Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Luận văn: Hoàn thiện phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.7 KB, 111 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu
khoa học, độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
này là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Nguyễn Việt Anh


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOÀN
THIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.....................4
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN.................................4

1.1.1. Ngân sách Nhà nước và tổ chức hệ thống Ngân sách Nhà nước...................4
1.1.2. Phân cấp quản lý NSNN...........................................................................12
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH (THÀNH PHỐ)..............................................30

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH...............................37
2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
TỈNH QUẢNG NINH..........................................................................................37

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên....................................................................................37
2.1.2. Khái quát về đặc điểm Kinh tế - Xã hội.....................................................39
2.2. TÌNH HÌNH PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH VÀ THỰC HIỆN NSNN
GIAI ĐOẠN 2004 - 2009.....................................................................................45


2.2.1. Tình hình phân cấp quản lý Ngân sách và thực hiện NSNN trong giai
đoạn 2004 - 2006..............................................................................................45
2.2.2. Tình hình phân cấp quản lý Ngân sách và thực hiện NSNN trong giai
đoạn 2007 - 2009..............................................................................................56
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH QUẢNG NINH (GIAI ĐOẠN 2004-2009).............................................67

2.3.1. Những kết quả đã đạt được.......................................................................67
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân................................................................69


Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH TRONG THỜI GIAN TỚI...................79
3.1. CÁC QUAN ĐIỂM CẦN QUÁN TRIỆT TRONG HOÀN THIỆN PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH............80
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH.......................................................83
3.3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI TỈNH QUẢNG NINH.................................................................93

3.3.1. Bổ sung, hoàn thiện một số quy chế để tăng cường khả năng kiểm soát
chi của HĐND địa phương................................................................................93
3.3.2. Các giải pháp đối với phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi........................94
3.3.3. Cải cách hệ thống quản lý thuế.................................................................97
3.3.4. Hoàn thiện hệ thống căn cứ, định mức trong lập và phân bổ dự toán
ngân sách ........................................................................................................98
3.3.5. Các giải pháp khác .............................................................................99
3.4. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP...........................................................101


KẾT LUẬN..................................................................................................104
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NSNN:

Ngân sách nhà nước

NSTW:

Ngân sách trung ương

NSĐP:

Ngân sách địa phương

HĐND:

Hội đồng nhân dân

UBND:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng số 01: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội
chủ yếu giai đoạn 2004 - 2010................................................44

Bảng số 02: Tổng hợp thu NSNN trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2004-2006......50
Bảng số 03: Tổng hợp số chi NSNN trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2004-2006.......54
Bảng số 04: Tổng hợp thu NSNN trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2007-2009......62
Bảng số 05: Tổng hợp số chi NSNN trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2007-2009.....64


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
NSNN là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia.
Thông qua việc quản lý và sử dụng Ngân sách, Nhà nước thực hiện việc khai
thác, phân bổ, sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu
phát triển ổn định, công bằng và bền vững.
Trong công tác quản lý Ngân sách thì vấn đề phân cấp quản lý Ngân sách
có vai trò quan trọng, tác động rất lớn trong trong việc khuyến khích tăng thu,
giảm chi, chủ động cân đối ngân sách, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý
và điều hành Ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy, việc phân cấp quản lý NSNN
là một nội dung có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong công cuộc đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay. Đặc biệt, việc phân cấp quản lý NSNN phải
luôn được quan tâm hoàn thiện đối với địa bàn tỉnh (thành phố).
Tỉnh (thành phố) là vùng hành chính kinh tế quan trọng. Tỉnh (thành
phố) vừa là một cấp vùng kinh tế; lại vừa là một cấp hành chính địa phương
lớn nhất. Sự trùng hợp giữa kinh tế và hành chính đã cho phép tỉnh (thành
phố) là một cấp Ngân sách quan trọng. Phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh
(thành phố) là một nhiệm vụ sống còn đối với đất nước, Nhà nước cần phải sử
dụng công cụ NSNN như thế nào để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở
các địa phương. Luật NSNN năm 2002, các văn bản dưới luật và Bộ Tài chính
hướng dẫn thi hành luật đã có tác dụng to lớn vào việc nâng cao hiệu quả
quản lý điều hành ngân sách Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu phát triển đất

nước nói chung và từng địa phương nói riêng. Tuy nhiên, tình hình kinh tế,
đời sống của cả nước và địa phương phát triển, biến đổi từng ngày, luật ngân
sách và các văn bản khác qua thực hiện bộc lộ những lạc hậu, hạn chế nhất
định cần được bổ sung, hoàn thiện trong vấn đề phân cấp quản lý NSNN.


