỷ giá năm
2000: 1USD = 1.100 WON). Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc thường phải làm các
công việc 3D (nặng nhọc, kém hấp dẫn, độc hại) nên thu nhập thường không cao. Với
các TNS thì trong 3 tháng đầu chỉ được hưởng mức lương bằng 60-70% lương chính
thức. Người lao động nước ngoài trong đó có lao động Việt Nam không được hưởng
các quyền lợi về lao động như lao động Hàn Quốc nên nhiều lao động đã phá vỡ hợp
đồng ra làm ngoài. Năm 2003 có tới 14.000 lao động Việt Nam là lao động bất hợp
pháp. Theo ông Phạm Tiến Vân đại biện lâm thời đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc “
khoảng 60% số lao động Việt Nam tại Hàn Quốc đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài”.
+ Đài Loan: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ
năm tháng 11/1999. Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu rất lớn đối với lao động



làm việc trong các nhà máy, giúp việc gia đình và khán hộ công. Lao động nước ngoài
được hưởng các quyền lợi gần như lao động trong nước, mức tiền công chênh lệch
không nhiều. Thời hạn hợp đồng làm việc ở Đài Loan là 2 năm, đựơc gia hạn hợp đồng
1 lần tối đa không quá 1 năm nhưng chi phí môi giới rất cao khoảng 5-6 tháng tiền
lương tiết kiệm của người lao động. Tính đến năm 2000 có 139 doanh nghiệp Việt Nam
chuyên doanh xuất khẩu lao động được phép cung ứng lao động cho Đài Loan trong đó
có 34 doanh nghiệp được phép thí điểm cung ứng lao động khán hộ công và giúp việc
gia đình. Cũng trong năm 2000 có 30/139 doanh nghiệp đã ký kết đựơc hợp đồng xuất
khẩu lao động đưa được 6000 lao động (3256 nữ) sang làm việc tập trung ở ngành như
điện tử, may mặc, dệt, xây dựng, thuyền viên đánh cá, riêng khán hộ công và giúp việc
gia đình là 1950 người. Trong năm 2000 có 306 lao động bị trả về nước trước thời hạn
chiếm 5,7% số lao động đưa sang. Nguyên nhân 108 người (35,3%) vì lý do sức khoẻ;
127 (41,5%) do tiếng Hoa kém; 11 người (3,59%) vi phạm kỷ luật; 6 người (1,96%) do
phía chủ và công ty môi giới không chấp nhận. Từ tháng 11/1999 đến 2012 có 26.500
lao động phân bố ở 28 ngành nghề khác nhau trong đó làm việc sản xuất chế tạo chiếm
50%, giúp việc gia đình và khán hộ công là 32%, thuyền viên la 7%. Thu nhập bình
quân là 250-300 USD/tháng. Năm 2003: 1500 lao động Việt Nam bị bắt giữ vì làm
ngoài.
+ Malaysia: chính thức hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ cuối
tháng 4/2002. Đây là quốc gia có diện tích bằng diện tích của Việt Nam nhưng dân số
chỉ bằng 1/3; tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 8%/năm. Luật pháp Malaysia quy định
người lao động nước ngoài ở Malaysia được hưởng sự đối xử như đối với lao động bản
xứ về tiền lương và các lợi ích khác. Thời hạn hợp đồng là 3 năm, có thể gia hạn 5 năm
đối với lao động tay nghề thấp và 6 năm với lao động tay nghề cao. Thu nhập bình
quân khoảng 200 USD/ tháng. Từ tháng 4 đến tháng 8/2010 đưa trên 4000 người đi
làm việc, tính bình quân mỗi tháng đưa trên 1000 lao động. Từ tháng 4/2009 đến cuối
2010 có 70 doanh nghiệp được chính phủ cho phép làm thí điểm xuất khẩu lao động
sang Malai đã đưa 70.000 lao động đi làm việc, chủ yếu là lao động phổ thông cho lĩnh
vực xây dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Năm 2010 đưa được



