Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.94 KB, 78 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.......................................................................................5
1.1 Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước và hoạt động tố tụng.........................5
1.1.1 Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước...........................5
1.1.2 Sự cần thiết của hoạt động kiểm sát trong hoạt động tố tụng...............................9
1.2 Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự...............................10
1.2.1 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự..............................10
1.2.2 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng tại Tòa án.................................................................................................13
1.3 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua các
giai đoạn phát triển...........................................................................................................14
1.3.1 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng từ năm 1945 đến
1960...............................................................................................................................14
1.3.2 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự từ năm 1960
đến năm 1989................................................................................................................16
1.3.3 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự từ năm 1989
đến nay..........................................................................................................................18
1.4 Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo pháp luật một số
nước trên thế giới..............................................................................................................21
1.4.1 Vị trí vai trò của Viện công tố Pháp trong tố tụng dân sự...................................21
1.4.2 Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát Liên Bang Nga trong tố tụng dân sự.................22
1.4.3 Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân Trung Quốc trong tố tụng dân sự......23
1.4.4 Vị trí, vai trò của cơ quan Công tố Hoa Kỳ trong tố tụng dân sự.......................25
1.4.5 Vị trí, vai trò cơ quan Công tố Nhật Bản trong tố tụng dân sự...........................26
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH......................................................................................28
2.1 Kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự........................................................................28
2.1.1 Hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm..............28
2.1.1.1 Kiểm sát hoạt động thụ lý, chuẩn bị xét xử sơ thẩm..................................28
2.1.1.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm.................31


2.1.1.3 Kiểm sát việc tuyên án; kiểm sát biên bản phiên tòa và hoạt động của Viện
kiểm sát sau phiên tòa............................................................................................34
2.1.2 Hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm..........35


2.1.2.1 Kháng nghị phúc thẩm...............................................................................35
2.1.2.2 Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phúc thẩm giải quyết vụ án dân sư.......38
2.1.3 Hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự trong thủ tục đặc biệt..............40
2.1.3.1 Hoạt động của Viện kiểm sát trước khi mở phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm........................................................................................................................40
2.1.3.2 Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.......................42
2.1.3.3 Kiểm sát hoạt động xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao...............................................................42
2.2 Kiểm sát việc giải quyết việc dân sự..........................................................................44
2.2.1 Kiểm sát việc giải quyết việc dân sự trong thủ tục sơ thẩm.................................45
2.2.2 Kiểm sát việc giải quyết việc dân sự trong thủ tục phúc thẩm.............................46
2.2.2.1 Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân....................................................46
2.2.2.2 Viện kiểm sát tham gia phiên họp xét kháng cáo, kháng nghị...................47
2.3 Kiểm sát bản án, quyết định dân sự của Tòa án.........................................................47
2.3.1 Kiểm sát bản án...................................................................................................48
2.3.2 Kiểm sát quyết định của Toà án...........................................................................49
2.4 Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo và thi hành án trong tố tụng dân sự..........51
2.4.1 Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Toà án trong tố tụng dân sự.......51
2.4.2 Kiểm sát việc thi hành án dân sự.........................................................................52
CHƯƠNG III: THỰC TIỄN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ...............................................................................................55
3.1 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân qua thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng dân sự. 55
3.1.1 Thực tiễn công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự của Viện kiểm sát nhân
dân.................................................................................................................................55

3.1.2 Những vướng mắc qua thực tiễn áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự......................................................................................................66
3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự............................................................................71


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Những năm vừa qua Đảng và nhà nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới cải
cách toàn diện về nhiều mặt từ kinh tế, xã hội đến pháp luật, nhằm xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do dân, vì dân, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để đạt được mục tiêu đó, một
trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay là đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp,
đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xác định rõ nhiệm vụ quyền hạn
cho các cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo cho các cơ quan nhà nước nói chung và
các cơ quan tư pháp nói riêng hoạt động có hiệu quả, trong đó việc hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện tốt chức năng
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là một đòi hỏi có tính cấp bách và chiến
lược. Điều này đã được khẳng định một lần nữa tại Nghị quyết đại hội lần thứ X:
“Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nhận thức
rõ được tầm quan trọng của nhiệm vụ trên, trong những năm qua để dần hoàn thiện
và thực hiện tốt chức năng của mình Viện kiểm sát nhân dân đã tiến hành nhiều
công tác kiểm sát khác nhau trong đó có công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và các việc
khác theo quy định của pháp luật (gọi chung là các vụ việc dân sự theo nghĩa rộng)
theo trình tự tố tụng dân sự.
Trên cơ sở cải cách tư pháp, tại kỳ họp thứ 5, diễn ra từ ngày 11/5 đến ngày
15/6 năm 2004, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự (có hiệu lực

từ ngày 1/1/2005) đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng đối với Viện kiểm sát
nhân dân, trước khi Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) có hiệu lực, chức năng kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân là tất cả các vụ việc dân sự từ khâu đâu tiên thụ lý
đơn cho đến khi thi hành xong bản án có hiệu lực của Tòa án, nhưng sau khi
BLTTDS có hiệu lực phạm vi trên bị thu hẹp, không còn được đầy đủ như trong quy
định tại Điều 21 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2002. Theo quy định tại Điều
25, 27, 29, 31 BLTTDS (2004) Viện kiểm sát nhân dân chỉ tham gia kiểm sát đối
với những vụ án mà Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại;
đối với những việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; đối với những
vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị (theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm). Tuy nhiên, sau 6 năm thực hiện, BLTTDS đã bộc lộ nhiều
điểm hạn chế, bất cập và dù đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2011 nhưng hiện nay


2

việc thực hiện BLTTDS vẫn gặp phải những khó khăn nhất định, ảnh hưởng đến sự
hoạt động có hiệu quả của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện quyền công
tố và giám sát việc tuân theo pháp luật: giảm chức năng giám sát 100% các vụ việc
dân sự của Viện kiểm sát nhân dân đã dẫn đến tình trạng có quá nhiều án sai, cải
sửa, hủy án trong phạm vi cả nước, tỷ lệ án bị kháng cáo cũng tăng cao, làm hiệu
quả của hoạt động tư pháp bị kéo xuống theo.
Do đó, việc làm rõ “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự”
là một yêu cầu hết sức cần thiết hiện nay, với mong muốn có thể làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về sự tham giam của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự, trên cơ sở đó hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam nói chung, pháp luật về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự nói riêng, đồng thời đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trong việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:

Những năm qua, nhằm thực hiện hóa chủ trương về cải cách tư pháp, đã có
một số công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này được công bố trên sách báo,
tạp chí chuyên ngành; các luận văn thạc sỹ, tiến sỹ, các giáo trình giảng dạy pháp
luật liên quan có đề cập tới vấn đề này.
Có thể kể đến như: Hoàng Thế Anh_Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (Luận
văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2006); Đỗ Văn Đương_Cơ quan thực hành quyền
công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay (tạp chí chuyên ngành, Hà Nội,
2006); Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự, Trường đào tạo các chức
danh tư pháp, NXB công an nhân dân, Hà Nội, 2004; Giáo trình luật tố tụng dân sự
Trường đại học luật Hà Nội, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007; Giáo trình luật tố tụng
dân sự, trường đại học luật TP.HCM, NXB Hồng Đức, 2012; ; Phạm Vũ Ngọc
Quang_Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, tạp chí kiểm sát số
4/2005; Lưu Mỹ Linh_Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp
Huyện, luận văn thạc sĩ, 2009; Nguyễn Thị Minh Trang_Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố, luận văn thạc sĩ, 2011….
Tuy nhiên với những đề tài và bài viết trên các tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu, phân tích đến một số vai trò nhất định có liên quan đến vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự, về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân nói chung, do vậy cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu


3

một cách toàn diện và có hệ thống về “vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự”. Mặc dù vậy, các công trình, giáo trình và bài viết trên đây, sẽ là những
tài liệu có giá trị tham khao giúp khóa luận được hoàn thiện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của khóa luận:
Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về sự tham gia của Viện kiểm sát

nhân dân trong tố tụng dân sự, khóa luận nêu ra một số quan điểm, phương hướng
và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm thực hành vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo định hướng cải cách tư pháp.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên, khóa luận có một số nhiệm vụ:
Phân tích cơ sở lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự như xây dựng khái niệm và làm rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự.
Những vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung
năm 2011.
Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận tập trung nghiên cứu và đi vào làm rõ vai trò quan trọng của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự qua hoạt động xét xử của Tòa án, và nêu ra
một số bất cập, hạn chế còn tồn tại từ thực tiễn pháp luật, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận:
Khóa luận nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam, về cải cách tư pháp và xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp được khóa luận sử dụng: phân tích – tổng hợp; lịch sử - cụ
thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: so sánh, thống kê.



4

5. Những đóng góp khoa học của khóa luận:
Làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự: xây dựng khái niệm và làm rõ vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân trong từng thủ tục, giai đoạn của quá trình tố tụng dân sự theo
các quy định của pháp luật hiện hành.
Phân tích làm rõ thực trạng về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự thể hiện trong các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành, so sánh và đưa ra được những điểm mới so với các quy định trước đây (thời
điểm mới ban hành BLTTDS chưa được sửa đổi bổ sung vào năm 2011) và những
bất cập đang tồn tại.
Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đưa ra những kiến nghị, giải pháp cụ
thể để hoàn thiện pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự, nhằm đi đến hoàn thiện bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
6. Ý nghĩa của khóa luận:
Kết quả khóa luận góp phần làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận về pháp luật
nói chung và lý luận về hoàn thiện pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự nói riêng.
Khóa luận có thể dung làm tài liệu tham khảo cho quá trình nghiên cứu và học
tập cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự.
Chương II: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật hiện hành.
Chương III: Thực trạng và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.



5

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước và hoạt động tố tụng
1.1.1 Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Pháp luật ra đời cùng với sự xuất
hiện của nhà nước, đó là một điều tất yếu khách quan. Pháp luật là hiện tượng thuộc
kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhờ có pháp luật mà quyền lực nhà
nước được thực thi một cách hiệu quả, có khả năng làm dịu những mâu thuẫn và
xung đột giai cấp, giữ cho những xung đột ấy trong một giới hạn trật tự nhất định để
xã hội có thể tồn tại và pháp triển được. Xét về phương diện chủ quan, pháp luật do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận từ các quy phạm xã hội và đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh của mình, trở thành một công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội, quản lý xã hội, củng cố trật tự và ổn định xã hội, giữ
cho xã hội sự cân bằng nhất định.
Ở nước ta, ngay từ buổi đầu thành lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức được tầm quan trọng của pháp luật và quyết tâm
xây dưng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trên cơ sở thượng tôn
pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nhân dân. Một nhà nước mà trong đó
mọi cơ quan Nhà nước đều phải được tổ chức và chỉ được phép hoạt động trong
khuôn khổ quy định của pháp luật; Công dân tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp
luật; Quyền công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong Nhà nước pháp
quyền, ba ngành Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp độc lập với nhau, vai trò của Tòa
án được đề cao. Điều kiện để có một Nhà nước pháp quyền là phải có một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời. Điều này đòi hỏi công tác xây
dựng pháp luật và pháp điển hóa không ngừng được thực hiện, Nhà nước pháp
quyền dựa trên nguyên tắc dân chủ, dân chủ là nền tảng để hoàn chỉnh pháp luật,

pháp luật là công cụ để bảo vệ quyền công dân. Trên nền tảng đó, bộ máy nhà nước
ta được thành lập trên cơ sở thống nhất không có sự phân chia quyền lực mà là sự
phân công quyền lực, phối hợp hoạt động giữa ba nhánh quyền Lập pháp, Hành
pháp và Tư pháp và để quyền lực nhà nước trên cả 3 nhánh quyền lực có được sự