2
Với lí do đó, tôi chọn đề tài: "Hoàn thiện phân cấp quản lý Ngân sách
Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn: khảo sát, đánh giá phân cấp quản lý
NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay. Từ đó, đề xuất các quan điểm
các phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện phân cấp quản lý ngân
sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích trên luận văn phải hoàn thành các nhiệm vụ sau:
- Về mặt lí luận: hệ thống hoá các cơ sở lí luận liên quan đến đề tài như:
NSNN, hệ thống NSNN; phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh hiện nay.
- Phân tích thực trạng phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh nhằm phát hiện công tác phân cấp quản lý NSNN đối với tỉnh Quảng
Ninh hiện hành còn những gì chưa hoàn thiện.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng hoàn thiện hệ thống phân cấp
quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh (thành phố) và các điều kiện thực hiện.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Các vấn đề lý luận về NSNN và phân cấp quản lý NSNN.
+ Tình hình phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong
thời gian qua.
+ Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nhóm phân cấp quản lý phân định
trách nhiệm, quyền hạn; phân cấp quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình phân cấp quản lý NSNN

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong 2 thời kì bình ổn Ngân sách (2004-2006)
và (2007-2009) là chủ yếu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: điều
tra, khảo sát, phân tích, so sánh, suy diễn, khái quát hoá… để nghiên cứu.


3
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và các quan điểm của Nhà nước ta
về phân cấp QLNSNN.
- Đánh giá tổng quát thực trạng phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2004-2009.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện phân cấp quản lý
NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục.
Luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện phân cấp quản lý
NSNN.
Chương 2: Thực trạng phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2004-2009.
Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện phân cấp
quản lý ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.


4

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN

1.1.1. Ngân sách Nhà nước và tổ chức hệ thống Ngân sách Nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm và vai trò Ngân sách Nhà nước
Có nhiều quan niệm về Ngân sách Nhà nước. Các nhà nghiên cứu kinh tế
cổ điển cho rằng: Ngân sách nhà nước là một văn kiện tài chính mô tả các
khoản thu, chi của Chính phủ, được thiết lập hàng năm. Nhiều nhà nghiên cứu
kinh tế hiện đại thì cho rằng ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu
chi bằng tiền mặt trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước.
Luật ngân sách Nhà nước Việt Nam (số 01/2002/QH11 thông qua tại kỳ
họp thứ 2 Quốc hội khoá 11 ngày 16/12/2002) định nghĩa: "Ngân sách Nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong 1 năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước".
Bên cạnh những sự khác biệt trên thì các định nghĩa đều có một số
điểm chung sau:
- Ngân sách là kế hoạch hoặc dự toán thu, chi của một chủ thể nhất định,
thường là một năm - gọi là năm tài chính.
- Ngân sách nhà nước của một quốc gia là một đạo luật được cơ quan lập
pháp của quốc gia đó ban hành.
Nhìn dáng vẻ bề ngoài thì NSNN là một bản dự toán thu chi bằng tiền
của Nhà nước trong khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, dáng vẻ bề ngoài
đó lại chứa đựng những yếu tố pháp lý, những mối quan hệ cực kỳ quan trọng
và nội dung vô cùng phong phú và phức tạp. Ngân sách được dự toán thảo
luận, phê chuẩn từ cơ quan pháp quyền, được giới hạn thời gian sử dụng,


5
được quy định nội dung thu chi…, được kiểm soát bởi một hệ thống thể chế

với sự tham gia của nhân dân (như Quốc hội, cơ quan kiểm toán, những người
đóng thuế, công chúng…).
Nội dung chủ yếu của ngân sách là thu, chi nhưng không phải chỉ là các
con số, cũng không phải chỉ là quy mô, sự tăng giảm số lượng tiền tệ đơn
thuần; mà còn phản ánh chủ trương phân cấp quản lý của nhà nước; biểu hiện
các quan hệ kinh tế tài chính giữa các cấp chính quyền (cũng là cấp ngân
sách); giữa nhà nước với các chủ thể kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân
trong quá trình phân bố các nguồn lực và phân phối thu nhập mới sáng tạo.
Các quá trình sản xuất kinh doanh, gắn liền với sự vận động của các dòng
tiền: dòng tiền thu vào (quá trình tạo lập), dòng chi ra (quá trình sử dụng) của
ngân sách nhà nước (quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước). Việc tạo lập và sử
dụng ngân sách nhà nước một mặt phản ánh mức độ tiền tệ hoá, luật pháp hoá
các hoạt động của Nhà nước, bởi dự toán thu, chi ngân sách của nhà nước
được các cấp có thẩm quyền thảo luận, quyết định và phê chuẩn trong khuôn
khổ pháp luật; mặt khác, từng khoản, mục của ngân sách nhà nước chính là sự
cụ thể hoá các phân cấp quản lý, các lựa chọn kinh tế, chính trị của đất nước.
Sử dụng ngân sách Nhà nước, Nhà nước tác động vào nền kinh tế: thúc đẩy
(hay kìm hãm) sự phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ các tầng
lớp dân cư. Quá trình tạo lập, sử dụng ngân sách Nhà nước là sự thể hiện ý chí
chủ quan của Nhà nước, thông qua đó bản chất của ngân sách được hình thành.
Như vậy, bản chất của ngân sách nhà nước là quan hệ kinh tế, tài chính
giữa Nhà nước và các chủ thể khác của nền kinh tế hàng hoá trong quá trình
phân bổ, sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế, phân phối và phân phối lại
thu nhập do các chủ thể kinh tế sáng tạo ra. Bản chất kinh tế không tách rời
bản chất chính trị của ngân sách Nhà nước. Bản chất chính trị của ngân sách
Nhà nước gắn liền với bản chất của giai cấp cầm quyền.