40.000 lao động. Đầu năm 2011, hơn 700 lao động Việt Nam trong ngành xây dựng bị
mất việc. Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu về lao động có tay nghề và
chuyên môn vừa phải, chi phí đi lại thấp. Trong tương lai thị trường Malai có thể tiếp
nhận tới 200.000 lao động Việt Nam. Tóm lại, ta thấy rằng thị trường xuất khẩu lao
động của Việt Nam tập trung chủ yếu mới chỉ ở khu vực châu á, chưa phát triển được ở
các khu vực khác. Mặt khác, ngay trên chính thị trừơng truyền thống của mình thì tỷ lệ
lao động Việt Nam trong tổng số lao động nước ngoài vẫn còn rất thấp.
3. Các giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất
lượng lao động xuất khẩu và sử dụng sau xuất khẩu lao động.
3.1. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách nguồn
nhân lực lao động xuất khẩu.
Hoạt động XKLĐ đã được Đảng và Nhà nước xác định là một lĩnh vực kinh tế
đối ngoại quan trọng vừa là một bộ phận của chính sách giải quyết việc làm vừa là môi
trường thông qua đó để đào tạo một lực lượng lao động cần thiết cho sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Sử dụng nguồn nhân lực phải đặt trong chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội từng giai đoạn, trong đó có cả quan điểm định hướng về thị trường hợp tác XKLĐ
để xây dựng nguồn nhân lực có nghề nghiệp phù hợp và cả các chính sách mang yếu tố
môi trường, thị trường tương ứng trong nước.
Định hướng của chính sách sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động
Thứ nhất, chính sách sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động phải được đặt
trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
Thứ hai, chính sách sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động phải phát huy
các giá trị lao động truyền thống trong hội nhập
Thứ ba, chính sách sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động đảm bảo dự báo
nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động, trong đó có dự báo nguồn nhân lực chuyên
môn kỹ thuật
Thứ tư, chính sách sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động tác động đến các
đơn vị kinh tế



Thứ năm, chính sách sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động phải có bước
đi phù hợp và lộ trình theo định hướng XHCN.
Một số yêu cầu hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu
lao động trong giai đoạn hiện nay
Một là, hoàn thiện chính sách phải trên cơ sở các nguyên tắc xây dựng chính
sách và phải tính đến các nhân tố ảnh hưởng nhất là môi trường bên ngoài
Hai là, hoàn thiện chính sách phải phù hợp với đối tượng lao động khi sử dụng,
cũng như nhu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế
Ba là, hoàn thiện chính sách phải phù hợp với nội dung cải cách hành chính
Bốn là, hoàn thiện chính sách phải gắn với mục tiêu chung về sử dụng NNL
Năm là, hoàn thiện chính sách phải phù hợp với các khâu trong chu trình xuất
khẩu lao động .
Sáu là, hoàn thiện chính sách phải đảm bảo thuận lợi về điều kiện tiếp nhận cho
đơn vị sử dụng, lợi ích cho người lao động và xã hội đồng thời tác động tốt đến hoạt
động xuất khẩu lao động.

3.2. Đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực
xuất khẩu lao động.
3.2.1 Nhóm chính sách vê tổ chức và thông tin trong quản lý
Về bộ máy
Tổ chức quản lý để khai thác, thu hút nguồn nhân lực xuất khẩu lao động khi
được hình thành sẽ có mối quan hệ và hoạt động trong nước và ngoài nướ
cần ủng hộ việc ra đời một tổ chức, có thể gọi là Phòng khai thác và dự báo nguồn nhân
lực sau xuất khẩu lao động - Trung tâm Quốc gia dự báo & thông tin thị trường lao
động (Cục Việc làm) thuộc Bộ Lao động Thương binh & Xã hội
Thông tin trong quản lý
Hệ thống thông tin luôn là một chủ đề cần thiết trong mọi khâu hoạt động của
xuất khẩu lao động. Trước hết, chú trọng các thể loại giao dịch thông qua hệ thống
thông tin cần hoàn thiện như:



- Xây dựng trang Website về thông tin xuất khẩu lao động và việc làm trong
nước.
- Nối mạng về hệ thông việc làm giữa 3 nhà: Nhà nước (Cục việc làm), Nhà
doanh nghiệp sử dụng lao động trong nước và doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao
động .
Chính sách về cơ chế phối hợp
Sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động có liên quan mật thiết và là mắt
xích cuối cùng của hoạt động xuất khẩu lao động, liên quan đến chính sách việc làm
trong phát triển kinh tế -xã hội và các chương trình việc làm Quốc gia khác, do đó cần
phải có cơ chế phối hợp để tổ chức thực hiện giữa các tổ chức liên quan bằng một
chính sách hợp lý.
Ở đây, trung tâm của mối quan hệ về cơ chế phối hợp phải từ Cục việc làm bên
cạnh Cục quản lý lao động ngoài nước và toàn bộ mạng lưới hoạt động trong toàn quốc
đều liên kết, tác động đan xen với nhau theo các tiêu chí cụ thể. Chính sách này bảo
một sự thống nhất cao về cơ chế phối hợp và điều hành theo các nội dung của hệ thống
chính sách..
3.2.2 Nhóm chính sách về các tiêu chí quản lý nguồn nhân lực trong hoạt
động xuất khẩu lao động
Để thực hiện các nội dung dưới đây thì tổ chức sử dụng nguồn nhân lực xuất
khẩu lao động cần được thể hiện về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ trên- dưới,
ngang-dọc, trong - ngoài. Trước hết vị trí của tổ chức đối với xã hội và nhà nước phải
được định hình.
Các tiêu chí quản lý nguồn nhân lực thể hiện tại 5 nội dung sau:
Quản lý phân theo quốc gia nhận lao động
Hệ thống quản lý của tiêu chí này là thường xuyên cập nhật số lao động của các tổ
chức xuất khẩu tại các quốc gia nhập một cách chi tiết, qua hàng năm, nhằm dự báo kịp
thời cho các khu vực trong cả nước.
Quản lý về các hình thức xuất khẩu lao động



Tiêu chí này nhằm đánh giá tổng hợp đối tượng lao động đi làm việc ở các quốc gia
theo các hình thức nào, trên cơ sở đó nắm bắt được đối tượng quản lý và khả năng sử
dụng lao động trên cơ sở các chính sách thu hút hợp lý nguồn nhân lực từ các hình
thức xuất khẩu lao động sau khi về nước
Quản lý theo nhóm ngành nghề xuất khẩu lao động
Quản lý theo nhóm ngành nghề đòi hỏi tổ chức quản lý phải thường xuyên theo
dõi, nắm bắt kịp thời diễn biến lao động của ta, tại từng thị trường (quốc gia, khu vực)
lao động ngoài nước, nắm bắt qua định kỳ kế hoạch 5 năm và mỗi năm. Những nhóm
ngành cần phải có tiêu chí cụ thể và rõ ràng phù hợp với con đường phát triển kinh tế
của ta nhất là các nhóm ngành có nhiều lợi thế đối với Việt Nam (đóng tàu, lắp ráp điện
tử, chế biến thuỷ sản, công nghệ thông tin,...)
Đáp ứng mục tiêu sử dụng nguồn nhân lực này phù hợp trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, sự cần thiết phải cấp chứng chỉ nghề cho người lao động sau xuất khẩu
cần bao hàm các nội dung như:
- Phải thể hiện đầy đủ về tên, tuổi, địa chỉ trước khi xuất khẩu lao động cũng
như các chi tiết minh chứng cho người lao động về nghề nghiệp và thời hạn làm việc ở
nước ngoài.
- Chứng chỉ có thể được phân màu theo một số thị trường trọng điểm, ví dụ
phân theo 5 màu: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia, thị trường khác còn lại,
mỗi chứng chỉ có 2 thứ tiếng, (tiếng Anh và tiếng Việt Nam ).
- Việc cấp chứng chỉ này phải đảm bảo nhanh chóng, Tổ chức xuất khẩu lao
động đăng ký các thủ tục và cấp ngay cho người lao động khi hoàn thành hợp đồng về
nước và hoàn toàn miễn phí. Việc cấp chứng chỉ là bước khởi nguồn để lao động Việt
Nam có thể hoà nhập lao động trong khu vực trong thời gian 5 năm tới (năm 2014 dự
kiến sẽ tạo lập nguồn lao động ASIAN ).
Xây dựng các biểu mẫu báo cáo và quy định chế độ báo cáo
Quy định chế độ báo cáo thường kỳ cách nhau ít nhất là 6 tháng/lần và thống
nhất vào ngày nộp báo cáo cho đơn vị quản lý nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao



động (ví dụ ngày 30/6 và 30/12 hàng năm gửi báo cáo về tổ chức quản lý sử dụng
nguồn nhân lực xuất khẩu lao động và Cục Quản lý lao động ngoài nước).
Xây dựng biểu đồ dự báo Biểu đồ nguồn nhân lực xuất khẩu lao động có thể
được thể hiện theo từng thị trường hoặc tổng thể tất cả các thị trường cho mỗi loại
ngành nghề với dự báo hết hạn về nước mỗi năm, thậm chí về nước ở mỗi địa phương,
vùng miền của đất nước.
Chính sách về kế hoạch lập nghiệp
Thoả thuận hợp đồng với các tổ chức kinh tế có nhu cầu sử dụng
Xây dựng các tiêu chí về việc làm ngay từ khi lao động xuất khẩu, như ban hành
mẫu đăng ký việc làm trong nước trước khi xuất cảnh (ngay sau khi được thông báo
ngành nghề việc làm; đơn vị, doanh nghiệp, nhà máy nào mà mình làm việc ở nước
nào), đây cũng là cơ sở để các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước tham khảo ký
kết hợp đồng với người lao động về kế hoạch nhân lực các năm sau.
Tư vấn khởi nghiệp
Người lao động đi lao động ở nước ngoài có nhiều mục đích khác nhau, đa số là
tạo công ăn việc làm trước mắt, tuy nhiên nguyện vọng khá đông của thanh niên là
chọn nghề, chọn nước nhận lao động để khi về vừa có vốn vừa có nghề, trong số đó có
một số chủ động lập nghiệp bằng chính mình như mở các công ty tư nhân, các tổ hợp
sản xuất, dịch vụ,.... nhất là các ngành nghề truyền thống đang có trên quê hương, địa
phương mình. Giải pháp tốt để hình thành ý thức, quyết tâm trau dồi nghề nghiệp,
ngoại ngữ trước khi đi lao động nước ngoài là trang bị cho họ những giá trị hướng tới
của ngành nghề cụ thể, những hoài bão mà người lao động dự định trong quá trình làm
việc ở nước ngoài. Phổ biến những giá trị này qua những điển hình từ nguồn nhân lực
sau xuất khẩu lao động tạo ra trong chương trình giáo dục định hướng, trước khi tham
gia xuất khẩu lao động. Điển hình như:
3.2.3 Nhóm chính sách về kinh tế-tài chính
Về hỗ trợ tín dụng ưu đãi để phát triển nghề nghiệp
Có thể được đảm bảo bằng một con số cụ thể có mặt bằng chung, bình quân cho

mỗi một dự án của mỗi lao động được vay với lãi suất ưu đãi có trị giá khoảng 1.500