6

cân bằng dân chủ thì vấn đề đặt ra ở đây chính là phải có một cơ chế kiểm tra, giám
sát các hoạt động đó một cách chặt chẽ. Đầu tiên, Quốc hội với tư cách là cơ quan
quyền lực cao nhất của Nhà nước là đại biểu đại diện của toàn thể nhân dân lao
động sẽ thực hiện quyền giám sát chung của mình đối với tất cả các hoạt động của
bộ máy nhà nước; tiếp theo trên các phương diện cụ thể của mỗi nhánh quyền lực sẽ
phải có cơ chế tự giám sát và giám sát lẫn nhau, làm cho quyền lực được cân bằng;
và quan trọng là nhánh quyền lực Tư pháp phải có được sự độc lập bởi cơ quan
trung tâm của nhánh quyền lực này chính là Tòa án nhân dân, chủ thể sẽ “cầm cân
nảy mực” đưa ra các phán quyết quyết định đến quyền lợi của nhân dân, nên cần có
sự chính xác trong việc xét xử, áp dụng đúng pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, lợi ích chung của Nhà nước và toàn xã hội. Vì vậy, để
đảm bảo cho sự công bằng này không chịu tác động trước sự lạm quyền của bất kỳ
cá nhân, cơ quan, tổ chức quyền lực nhà nước nào, hay có bất kỳ sự vi phạm pháp
luật nào, thì sự giám sát của một cơ quan độc lập trong quá trình hoạt động của Tòa
án là vô cùng quan trọng. Nhận thức rõ điều đó Hồ chủ tịch và Đảng cộng sản Việt
Nam đã sớm thành lập cơ quan Công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân ngày
nay) cùng với các cơ quan chuyên chính khác như: Quân đội, Tòa án, Công an…
Ban đầu, tuy là bộ phận nằm trong hệ thống Tòa án, nhưng cơ quan Công tố hoạt
động hoàn toàn độc lập không lệ thuộc vào Chánh án mà trực thuộc Bộ tư pháp và
thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát:
Theo từ điển Luật học: “giám sát là sự theo dõi quan sát hoạt động mang tính
chủ động, thường xuyên liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích tực

để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo quy
chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho
pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh….”1. Nhìn vào bản chất của khái niệm giám
sát thì giám sát là một hoạt động có ý thức, có tổ chức, có mục đích; giám sát luôn
gắn liền với một chủ thể nhất định, xác định được đối tượng chịu sự giám sát nhất
định và thể hiện được nội dung về quyền và trách nhiệm của hai bên chủ thể trong
quan hệ giám sát. Kiểm sát hoạt động tư pháp là một chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân (sau đây gọi tắt là VKSND) các cấp, trong đó có kiểm sát hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ nghiêm
chỉnh và thống nhất.
1 Từ điển Luật học_NXB Từ điển bách khoa Hà Nội, năm 1999, trang 174


7

Trải qua quá trình phát triển từ khi chính thức được ra đời và ghi nhận như
một thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1959 với tên gọi Viện
kiểm sát nhân dân trực thuộc Hội đồng chính phủ, tiếp theo đó là trong các bản
Hiến pháp 1980, 1992 VKSND đã được quy định lại không còn trực thuộc Chính
phủ mà trực thuộc Quốc hội_ cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân; các Luật tổ
chức VKSND năm 1960, 1981 sửa đổi, bổ sung năm 1989 và hiện nay là Luật tổ
chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa các qui định của Hiến pháp và làm rõ hơn vị
trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của VKSND, đây cũng chính là cơ sở pháp lý cho
VKSND hoạt động và ngày một phát triển, vai trò quan trọng của VKSND trong
hoạt động tư pháp nói chung và tố tụng nói riêng ngày càng được khẳng định.
Có thể thấy, nhiệm vụ của VKSND tuy có ít nhiều thay đổi trong từng giai
đoạn cách mạng, nhưng tựu chung lại nhiệm vụ trọng tâm của VKSND là bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự, nhân phẩm của công dân; bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà

nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo
pháp luật.
Cho đến nay, VKSND đã trở thành cơ quan hoạt động tập trung ở hai nhiệm
vụ: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Điều đó cho thấy
ngay từ khi thành lập bộ máy nhà nước Hồ chủ tịch đã nghiên cứu và tổng kết thực
tiễn xây dựng cơ quan Công tố từng là bộ phận nằm trong hệ thống Tòa án, sau đó
là cơ quan trực thuộc Chính phủ, cuối cùng người đã lựa chọn tư tưởng của Lê-nin
về bộ máy Nhà nước Xã hội chủ nghĩa để xây dựng VKSND có vị trí độc lập. Tổng
kết hơn 50 hoạt động VKSND đã góp phần to lớn vào việc đấu tranh có hiệu quả
đối với mọi loại tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp
luật, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế
xã hội2.
Vị trí của VKSND trong bộ máy nhà nước ta được quy định bởi các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hôi chủ nghĩa Việt Nam
được ghi nhận trong Hiến pháp. Bên cạnh Quốc hội, bộ máy nhà nước Việt Nam
còn có ba hệ thống cơ quan quan trong khác, trong đó có hệ thống cơ quan kiểm sát

2 Lê Thành Dương: “Chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam”, tạp chí kiểm sát số 13
(tháng 7/2012), trang 35.


8

(Viện kiểm sát nhân dân các cấp_Điều 127 Hiến pháp). Viện kiểm sát nhân dân hiện
nay ở Việt Nam là một hệ thống cơ quan độc lập và thống nhất.
Tính thống nhất của nó được thể hiện ở hệ thống tổ chức gồm 3 cấp:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (hiện có 63 VKSND cấp tỉnh); Viện kiểm sát nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (hiện có 691 VKSND cấp huyện tại 691 quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).

Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có các Viện kiểm sát quân sự, gồm:
Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu, Quân
chủng, Quân đoàn, Viện kiểm sát quân sự cấp Khu vực.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các
Viện kiểm sát quân sự. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân địa phương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện trưởng,
Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương,
Viện kiểm sát quân sự khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Viện kiểm sát quân sự Trung ương đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Tính độc lập được bảo đảm thực hiện bằng nguyên tắc tập trung thống nhất
lãnh đạo trong ngành và độc lập với các cơ quan nhà nước khác, thể hiện ở việc
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội, hoặc trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong thời gian
Quốc hội không họp. Tại địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân chịu
trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn, kiến
nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Vị trí và chức năng đó là hoàn toàn phù hợp cho việc phát huy vai trò và tính
chất của cơ quan giám sát công quyền. Hơn nữa, ta thấy để có đủ sức mạnh bảo vệ
cho lợi ích chung của nhân dân, của Nhà nước và duy trì pháp luật, bảo đảm cho


9


pháp luật và lợi ích của nhân dân được tôn trọng và phát huy trên thực tế, góp phần
ổn định tình hình xã hội, thúc đẩy sự phát triển hội nhập kinh tế quốc tế của đất
nước thì ta phải trang bị cho VKSND một vị trí đứng, và một quyền lực thực sự
hoàn toàn độc lập chỉ đứng trên lập trường của mình để làm việc.
1.1.2 Sự cần thiết của hoạt động kiểm sát trong hoạt động tố tụng
Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu
hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và vi phạm, góp phần bảo vệ công lý, quyền con người, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, trong hoạt động tố tụng
của Tòa án không thể thiếu sự tham gia kiểm tra, giám sát của VKSND. Nhiệm vụ
này lại càng trở nên quan trọng hơn, khi mà Việt Nam đang ngày càng phát triển và
mọi vấn đề đều có hai mặt của nó: hội nhập cùng với thế giới mang đến cho Việt
Nam những cơ hội vô cùng lớn để phát triển đất nước về mọi mặt từ kinh tế, chính
trị, giáo dục, khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng,…nhưng cũng mang đến cho chúng ta
những thách thức vô cùng lớn trong quá trình quản lý xã hội, quản lý đất nước.
Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình thực hiện
chức năng kiểm tra giám sát quá trình tố tụng và áp dụng pháp luật của Tòa án
nhằm hạn chế sự lạm quyền của các chủ thể mang quyền lực công khi thực thi công
quyền. Hiện nay khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các vụ án dân sự
ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn tính chất phức tạp nhiệm vụ này lại càng quan
trọng. Đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất là một
đòi hỏi khách quan xuất phát từ tính chất và mục đích của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó vai trò của ngành kiểm sát là
không thể thiếu được.
Việc tham gia kiểm sát tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân có những ý nghĩa
rất lớn:
Đối vối hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nói
riêng: Với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của mình VKSND trong phạm vi

thẩm quyền của mình đã thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp trong hành vi của
các chủ thể thuộc đối tượng kiểm sát; tham gia quá trình xét xử của Tòa án để theo
dõi, giám sát và phát hiện kịp thời, kiến nghị sửa chữa và khắc phục khi Tòa án áp
dụng các trình tự thủ tục luật định có sai sót hoặc vi phạm pháp luật; kiểm sát các


10

bản án, quyết định để thực hiện quyền kháng nghị đối với Tòà án, giúp Tòa án phát
hiện ra những sai lầm, thiếu sót của mình (nếu có) ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người dân, của Nhà nước. Từ đó nâng cao được chất lượng của các
bản án, quyết định, tăng cường được uy tín của hệ thống tư pháp trong lòng nhân
dân, đồng thời góp phần tích cực trong việc tuyên truyền và giáo dục ý thức pháp
luật cho người dân.
Đối với những chủ thể bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp: Những tranh
chấp về dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân gia đình (gọi chung là
các vụ việc dân sự theo nghĩa rộng) thường là những tranh chấp về tài sản, lợi ích
vật chất của đương sự; còn đối với các vụ việc hình sự thì lại ảnh hưởng trực tiếp
đến danh dự nhân phẩm, quyền con người, đồng thời tác động đến lợi ích chung của
Nhà nước và trật tự xã hội… nên việc kiểm sát, giám sát chặt chẽ quá trình tố tụng
của Viện kiểm sát sẽ giúp cho việc bảo vệ được quyền lợi và ích của đương sự, cũng
như Nhà nước được tốt hơn, góp phần giữ vững ổn định trật tự xã hội.
Đối với việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa: Đây được xem là một chức
năng vô cùng quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình kiểm sát hoạt
động tố tụng, đã được quy định tại Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2002. Để thực
hiện thành công mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp quyền theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, thì việc luôn luôn tuân thủ pháp luật là điều bắt buộc, điều này đòi
hỏi Viện kiểm sát phải thường xuyên phối hợp với các cơ quan nhà nước khác kiểm
tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật, xử lý nghiêm minh và nhanh
chóng những vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đặc

biệt, vì hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm của quá trình tố tụng, nên việc giữ
vững cho hoạt động này tránh những sai lầm, thiếu sót cũng chính là biểu hiện cụ
thể của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của VKSND không chỉ
giúp cho nền tư pháp trong sạch mà còn hướng đến việc xây dựng một nền tư pháp
vững mạnh, bảo đảm pháp chế hiện diện với đầy đủ ý nghĩa của nó.
1.2 Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
1.2.1 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự
Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự là những cơ quan Nhà nước có chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói


11

riêng quy định nhằm thực hiện nhiệm vụ giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự; hoặc
kiểm tra giám sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động dân sự 3.
Theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, VKSND là một trong
những cơ quan tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng để thực hiện chức năng kiểm tra,
giám sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố tụng dân sự. Điều 20
Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ
án đúng pháp luật, kịp thời”.
Khi tham gia tố tụng với vai trò là cơ quan tiến hành tố tụng VKSND thực
hiện những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định, theo quy định của pháp luật
hiện hành được xác định như sau:
VKSND kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ, hoạt động của những người tiến hành
và tham gia tố tụng từ thủ tục sơ thẩm đến thủ tục phúc phẩm.
Tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến, theo quy định tại Điều 21 BLTTDS
2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011(sau đây gọi tắt là BLTTDS) đã quy định rõ những
nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

tố tụng dân sự: tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự, các phiên
tòa do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản
công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất nhà ở hoặc có một bên đương sự là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất và tâm thần; tham gia
phiên tòa phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ
việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật
VKSND cũng có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân đang giải
quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
hoặc việc Thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời; yêu cầu, kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và cấp dưới bảo đảm việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật.
VKSND kiểm sát hoạt động thi hành án, yêu cầu cơ quan thi hành án, chấp
hành viên ra quyết định thi hành đúng quy định của pháp luật, cung cấp tài liệu liên
quan đến việc thi hành…và kháng nghị các quyết định về thi hành án4.
3 ĐH Luật TP.HCM, Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức, năm 2012, trang 57.
4 ĐH Luật TP.HCM, Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức, năm 2012, trang 64, 65.