6
Có thể nhìn nhận vai trò của ngân sách trên hai phương diện:

Một là, Nhà nước có nhiều chức năng, nhiệm vụ. Để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ đó nhà nước cần có lực lượng vật chất nhất định. Một trong
đó là ngân sách Nhà nước. Đối với bất kỳ quốc gia nào, ngân sách Nhà nước
luôn có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm nguồn tài chính cho sự thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Hai là, Ngân sách là một trong các công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng tác
động vào nền kinh tế. Ngân sách là nguồn lực đầu tư quan trọng giúp cho nền
kinh tế phát triển, điều chỉnh cơ cấu kinh tế; thúc đẩy quá trình đô thị hoá,
động viên mọi thành viên trong xã hội tham gia vào quá trình phát triển; Ngân
sách, cùng với các công cụ khác hỗ trợ sự hình thành đồng bộ các yếu tố của
kinh tế thị trường, đồng thời khắc phục các thất bại của chính nền kinh tế thị
trường, bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh, bảo đảm tính công bằng
và hiệu quả kinh tế - xã hội;
Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng, quốc gia nào cũng cần phải
xây dựng được một hệ thống ngân sách hợp lí, với việc phân cấp quản lý phù
hợp nhằm mục tiêu phân phối, sử dụng ngân sách có hiệu quả nhất.
1.1.1.2. Tổ chức hệ thống NSNN
Mặc dù các mối quan hệ kinh tế thuộc nội dung NSNN chỉ có thể ra đời
và phát triển trên cơ sở sự vận động không ngừng của các mối quan hệ tiền tệ
trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, NSNN hoàn toàn không mang
tính thụ động mà còn có tác động tích cực trở lại. Sự tác động trở lại đó của
NSNN hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước, chủ thể của Ngân sách Nhà nước,
mà rõ nhất là mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước quyết định mô hình tổ chức
hệ thống NSNN.
* Về mặt lý thuyết: tổ chức hệ thống NSNN có thể thực hiện theo hai
phương án cụ thể như sau:


7
+ Một là: NSNN được tổ chức dựa trên quan điểm coi NSNN là duy

nhất và thống nhất tức là Nhà nước chỉ có một Ngân sách, Ngân sách này đảm
bảo mọi hoạt động của bộ máy Nhà nước; Ngân sách này do Chính phủ Trung
ương quản lý và quyết định sử dụng. Tuy nhiên để phục vụ cho mục đích và
yêu cầu quản lý NSNN Chính phủ Trung ương có thể uỷ quyền cho các cấp
chính quyền Địa phương thực hiện một số nghiệp vụ cần thiết. Nhưng việc
phê duyệt dự toán, quyết toán hoặc cân đối thu chi NSNN trên địa bàn vẫn do
Nhà nước Trung ương đảm nhiệm và quyết định. Với ý nghĩa đó quan điểm
này phủ nhận sự tồn tại độc lập của NSĐP, chính quyền Địa phương không có
Ngân sách độc lập của mình.
+ Hai là: NSNN được tổ chức theo phương thức thống nhất, nhưng gồm
nhiều bộ phận độc lập tương đối hợp thành. Theo phương án này cho rằng
mỗi cấp chính quyền Nhà nước phải có Ngân sách riêng, độc lập trong hệ
thống Ngân sách Nhà nước thống nhất. Như vậy, phương án này cũng khẳng
định sự thống nhất của NSNN, nhưng đó là sự thống nhất của các khâu độc
lập trong một hệ thống chứ không phải là sự thống nhất trong bản thân một cá
thể duy nhất. Với quan điểm như vậy, ngoaì Ngân sách Trung ương do chính
quyền Trung ương quản lý và quyết định sử dụng vẫn cần thiết tồn tại Ngân
sách Địa phương do chính quyền Địa phương các cấp quản lý và sử dụng.
Trong hai phương án trên, phương án đầu tiên có ưu điểm nổi bật là nó
cho phép tập trung được toàn bộ các nguồn thu vào Nhà nước Trung ương để
bố trí chi tiêu hợp lý chi các nhu cầu thiết yếu của đất nước, chống được biểu
hiện cục bộ Địa phương, đảm bảo được sự bình đẳng giữa các Địa phương và
các vùng lãnh thổ, chấm dứt tình trạng bất hợp lý về nguồn thu và nhiệm vụ
chi giữa các Địa phương. Hạn chế của phương án này là không phát huy được
tính chủ động sáng tạo của Địa phương trong việc khai thác nguồn thu và bố
trí kinh phí phù hợp để giải quyết các nhu cầu chi trên địa bàn, tạo ra tư tưởng