USD. Tính phù hợp còn tuỳ thuộc vào khả thi của từng loại dự án, xuất đầu tư dự án, ý
nghĩa và giá trị của dự án
3.2.4 Nhóm chính sách về tái hòa nhập
Đa số nguồn nhân lực trước khi tham gia xuất khẩu lao động là thanh niên chưa
xây dựng gia đình (hay nói cách khác là cuộc sống đang phụ thuộc gia đình), việc di
chuyển, định cư khởi nghiệp (mua hoặc thuê nhà, căn hộ, chung cư) cũng cần có chính
sách hỗ trợ để thực hiện các hoạt động xúc tác, nhất là các huyện nghèo mà chúng ta
đang có chính sách ưu tiên trong đưa đi xuất khẩu lao động .
Các trường hợp hỗ trợ từ các chính sách khác như ưu tiên mua nhà, thuê đất đai,
phương tiện,… (có thể coi đây là chính sách hỗ trợ nhóm)
Tạo ra bầu không khí xã hội hoá lao động trong quá trình hội nhập. Lao động
trong nước cũng như ngoài nước đều được quan tâm như nhau về quan niệm sống,
đồng thời có nhưng quan điểm được thể hiện đối với người đi làm nhiệm vụ xa quê
hương khi trở về phải được đón tiếp chu đáo và thông qua các chính sách cụ thể như:
Tiếp nhận và tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động đoàn thể cũng như tổ chức
xã hội khác (đảng, đoàn, phụ nữ, hội viên nghề nghiệp…).
Chế độ đăng ký về hộ khẩu, lưu trú, di chuyển;
Chế độ về bảo hiểm, chế độ tiếp nhận lao động.
3.2.5 Nhóm chính sách về bồi dưỡng, đào tạo lại nghề nghiệp
Có thể sơ bộ phân làm 2 nhóm như sau:
- Nhóm các đối tượng có thể không cần đào tạo lại: Các trường hợp thực tập
sinh và tu nghiệp sinh về nước có thể liên hệ với các doanh nghiệp của Nhật Bản đang
có mặt tại Việt Nam để hợp tác.
- Nhóm các đối tượng cần đào tạo lại là các địa phương chưa có tính phù hợp
trên hoặc các doanh nghiệp khác có nhu cầu sử dụng nhưng cần trang bị thêm kiến
thức và tay nghề để phù hợp.
Ngoài ra, có thể hướng sự bồi dưỡng, đào tạo lại đối với những lao động chưa

thực sự gắn kết theo các giao dịch trước đó, kể cả các đối tượng khác muốn chuyển
hướng việc làm mà sau khi họ về nước thì nhu cầu xuất hiện


Hoàn thiện nội dung của chính sách này chính là thực hiện là quan điểm lớn của
Đảng, Nhà nước trong chiến lược con người thời kỳ đổi mới đất nước, trong chương
này đã đề cập đến những định hướng chiến lược về chính sách sử dụng nguồn nhân lực
thông qua hoạt động xuất khẩu lao động , những yêu cầu đặt ra trong hoàn thiện chính
sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp mang tính hệ thống.
Kiến nghị
Đối với Chính phủ:
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý theo quan điểm, đường lối của Đảng về mục
tiêu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động, thông qua đó hỗ trợ nguồn nhân lực chất
lượng cho môi trường hội nhập quốc tế và giai đoạn CNH, HĐH đất nước.
- Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động trên cơ sở hình thành các tổ chức với các
chức năng quản lý hợp lý giữa các bộ, ngành để sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu lao
động hiệu quả.
- Hoàn thiện hệ thống các nhóm chính sách về kinh tế, đào tạo-giáo dục, xã hội
để khuyến khích các tổ chức kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế có cơ hội phối hợp
hợp tác, hỗ trợ giúp đỡ nhằm sử dựng có hiệu quả nguồn nhân lực xuất khẩu lao động .

Kết luận
Thu hoạch đã nghiên cứu hoạt động xuất khẩu lao động, thực trạng về sử dụng
nguồn nhân lực xuất khẩu lao động ở nước ta trong giai đoạn đổi mới, đưa ra những
nguyên nhân, những lý do từ các thực trạng hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
sử dụng nguồn nhân lực chất lượng này, đưa ra hệ thống quan điểm xây dựng chính
sách, nhằm hoàn thiện đồng bộ hệ thống các chính sách về khai thác, quản lý để sử



dụng nguồn nhân lực chất lượng xuất khẩu lao động đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân
lực trong công cuộc CNH, HĐH đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, H. 2012
2. />%C4%91%E1%BB%99ng_Vi%E1%BB%87t_Nam
3. />4.Luật số 72/2006/QH11 của Quốc hội : Luật người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài



×