12

Có thể thấy so với các quy định trước đây đối với hoạt động tố tụng, chức
năng, nhiệm vụ của VKSND đã có nhiều sự thay đổi sau khi BLTTDS 2004 ra đời
và được sửa đổi năm 2011:
Phạm vi tham gia phiên toà và thẩm quyền cụ thể của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự đã có nhiều sửa đổi, bổ sung khác trước: Viện kiểm sát không tham gia
100% các phiên toà như quy định tại Điều 21 Luật tổ chức VKSND năm 2002 mà
theo Điều 21 BLTTDS chỉ giới hạn tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc
dân sự, các phiên tòa do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh
chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên

đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất và tâm thần;
tham gia phiên tòa phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Viện kiểm sát không thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự là thẩm quyền
đã được quy định cho Viện công tố và Viện kiểm sát trong 34 năm từ năm 1950 đến
năm 2004…) mà một trong những phương thức hoạt động chủ yếu là phải tập trung
kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết và xử lý vụ việc dân sự của Toà án để
góp phần đảm bảo các quyết định này có căn cứ và hợp pháp.
Về phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm (Điều 234
BLTTDS) đã có sự sửa đổi cơ bản về nội dung quyền phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát tại phiên toà. Theo đó, Kiểm sát viên chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo
pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử; đối với những người tham gia tố tụng dân sự Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về
việc chấp hành pháp luật, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng
xét xử nghị án. Như vậy, tại phiên toà sơ thẩm Viện kiểm sát không có quyền đưa ra
quan điểm, đường lối giải quyết vụ án về nội dung; ý kiến phát biểu của Viện kiểm
sát chỉ đánh giá có vi phạm hay không có vi phạm thủ tục tố tụng dân sự.
Về phạm vi kiểm sát: Điều 21 BLTTDS quy định VKSND kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
kịp thời, đúng pháp luật. Luật sửa đổi bổ sung đã mở rộng phạm vi kiểm sát, Viện
kiểm sát thực hiện kiểm sát ngay từ khi Tòa án nhận đơn khởi kiện của đương sự.
Trường hợp phát hiện những vụ, việc dân sự Tòa án trả lại đơn khởi kiện không
đúng với quy định tại Điều 168 BLTTDS (sửa đổi), thì Viện kiểm sát có trách nhiệm
kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp và Chánh án Tòa án cấp trên theo
quy định tại Điều 170 của BLTTDS (sửa đổi) để khắc phục.


13

Với tư cách là một cơ quan tiến hành tố tụng và với các quy định mở rộng

thẩm quyền trên đã tạo điều kiện cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức
năng giám sát của mình.
1.2.2 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng tại Tòa án
Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp 1992: “Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần cho pháp luật được
thực hành nghiêm chỉnh và thống nhất”5. Và trong quy định tại Điều 1 Luật tổ chức
VKSND năm 2002 cũng đã khẳng định lại một lần nữa: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Là một trong những cơ
quan nằm trong Bộ máy nhà nước, vì vậy Viện kiểm sát thực hiện những nhiệm vụ
quyền hạn mà pháp luật giao cho, Luật tổ chức VKSND năm 2002 có quy định:
“trong phạm vi chức năng của mình của mình, VKSND có nhiệm vụ góp phần bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của
Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của
tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp
luật6. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự VKSND thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: Một
là, giám sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố
tụng và các cá nhân, tổ chức có liên quan; Hai là, thực hiện vai trò của một cơ quan
tiến hành tố tụng. Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật VKSND có những nhiệm
vụ quyền hạn7: tham gia gia phiên tòa, phiên họp; tham gia hỏi đương sự và những
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ
án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, phiên họp của Hội đồng xét xử
và những người tham gia tố tụng; thực hiện quyền yêu cầu, kháng nghị đối với các
vi phạm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của
pháp luật…trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát VKSND các cấp phải tăng
cường công tác phát hiện vi phạm pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng để thường
xuyên thực hiện kiến nghị với cơ quan xét xử qua từng vụ việc; định kỳ sáu tháng
đầu năm, một năm phải có kiến nghị tổng hợp vi phạm đối với cơ quan xét xử
ngang cấp…

5 Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001
6 Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002.
7 Điều 1, 3, 4 Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự năm 2012


14

Với chức năng đó hiện nay, VKSND có thể được xem là một thiết chế song
hành cùng với Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình tố tụng, Viện kiểm sát
sẽ tham gia từ khi bắt đầu quá trình tố tụng (thụ lý đơn, lập hồ sơ vụ án) cho đến khi
Tòa án ra bản án có hiệu lực pháp luật và được cơ quan thi hành án đem ra thi hành
nhằm giúp phát hiện, sửa chữa, khắc phục những sai lầm xảy ra khi các chủ thể
mang quyền lực thực thi công quyền do khách quan hoặc chủ quan đem lại.
1.3 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam qua các giai đoạn phát triển
1.3.1 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng từ năm
1945 đến 1960
Theo Hiến pháp 1946 và các sắc lệnh có liên quan cho thấy, Tòa án là một hệ
thống cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước và là một cơ quan được giao
cả quyền công tố và xét xử. Tuy không thành lập cơ quan Công tố độc lập mà chỉ tổ
chức cơ quan Công tố trong cơ cấu, bộ máy của hệ thống Tòa án, nhưng cơ quan
Công tố hoạt động độc lập, không lệ thuộc vào Chánh án mà trực thuộc Bộ tư pháp,
đây cũng chính là cơ quan tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân sau này.
Ngày 20/7/1946 Sắc lệnh 131 ban hành bổ khuyết, sửa đổi Sắc lệnh số 51
ngày 17/4/1946 đã quy định rõ nhiệm vụ của Công tố viên, Điều 26 của Sắc lệnh
quy định “Công tố viên Tòa án tỉnh bắt buộc phải có mặt tại các phiên tòa hình và
hộ”. Theo Điều 22 Sắc lệnh 131, Nghị định 11 ngày 6/3/1948, đặt một hệ thống tổ
chức Công tố viên tại mỗi Hội đồng phúc án, Công tố viên chỉ có trong Tòa đệ nhị
cấp, tham gia giải quyết cả việc hình và hộ. Công tố viên trong giai đoạn này, có
nhiệm vụ giám sát việc tuân theo pháp luật và điều hành công việc của tư pháp công