8
ỷ lại, thụ động trông chờ vào trung ương. Chính quyền Nhà nước Địa phương

không có Ngân sách độc lập cũng hạn chế vai trò quản lý của mình. Hơn nữa,
bộ máy Nhà nước Trung ương không đủ mạnh, tệ quan liêu bảo thủ, nạn giấy
tờ còn nặng nề thì phương án này sẽ không mang lại hiệu quả.
Phương án thứ hai có khả năng khắc phục được hạn chế nêu trên vì đã giải
phóng chính quyền Trung ương khỏi một số nhiệm vụ thu chi phân tán ở tất cả
các Địa phương, để tập trung vào những mục tiêu kinh tế, chính trị xã hội lớn
của đất nước. Phương án này cũng tăng cường quyền hạn trách nhiệm cuả
chính quyền Địa phương trong việc chủ động khai thác nguồn thu và đảm
nhiệm các nhiệm vụ chi được giao, xoá bỏ tình trạng ỷ lại, thụ động trông chờ
vào trung ương. Tất nhiên hạn chế của phương án này là sẽ phát sinh cục bộ
Địa phương, phân hoá giữa các Địa phương (nơi giàu, nơi nghèo) và giao
nhiệm vụ thu và chi như thế nào cho các cấp chính quyền Địa phương cho phù
hợp, tránh phân tán chia cắt dẫn tới không quản lý thống nhất được NSNN.
Xét về lịch sử ra đời, bản chất và chức năng của NSNN thì tổ chức hệ
thống NSNN theo phương án hai là có cơ sở khoa học và phù hợp vì:
- Những nhân tố hình thành NSNN xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước, nó gắn liền với từng Nhà nước cụ thể, vì vậy trong mỗi cấp chính quyền
đều có nhân tố NSNN là một sự tất yếu.
- NSNN là một công cụ quản lý Nhà nước là quỹ tiền tệ của Nhà nước,
phục vụ chức năng của Nhà nước. Vậy Nhà nước Trung ương và Nhà nước
Địa phương có Ngân sách là một sự cần thiết khách quan, vì đó đều là Nhà
nước chính thống.
- NSTW vẫn giữ được vai trò tập trung vì nhiệm vụ thu chi và cân đối của
Ngân sách Địa phương đều do chính quyền Trung ương quy định và chi phối.
- Tồn tại NSTW và NSĐP vẫn đảm bảo sự thống nhất của NSNN vì các
khoản thu ở Trung ương hay Địa phương đều là thu NSNN, các khoản Trung


9
ương chi hay Địa phương chi đều là các khoản chi NSNN. Vấn đề phân chia

chỉ là tương đối trong sự thống nhất chung của NSNN.
Vấn đề hạn chế của hai phương án này là cục bộ và phân hoá như nêu
trên hoàn toàn là yếu tố chủ quan, bản thân sự tồn tại NSĐP không tạo nên
hạn chế đó.
Do vậy tổ chức hệ thống Ngân sách Nhà nước trên thực tế được kết hợp
cả hai phương án nhưng về hình thức thì nặng theo phương án hai. Cụ thể là ở
các nước hệ thống NSNN đều được tổ chức phù hợp với hệ thống hành chính
theo luật cơ bản (Hiến pháp) quy định. Có hai mô hình tổ chức hệ thống hành
chính là mô hình Nhà nước liên bang và mô hình Nhà nước thống nhất (phi
liên bang). Do đó cũng tồn tại hai mô hình tổ chức hệ thống NSNN.
+ Hệ thống NSNN ở các nước có mô hình tổ chức hành chính liên bang
(như Mỹ, Đức, Canada…vv) được tổ chức theo 3 cấp: Ngân sách liên bang,
Ngân sách bang và Ngân sách Địa phương.
+ Ở các nước có mô hình tổ chức hành chính thống nhất (Anh, Pháp, ý,
Nhật…vv) hệ thống NSNN gồm Ngân sách Trung ương và Ngân sách của các
cấp chính quyền Địa phương (gọi là NSĐP).
Tổ chức hệ thống NSNN ở các nước nói trên có những đặc điểm chung là:
- Ngân sách cấp dưới không thể hiện vào Ngân sách cấp trên và Ngân
sách cấp trên không bao gồm Ngân sách Ngân sách cấp dưới. Mỗi cấp chính
quyền Nhà nước tự lập, xét duyệt và chấp hành Ngân sách cấp mình. Muốn
biết tổng số thu chi của NSNN phải cộng Ngân sách của tất cả các cấp từ
Trung ương đến Địa phương.
- Trong hệ thống NSNN vai trò chủ yếu đều thuộc về Ngân sách Trung
ương. Chính phủ Trung ương thâu tóm các nguồn thu quan trọng và đảm nhận
các nhiệm vụ thu chi chủ yếu nhất.


10
- Ngân sách Địa phương đóng vai trò phụ thuộc. Nguồn thu của NSĐP
thường là các nguồn thu "loại 2", nhưng thông thường luôn nhỏ hơn nhiệm vụ

chi giao cho Địa phương. Do vậy, NSĐP một mặt phải nhận trợ cấp từ NSTW,
mặt khác chính quyền Địa phương phải tiến hành các biện pháp vay nợ để bù
đắp thiếu hụt Ngân sách. Cả hai biện pháp này đều dẫn tới sự phụ thuộc của
chính quyền Địa phương vào Chính phủ Trung ương thông qua việc cân đối
trợ cấp và xem xét việc cho vay nợ. Thực chất cấp NSĐP không phải là một
cấp Ngân sách đầy đủ vì chưa đủ nguồn thu để cân đối mà phải nhận trợ cấp
từ trên xuống.
Ở Việt Nam theo hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 quy
định có 4 cấp hành chính là: Trung ương, Tỉnh (Thành phố trực thuộc TW);
Huyện, quận, thị xã (thành phố trực thuộc tỉnh); Xã, phường và thị trấn. Nói
tóm lại, tổ chức hành chính gồm: Chính quyền trung ương; chính quyền Địa
phương (tỉnh, huyện, xã). Ở mỗi cấp vẫn tồn tại UBND và HĐND; trong đó
HĐND có nhiệm vụ ra nghị quyết về kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội và
Ngân sách. Về tổ chức hệ thống NSNN qua nhiều lần phân cấp, bổ sung, sửa
đổi, thực tế hiện nay theo quy định tại điều 4 của Luật NSNN thì Ngân sách
Nhà nước gồm: Ngân sách Trung ương và Ngân sách Địa phương (NSĐP bao
gồm Ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có HĐND).
Trong hệ thống NSNN, NSTW chi phối phần lớn các nguồn thu và
khoản chi quan trọng, là Ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn
tài chính quốc gia và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu có tính chất huyết mạch
của cả nước. NSTW phản ảnh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai trò chủ
đạo trong hệ thống NSNN, nó cấp phát kinh phí cho yêu cầu yêu cầu thực
hiện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước Trung ương và là trung
tâm điều hoà hoạt động của NSĐP. NSĐP là tên chung để chỉ các cấp Ngân
sách của các cấp chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các


11
cấp, được giao nhiệm đảm nhận các khoản thu và nhiệm vụ chi có tính chất
Địa phương (phản ảnh nhiệm vụ thu chi theo vùng lãnh thổ), đảm bảo tổ chức

quản lý toàn bộ Kinh tế - Xã hội của chính quyền cùng cấp.
Trong hệ thống NSNN, trong mối quan hệ với NSTW, NSĐP vừa có vị
trí độc lập, vừa có vị trí phụ thuộc. Tại hầu hết các nước, vai trò chủ yếu trong
hệ thống NSNN đều thuộc về NSTW. Chính phủ Trung ương thâu tóm các
nguồn thu quan trọng nhất và đảm nhận các nhiệm vụ chi chủ yếu nhất. NSĐP
đóng vai trò phụ thuộc, nguồn thu của NSĐP thường là các nguồn thu "loại 2"
bao gồm các khoản thuế được phân cấp, phí và lệ phí Địa phương, các khoản
thu đóng góp và phần quan trọng là trợ cấp từ NSTW. Địa phương không
được phép ban hành các sắc thuế và thuế suất. Về chi, bên cạnh nhiệm vụ chi
cho bộ máy quản lý Địa phương và cho các dịch vụ công cộng (cơ sở hạ tầng,
giao thông, điện, nước…vv) NSĐP còn phải đảm nhận các nhiệm vụ chi quan
trọng về giáo dục, y tế và đảm bảo xã hội.
Tình trạng phổ biến hiện nay ở các nước là nhiệm vụ chi giao cho Địa
phương luôn luôn lớn hơn khả năng nguồn thu được phân cấp. Do đó; một
mặt NSĐP phải nhận trợ cấp từ NSTW và nhiều trường hợp phải vay nợ để bù
đắp thiếu hụt Ngân sách theo quy định của Chính phủ. Cả hai biện pháp này
đều dẫn tới sự phụ thuộc của chính quyền Địa phương vào Chính phủ Trung
ương và sự kiểm soát chặt chẽ của Chính phủ đối với các Địa phương cả về
mặt Ngân sách. Thông qua trợ cấp, Chính phủ kiểm soát về mặt tài chính,
điều chỉnh kinh tế, chính trị của chính quyền Địa phương. Tuy nhiên ở từng
nước và trong từng giai đoạn, vị trí phụ thuộc của NSĐP trong mối quan hệ
với NSTW có sự biến động đáng kể.
NSNN ở các nước tư bản hiện nay có đặc điểm chung là Ngân sách cấp
dưới không thể hiện vào Ngân sách cấp trên và ngược lại, Ngân sách cấp trên
không bao gồm Ngân sách cấp dưới. Mỗi cấp chính quyền tự lập, xét duyệt và


12
chấp hành Ngân sách cấp mình. Muốn biết tổng số thu, chi của NSNN phải
cộng Ngân sách của tất cả các cấp từ Trung ương tới Địa phương.

Vị trí độc lập của NSĐP được thể hiện ở các cấp chính quyền có quyền
độc lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách cấp mình trên cơ sở chính sách,
chế độ đã ban hành. Chính quyền Địa phương được phép ban hành quy định
về một số khoản thu (phí, lệ phí và các khoản đóng góp…) tuỳ theo yêu cầu
phát triển Kinh tế - Xã hội mà ban hành một số chính sách chi. Mặt khác;
chính quyền Địa phương phải chủ động sáng tạo trong việc động viên khai
thác các thế mạnh của Địa phương để tăng nguồn thu, đảm bảo chi, thực hiện
cân đối Ngân sách.
Tổ chức bộ máy của Nhà nước ta là thống nhất từ Trung ương xuống Địa
phương. Nguồn lực tài chính quốc gia được sáng tạo ra từ trong một nền kinh tế
thống nhất được phân bổ trên các vùng lãnh thổ của quốc gia nên NSNN (bao
gồm NSTW và NSĐP) là thể thống nhất bao gồm toàn bộ các khoản thu và các
khoản chi của Nhà nước trong một năm để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước. Sự thống nhất này khác với các nước khác ở chỗ là dự toán và
quyết toán Ngân sách hàng năm bao gồm tất cả các khoản thu, chi của NSTW và
NSĐP. Dự toán và quyết toán Ngân sách hàng năm của NSĐP bao gồm tất cả
các khoản thu, chi của Ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện và Ngân sách cấp xã.
Tóm lại: Tổ chức hệ thống NSNN như đã trình bày ở trên, dù ở mô hình
hệ thống hành chính nào thì vẫn tồn tại sự phân cấp NSNN, đó là sự cần thiết
tất yếu và là yếu tố quan trọng để chính quyền Địa phương thực hiện công
cuộc phát triển Kinh tế - Xã hội của mình.
1.1.2. Phân cấp quản lý NSNN
1.1.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp quản lý NSNN được hiểu là việc xác định phạm vi trách nhiệm
và quyền hạn của chính quyền nhà nước ở mỗi cấp trong việc quản lý điều