an. Trong bối cảnh mới giành được chính quyền, vừa phải thiết lập, củng cố các cơ
quan Nhà nước, vừa phải thành lập Toà án để xét xử các tội phạm và vi phạm.
Ngoài Toà án quân sự, Toà án binh…với nhiệm vụ xét xử các vụ án phản cách mạng
và các tội phạm khác để bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân
dân, việc thành lập Toà án thường để xét xử các tội phạm và các vi phạm pháp luật,
bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân là vô cùng cấp bách, do đó mà Công tố viên về
“hình” trong những năm 1946-1950 phát triển hơn “hộ” là điều hoàn toàn hợp lý.
Tiếp sau đó, thực hiện cuộc cải cách tư pháp năm 1950 cùng với việc thành lập
Tòa án nhân dân (sau đây gọi tắt là TAND) các cấp, tổ chức và hoạt động của cơ
quan công tố cũng có sự chuyển biến đáng kể. Tại Điều 3 và Điều 17 Sắc lệnh số 13


15

đã chỉ rõ việc hộ bao gồm các việc về dân sự và thương sự, nhưng lại quy định
Công tố viên chỉ có quyền kháng cáo về việc “hình”, mà bỏ sót việc “hộ”, ngay sau
đó Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 ban hành đã quy định: “Công tố có quyền kháng
nghị cả bản án hay quyết định về dân sự của Tòa án. Công tố viên có quyền kháng
cáo các bản án hộ nếu thấy cần thiết, giao cho biện lý có quyền xét định một hồ sơ
có cần phải thẩm cứu hay không”, và biện lý chỉ giao cho phòng dự thẩm khi xét
thấy cần thiết; Thẩm phán TAND huyện dưới sự giám sát của Công tố viên Tòa án
tỉnh. Cụ thể hóa quy định này, Thông tư số 21/TTg ngày 7/6/1950 của Thủ tướng
Chính phủ và Thông tư liên bộ số 18/BKT-TT ngày 08/6/1950 của Bộ kinh tế và Bộ
tư pháp đã quy định: “Công tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ cũng như về việc
hình”, đánh dấu sự ra đời quyền kiểm sát của các cơ quan Công tố ở nước ta đối với
hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tố tụng dân sự nói riêng. Với quy định
này vai trò của Công tố viên trong tố tụng dân sự đã được khẳng định, pháp luật đã
trao cho Công tố viên kiểm sát hoạt động của Tòa án và quyền kháng nghị bản án
nếu xét thấy có vi phạm pháp luật. Như vậy, chúng ta thấy rằng chỉ ngay sau khi
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, Đảng và Nhà nước đã chú trọng

phát triển chế định Công tố, đặc biệt đã dần quan tâm đến sự quan trọng của các
quan hệ dân sự trong quá trình xét xử của Tòa án bên cạnh các quan hệ hình sự.
Vai trò của VKSND trong quá trình tố tụng đã được Hiến pháp 1946 và các
Sắc lệnh, Nghị định sau đó khẳng định, nhưng do buổi ban đầu của quá trình xây
dựng lại đất nước, còn phải đối mặt với vô vàn khó khăn thử thách, thù trong giặc
ngoài, nên việc xây dựng cơ quan này thành một hệ thống còn chưa được thực hiện.
Tuy nhiên, sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc thắng lợi, Đảng và Nhà
nước ta đã nhận thấy cần phải phát triển nền tư pháp nước nhà, một công cụ không
thể thiếu của một quốc gia nếu muốn đứng vững và trấn át được kẻ thù, đồng thời
ổn định xã hội, đưa đất nước phát triển. Vào cuối những năm 1950, tổ chức của
Viện công tố lại được kiện toàn và tăng cường một bước quan trọng: Thực hiện
Nghị quyết ngày 29/4/1958 của Quốc hội khóa I và Nghị định số 256/TTg ngày
01/7/1959 của Chính phủ Viện công tố được tổ chức thành các hệ thống độc lập,
tách khỏi Bộ tư pháp và trực thuộc Chính phủ. Để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tài sản
xã hội chủ nghĩa, Nghị định số 256 đã quy định rất rõ ràng về quyền hạn của Viện
công tố: “Giám sát việc chấp hành pháp luật của Tòa án; Viện công tố có quyền
khởi tố vụ án dân sự và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên
quan đến lợi ích Quốc gia”. Hệ thống Viện công tố gồm: Viện công tố Trung ương,


16

Viện công tố địa phương các cấp, Viện công tố quân sự các cấp và trong mỗi viện sẽ
quy định các chức danh khác nhau.
Như vậy, xét riêng về lĩnh vực dân sự thời kỳ này có thể nhận thấy dù còn một
số hạn chế như: Nghị định 256 chỉ quy định về việc Viện công tố tham gia tố tụng
trong những vụ dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích quốc gia, còn chưa đề cập
đến những vụ án dân sự liên quan đến lợi ích của nhân dân lao động, lợi ích công
cộng khác… nhưng nhìn chung đây cũng là những bước tiến vô cùng quan trọng
làm tiền đề cho sự phát triển về sau của Viện công tố trong lĩnh vực tố tụng dân sự.