13
hành thực hiện nhiệm vụ thu chi ngân sách nhà nước. Thực chất của phân cấp
nhà nước là giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cả về quyền hạn

và trách nhiệm đối với ngân sách nhà nước.
Trong phân cấp ngân sách thì phân cấp giữa các cấp chính quyền nhà
nước là mối quan hệ cơ bản và quan trọng nhất. Do đó khi nói đến phân cấp
tài chính, các nước đều tập trung vào quan hệ giữa các cấp chính quyền trong
lĩnh vực ngân sách.
Chế định pháp lý về phân cấp ngân sách bao gồm các qui phạm pháp luật
xác định quyền hạn, nhiệm vụ của các cấp chính quyền nhà nước trong việc
quản lý và điều hành ngân sách. Ở nước ta luật ngân sách nhà nước năm 1996
và năm 2002 đều nhấn mạnh phân cấp ngân sách dưới góc độ giải quyết các
mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước Trung ương với chính quyền nhà
nước địa phương trong toàn bộ hoạt động ngân sách nhà nước.
Như vậy phân cấp ngân sách có thể được hiểu là việc giải quyết mối quan
hệ giữa các cấp chính quyền nhà nước về trách nhiệm và quyền hạn trong việc
quyết định và quản lý hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước ở cấp mình, nhằm
thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ được pháp luật qui định.
Nói cách khác, phân cấp ngân sách là sự chuyển giao trách nhiệm và quyền
hạn từ cấp Trung ương xuống các cấp chính quyền bên dưới trong việc quyết
định và quản lý ngân sách nhà nước, bảo đảm cho các cấp chính quyền có sự tự
chủ nhất định về tài chính để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản của phân cấp QLNS Nhà nước
Với định chế tổ chức hệ thống Nhà nước gồm nhiều cấp chính quyền,
trong đó ngân sách được coi là phương tiện vật chất chủ yếu để mỗi cấp chính
quyền thực hiện các nhiệm vụ, chức năng theo Hiến định và theo Luật định
thì phân cấp quản lý ngân sách là nội dung chủ yếu của phân cấp quản lý tài


14
chính và về thực chất đó là sự giải quyết các quan hệ về ngân sách giữa chính
quyền nhà nước Trung ương và chính quyền nhà nước địa phương thể hiện
trên các mặt chủ yếu sau:

1.1.2.2.1. Thẩm quyền ngân sách: là sự phân định quyền hạn, trách
nhiệm của Chính phủ và chính quyền địa phương trong các vấn đề chủ yếu
của ngân sách như: quyết định dự toán; phân bổ dự toán ngân sách; phê chuẩn
quyết toán ngân sách: quyết định dự toán; phân bổ dự toán ngân sách; phê
chuẩn quyết toán ngân sách; điều chỉnh dự toán ngân sách; ban hành chế độ,
tiêu chuẩn định mức về ngân sách.
a) Quốc hội: làm luật và sửa đổi luật trong lĩnh vực ngân sách nhà nước;
Quyết định phân cấp quản lý tài chính, tiền tệ quốc gia để góp phần phát triển
kinh tế, bảo đảm cân đối thu, chi ngân sách nhà nước; Quyết định dự toán
ngân sách nhà nước với tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn bù
đắp; Quyết định phân bổ ngân sách nhà nước theo từng loại thu, từng lĩnh vực
chi và theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ;
Quyết định danh mục các chương trình, dự án quốc gia, các công trình xây
dựng cơ bản quan trọng được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước; Quyết
định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết; Giám
sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, phân cấp quản lý tài chính, tiền tệ quốc
gia, Nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước hàng năm, các chương
trình, dự án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản quan trọng; Phê chuẩn
quyết toán ngân sách nhà nước.
Căn cứ vào quyết định của Quốc hội về ngân sách nhà nước hàng năm,
Quốc hội giao Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định phương án phân bổ
ngân sách Trung ương cho từng bộ, ngành và mức bổ sung từ ngân sách
Trung ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Chính phủ
trình và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất.


15
b) Các cơ quan của Quốc hội: có trách nhiệm giúp Quốc hội trong thực
hiện pháp luật về ngân sách nhà nước, trong đó:
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội: ban hành văn bản pháp luật về lĩnh vực

ngân sách Nhà nước được Quốc hội giao; Thực hiện nhiệm vụ của Quốc hội
giao về quyết định phương án phân bổ ngân sách Trung ương; Giám sát việc
th hành pháp luật về ngân sách, phân cấp quản lý tài chính, tiền tệ quốc gia,
Nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước hàng năm.
- Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội: thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh và các dự án khác về lĩnh vực ngân sách; Thẩm tra dự toán ngân sách
nhà nước, phân bổ ngân sách nhà nước, các báo cáo về việc thực hiện ngân
sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước do Chính phủ trình Quốc
hội; Thẩm tra phương án phân bổ ngân sách Trung ương cho từng Bộ, ngành
và mức bổ sung từ ngân sách Trung ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương do Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Giám sát hoạt
động của Chính phủ, các ngành, các cấp trong việc thực hiện ngân sách nhà
nước và việc thực hiện pháp luật về ngân sách của các tổ chức và cá nhân;
Kiến nghị với Quốc hội các vấn đề về ngân sách, tài chính và tiền tệ.
c) Chính phủ quản lý, tổ chức triển khai và kiểm tra việc thực hiện dự
toán ngân sách nhà nước:
Theo quy định của Luật, Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội và các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về ngân sách nhà
nước; ban hành các văn bản pháp quy về ngân sách nhà nước theo thẩm
quyền; Lập và trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân
sách nhà nước, dự toán điều chỉnh ngân sách nhà nước trong trường hợp cần
thiết; Lập và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phương án phân bổ cụ thể
ngân sách Trung ương; Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách


16
cho từng bộ, ngành; nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung từ ngân sách Trung
ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thống nhất phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản

lý ngành và địa phương trong việc thực hiện ngân sách nhà nước; Tổ chức và
kiểm tra việc thực hiện ngân sách nhà nước, báo cáo Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước, các chương
trình, dự án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản quan trọng; Quy định
nguyên tắc, phương pháp tính toán việc bổ sung nguồn thu từ ngân sách cấp
trên cho ngân sách cấp dưới; Quy định chế độ sử dụng khoản dự phòng ngân
sách nhà nước và quản lý quỹ dự trữ tài chính; Quy định hoặc uỷ quyền cho
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định các chế độ, tiêu chuẩn, định mức
chi ngân sách nhà nước để thi hành thống nhất trong cả nước; Kiểm tra Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân về dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách.
d) Nhiệm vụ, quyền hạn và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước trong lĩnh vực NSNN
- Đối với Bộ Tài chính
+ Chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh vực tài
chính - NSNN trình Chính phủ; ban hành các văn bản pháp quy về tài chính NSNN theo thẩm quyền. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng
thống nhất phân cấp quản lý ngân sách nhà nước về công tác thu thuế, phí, lệ phí
và các khoản thu khác của ngân sách nhà nước; Thống nhất quản lý các khoản
vay và trả nợ của Chính phủ, quản lý tài chính các nguồn viện trợ quốc tế.
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện ngân sách nhà nước; tổ chức thực
hiện thu ngân sách nhà nước và cấp phát các khoản chi của ngân sách nhà
nước; cho vay ưu đãi hoặc hỗ trợ tài chính đối với các dự án chương trình
mục tiêu kinh tế của Nhà nước theo quy định của Chính phủ.


17
+ Hướng dẫn, kiểm tra các Bộ, cơ quan khác ở Trung ương và các địa
phương xây dựng dự toán ngân sách nhà nước hàng năm; chủ động phối hợp
với các cơ quan hữu quan ở Trung ương và địa phương lập dự toán ngân sách
nhà nước, phân bổ ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách
Trung ương trình Chính phủ; đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện phân cấp

quản lý tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước.
+ Chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành trong việc xây dựng các chế độ,
tiêu chuẩn định mức chi ngân sách nhà nước trình Chính phủ quyết định hoặc
quyết định theo phân cấp của Chính phủ để thi hành thống nhất trong cả nước.
+ Thanh tra, kiểm tra tài chính đối với tất cả các tổ chức kinh tế, các đơn
vị hành chính sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà
nước và sử dụng ngân sách nhà nước.
+ Quản lý quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ khác của nhà nước;
+ Lập quyết toán ngân sách Trung ương, tổng hợp, lập quyết toán ngân
sách nhà nước trình Chính phủ. Tổ chức quản lý, kiểm tra việc sử dụng tài sản
của nhà nước.
- Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
+ Trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước
và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó có cân đối tài chính
tiền tệ, vốn đầu tư XDCB làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính,
ngân sách;
+ Phối hợp với Bộ Tài chính lập dự toán và phương án phân bổ ngân
sách nhà nước trong lĩnh vực phụ trách.
+ Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành hữu quan kiểm tra đánh
giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản.
- Đối với Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
+ Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc lập dự toán ngân sách nhà nước
đối với kế hoạch và phương án vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước;