1.3.2 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự từ
năm 1960 đến năm 1989
Với chiến thắng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với việc
tiếp tục xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời làm hậu thuẫn cho miền
Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất đất nước, trong giai đoạn từ 1960 đến 1975,
Đảng ta đã chỉ rõ những nhiệm vụ quan trọng cần làm: “Ra sức củng cố miền Bắc,
đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà…”.
Một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc lúc bấy giờ là phải bảo đảm pháp chế thống nhất từ đó nảy sinh yêu cầu
phải có sự thống nhất giữa chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước với ý chí,
nguyện vọng của nhân dân trên các mặt của đời sống xã hội nhằm phục vụ công
cuộc cách mạng. Từ những yêu cầu trên Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng quan
điểm của Lê-nin trong tác phẩm “Bàn về song trùng trực thuộc và pháp chế” để
thành lập cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, một cơ quan nhà nước mới của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất8.
Ngày 31/12/1959 Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa
ra đời, các quy định về tổ chức bộ máy Nhà nước, trong Hiến pháp 1959 có những
sửa đổi căn bản so với Hiến pháp 1946. Viện công tố được thay thế bằng Viện kiểm
sát nhân dân. Với chế định mới về Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp 1959 đã đánh
dấu một bước chuyển lớn trong tổ chức và hoạt động bộ máy Nhà nước ở Việt Nam,
lần đầu tiên trong lịch sử bộ máy Nhà nước Viện kiểm sát nhân dân được quy định
là một cơ quan độc lâp, không còn trực thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu trách
nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Ngày 15/7/1960, Quốc hội khóa 2, kỳ họp thứ nhất
thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
8 Phan Mỹ Linh: “Tổ chức và hoạt động của Viên kiểm sát nhân dân cấp huyện”, luận văn thạc sĩ, trang 17.


17

Sắc lệnh số 20-LCT công bố ngày 26/7/1960, đây là một bước ngoặt lớn của ngành

Kiểm sát nhân dân. Khác với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 xác định rõ chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị
quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và các biện pháp của các cơ quan thuộc Hội
đồng chính phủ, và cơ quan nhà nước địa phương, kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của nhân viên cơ quan nhà nước và nhân dân,…kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc xét xử của TAND và trong việc chấp hành các bản án,….khởi tố
hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích nhà
nước và của nhân dân. Hiến pháp đồng thời còn quy định: Viện kiểm sát nhân dân
các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo
thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Có thể thấy theo quy định của Hiến
pháp 1959 Viện kiểm sát nhân dân đã được tổ chức thành một hệ thống thống nhất,
độc lập với cơ quan xét xử và cơ quan hành chính, chỉ chịu trách nhiệm và báo cáo
trước Quốc hội. Ngoài việc thừa kế chức năng công tố và quyền giám sát tư pháp
của Viện công tố giai đoạn trước VKSND thời kỳ này còn được Nhà nước giao cho
thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung) trên các
lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp. Sau khi Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân được triển khai VKSND đã được tổ chức thành một hệ
thống từ Trung ương đến các đơn vị hành chính cấp huyện, hoạt động theo nguyên
tắc tập trung thống nhất dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.
Tiếp sau đó là Nghị quyết 01/1965 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và chỉ thị số 27/CT, 28/CT xác định đẩy mạnh công tác kiểm sát, phục vụ bảo
vệ tài sản của tập thể của Nhà nước trong tình hình mới. Viện kiểm sát đóng vai trò
quan trọng trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung và kiểm sát dân
sự nói riêng. Trong công tác kiểm sát dân sự, đã mở rộng việc tham gia của Viện
kiểm sát vào kiểm sát các vấn đề về hôn nhân gia đình, tham gia giải quyết các vụ
việc bảo vệ tài sản chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn 1960-1964 Viện kiểm sát tham gia
bảo vệ thực hiện chế độ hôn nhân tiến bộ một vợ, một chồng…
Nhìn vào giai đoạn này ta có thể thấy vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự
không ngừng được củng cố. So với Viện công tố trước đây với những quy định ban

đầu như quyền khởi tố và tham gia những vụ việc quan trọng liên quan đến lợi ích
quốc gia, giai đoạn này vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát đã được quy định cụ thể
hơn, đồng thời đã mở rộng thẩm quyền cho Viện kiểm sát trên nhiều lĩnh vực tố


18

tụng, có thể nói đây là những sự ghi nhận đáng kể của pháp luật về vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Sau khi đất nước hoàn tòa thống nhất (năm 1975) trên cơ sở đường lối và
nhiệm vụ cách mạng được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(năm 1967), Hiến pháp 1980 được ban hành, tiếp đó Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân ngày 04/7/1981có hiệu lực, cụ thể hóa những quy định về Viện kiểm sát
nhân dân trong Hiến pháp 1980. So với Hiến pháp 1959 vai trò, vị trí của Viện kiểm
sát nhân dân đã được khẳng định rõ hơn và có những điểm bổ sung mới trong Hiến
pháp 1980. Nhìn chung, giai đoạn này vai trò của VKSND đã được nâng cao, Viện
kiểm sát nhân dân đã được pháp luật giao cho các quyền hạn quan trọng: quyền yêu
cầu, kiến nghị, kháng nghị để thực hiện chức năng giám sát của mình. Viện kiểm sát
nhân dân được quyền: khởi tố vụ án dân sự, tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp
xét xử vụ việc dân sự.
1.3.3 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự từ
năm 1989 đến nay
Ngày 04/01/1989 ban hành luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 1980 quy định cụ thể chi tiết hơn rất nhiều về nhiệm vụ quyền hạn của
VKSND trong việc giải quyết vụ án hình sự, dân sự và thực hiện công tác kiểm sát
chung. Trong giai đoạn này, VKSND đã có những cố gắng cùng với các cơ quan tư
pháp khác thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng do Đại hội lần IV, V, VI của Đảng đề
ra. Có thể nói giai đoạn từ năm 1987-1992 là giai đoạn lịch sử rất quan trọng đối
với ngành, đây là những năm mở đầu cho thời kỳ mới của đất nước, toàn ngành đổi
mới về tổ chức và phương thức hoạt động, thực hiện có hiệu quả các quy định về

chức năng nhiệm vụ của VKSND theo Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân.
Đến đầu những năm 1990 chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu xụp
đổ, tan rã dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn diện sậu sắc của các nước xã hội chủ
nghĩa đã đặt nước ta đứng trước những khó khăn nhất định, lợi dụng thời cơ các thế
lực thù định đã câu kết với các phần tử phản động trong nước tìm mọi cách chống
phá cách mạng nước ta. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên
quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và đổi mới mọi mặt của đời sống xã hội,
ban hành ra Hiến pháp 1992. Chế định Viện kiểm sát nhân dân được Hiến pháp
1992 ghi nhận tại Chương X gồm 5 điều (Điều 126, 137, 138, 139, 140) quy định về