18
+ Tạm ứng cho ngân sách nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân
sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Đối với các Bộ, cơ quan nhà nước chuyên ngành:
+ Phối hợp với Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong quá trình

lập, phân bổ và quyết toán ngân sách nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực phụ
trách; nhất là các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực quan trọng: Bộ Giáo dục - Đào
tạo, Bộ Y tế, Bộ Văn hoá Thông tin,…
+ Phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra theo dõi tình hình thực hiện ngân
sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
+ Báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành,
lĩnh vực phụ trách theo chế độ quy định.
+ Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng chế độ, tiêu chuẩn định
mức chi ngân sách nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
- Hội đồng nhân dân: Quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa
phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; Quyết định các chủ
trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; Quyết định điều
chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; Giám sát việc
thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định. Đối với Hội đòng
nhân dân cấp tỉnh được quyền quyết định thu một số khoản thu về phí, lệ phí,
các khoản phụ thu theo quy định của Chính phủ trong trường hợp có nhu cầu
đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách tỉnh đảm
bảo mà vượt quá khả năng cân đối của ngân sách tỉnh thì được phép huy động
vốn đầu tư trong nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ để đầu tư.
- Uỷ ban nhân dân: Lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa
phương, dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết
trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính
Nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
1.1.2.2.2 Phân định nội dung cụ thể về từng nguồn thu, nhiệm vụ chi


19
giữa các cấp ngân sách: là sự phân chia giữa ngân sách Trung ương (NSTW)
và ngân sách địa phương (NSĐP) cũng như giữa các cấp ngân sách địa phương
về nguồn thu và nhiệm vụ chi. Nói cách khác, đó là sự xác định NSTW được

thu những khoản gì và phải chi những khoản gì; ngân sách tỉnh, ngân sách
huyện, ngân sách xã được thu những khoản gì và phải chi những khoản gì.
Nguồn thu từ các khoản thu mà ngân sách Trung ương được hưởng 100%
Bao gồm: Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu; thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu; thuế thu nhập doanh
nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành (Bộ trưởng Bộ Tài chính công bố
cụ thể các đơn vị hạch toán toàn ngành); các khoản thuế và thu khác từ các
hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, tiền thuê mặt đất, mặt nước; tiền thu hồi
vốn của ngân sách Trung ương tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay của
ngân sách Trung ương (cả gốc và lãi), thu từ quỹ dự trữ tài chính của Trung
ương, thu nhập từ vốn góp của ngân sách Trung ương. Viện trợ không hoàn lại
của Chính phủ các nước, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho
Chính phủ Việt Nam; phần nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp
luật từ các khoản phí và lệ phí do các cơ quan, đơn vị thuộc Trung ương tổ
chức thu không kể phí xăng, dầu và lệ phí trước bạ; phần nộp ngân sách theo
quy định của pháp luật các khoản thu sự nghiệp của các đơn vị do các cơ quan
Trung ương trực tiếp quản lý; chênh lệch thu lớn hơn chi của ngân hàng Nhà
nước Việt Nam; thu kết dư ngân sách Trung ương; thu chuyển nguồn ngân
sách từ ngân sách Trung ương năm trước chuyển sang; các khoản phạt tịch
thu và thu khác của ngân sách Trung ương theo qui định của pháp luật.
Nguồn thu từ các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100%
Bao gồm: Thuế nhà, đất; Thuế tài nguyên không kể thuế tài nguyên thu
được từ hoạt động dầu khí; Thuế môn bài; thuế chuyển quyền sử dụng đất; tiền
cho thuê đất, thuê mặt nước không kể tiền thuê mặt nước thu từ hoạt động dầu
khí; tiền đền bù thiệt hại đất; Tiền thuê bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; lệ phí


20
trước bạ; thu từ hoạt động sổ số kiến thiết; thu nhập từ vốn góp của ngân sách
địa phương; tiền thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các cơ sở kinh tế,

thu từ quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh (theo quy định của Nghị định
60/2003/NĐCP ngày 6/6/2003, Điều 58); Viện trợ không hoàn lại của các tổ
chức cá nhân nước ngoài trực tiếp cho địa phương theo qui định của pháp luật.
Phần nộp ngân sách theo qui định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí
do các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu, không kể phí xăng, dầu
và lệ phí trước bạ; Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác; Phần
nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản thu sự nghiệp của các
đơn vị do địa phương quản lí. Huy động từ các tổ chức cá nhân theo quy định
của pháp luật; đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân ở trong và ngoài
nước; Thu từ huy động xây dựng.
Các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định tại khoản 3 điều 8 của Luật
ngân sách nhà nước; thù từ kết dư ngân sách địa phương; Các khoản phạt, tịch
thu và thu khác của ngân sách địa phương theo qui định của pháp luật; thu bổ
xung từ ngân sách cấp trên; thu chuyển nguồn từ ngân sách địa phương năm
trước sang ngân sách địa phương năm sau.
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách Trung ương và
ngân sách địa phương
Do điều kiện kinh tế - xã hội, tự nhiên của các địa phương khác nhau,
trình độ phát triển không đều, do đó, số thu và yêu cầu chi của các địa phương
không giống nhau. Vì vậy, ngoài các khoản thu từng cấp được hưởng 100%
nêu trên. Luật ngân sách năm 2002 ở nước ta cũng quy định có một số khoản
thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách các cấp Trung ương và địa phương
(tỉnh, thành phố). Các khoản đó là: thuế giá trị gia tăng (không kể thuế giá trị
gia tăng hàng hoá nhập khẩu) và thuế giá trị gia tăng thu từ hoạt động xổ số
kiến thiết; Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập doanh nghiệp


×