19

vị trí chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân, sự giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân. Các quy định của Hiến pháp 1992 về VKSND thể hiện bước đổi mới quan
trọng đối với các bản Hiến pháp trước đây. Theo đó, một mặt tiếp tục khẳng định
chế độ làm việc theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, đề cao
tính độc lập của VKSND đối với các cơ quan nhà nước; Mặt khác, kết hợp với
nguyên tắc bàn bạc tập thể khi quyết định những vấn đề quan trọng. Trên cơ sở các
quy định của Hiến pháp 1992, ngày 02/4/1992 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
được Quốc hội ban hành cùng với pháp lệnh về tổ chức Viện kiểm sát quân sự, Pháp
lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến
pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân đã có những nhiệm vụ
quyền hạn rộng hơn, liên quan đến chủ trương giữ vững trật tự, kỷ cương pháp luật,
tăng cường pháp chế trong điều kiện mới.
Tuy nhiên tại Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”, trên cơ sở quan
điểm chỉ đạo ngày 25/12/2001 Quốc hội thông qua Nghị quyết số 51 sửa đổi, bổ

sung 23 điều của Hiến pháp 1992, trong đó có Điều 137 quy định: “Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm
sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”, quy định này đã thu hẹp chức năng
của VKSND, làm mất chức năng “kiểm sát chung” của Viện kiểm sát nhân dân. Với
vai trò, nhiệm vụ mới, Viện kiểm sát nhân dân đã chú trọng vào các lĩnh vực thuộc
chức năng nhiệm vụ của mình. Trong đó có công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
án hành chính, vụ việc dân sự, toàn Ngành đã tập trung kiểm sát việc giải quyết các
tranh chấp về nhà ở, quyền sở hữu tài sản, về hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động…trong đó chú trọng kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa
án, tích cực tham gia các phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án hành chính, vụ việc
dân sự ở các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm theo quy định của
pháp luật. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án, vụ việc Viện kiểm sát
nhân dân đã kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khắc phục nhiều vi phạm pháp luật….
Đến năm 2002 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002 ra đời thay thế
cho Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992; Tiếp sau đó Bộ luật tố tụng dân
sự đã được ban hành, có hiệu lực vào ngày 01/01/2005 quy định một các rất cụ thể


20

vai trò, vị trí của VKSND trong hoạt động tố tụng dân sự, nâng vị trí của Viện kiểm
sát nhân dân lên một tầm cao mới, trong việc kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung
và hoạt động tố tụng dân sự nói riêng. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự
năm 2004, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, nhiều thẩm quyền cơ bản của Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự như: Thẩm quyền tham gia phiên toà và phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án, thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm… vốn đã được ghi nhận từ rất sớm thậm chí từ ngay sau khi thành

lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (năm 1945), nay tiếp tục được khẳng định, kế
thừa, bổ sung, chỉnh lý sau khi đã được kiểm nghiệm, sàng lọc qua thực tiễn sống
động của đời sống xã hội9.
Trong tình hình hiện nay, công cuộc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đẩy mạnh cải cách tư pháp đã và đang đặt ra
nhiều yêu cầu mới với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Đặc biệt
sau khi Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức của Viện kiểm sát đã được triền khai tổng kết và nhiều vấn đề đã được
Đảng kết luận, trong báo cáo kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW Bộ
chính trị khẳng định: “một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng xét xử các
vụ án dân sự thời gian qua còn thấp là chưa có cơ chế kiểm sát, giám sát hiệu quả
việc giải quyết các vụ việc này”. Đây là một vấn đề cần phải xem xét, và do đó, đến
năm 2011 Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi bổ sung tiếp tục có những quy định
mới về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự 10. Bên cạnh
đó, Quốc hội cũng ban hành các đạo luật liên quan đến lĩnh vực hoạt động tư pháp
như: Luật thi hành án dân sự, Luật thi hành án hình sự, Luật tố tụng hành chính…
Trong các đạo luật này đều tiếp tục khẳng định vai trò của Viện kiển sát nhân dân,
đồng thời cũng đặt trách nhiệm cao hơn cho VKSND trong việc kiểm sát các hoạt
động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tham gia đầy đủ, kiểm sát chặt
chẽ việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự của Tòa án và kiểm sát
chặt chẽ hoạt động thi hành án hình sự, thi hành án dân sự.

9 Nguyễn Ngọc Khánh: “Vị trí vai trò của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp”, tạp chí
kiểm sát số 01/2008, trang 23.
10 Đã được nêu và phân tích tại phần 1.2.1


21


Kể từ khi ra đời cho đến nay, trải qua gần 53 năm thành lập và hoạt động, chức
năng, nhiệm vụ, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước, cũng
như hoạt động tố tụng đã ngày một hoàn thiện và nâng cao. Nhất là trong hoạt động
tố tụng dân sự vai trò quan trọng của VKSND đã dần được khẳng định và kiểm
nghiệm trên thực tế. Trong thời gian tới, cùng với việc quán triệt quan điểm của
Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp; kết hợp lý luận và thực tiễn hơn 50 năm
thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự và trên cơ sở kế thừa
truyền thống, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài phù hợp với điều kiện cụ
thể của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, vị
trí, vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự nên được đổi mới theo hướng: Viện
kiểm sát vừa là cơ quan đại diện và bảo vệ luật pháp, vừa đại diện cho lợi ích Nhà
nước và lợi ích công cộng.
1.4 Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo
pháp luật một số nước trên thế giới
1.4.1 Vị trí vai trò của Viện công tố Pháp trong tố tụng dân sự
Về vị trí trong bộ máy nhà nước: Viện công tố Pháp được đặt trong hệ thống
Tòa án nhưng không lệ thuộc vào Tòa án. Hệ thống cơ quan công tố Pháp gồm:
Viện công tố đặt bên cạnh Tòa án sơ thẩm thẩm quyền rộng, Viện công tố đặt bên
cạnh Tòa phá án. Mặc dù, nằm bên cạnh hệ thống Tòa án nhưng tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc độc lập với Tòa án, Tòa án không có quyền can thiệp vào việc
thực hành quyền công tố. Về mặt nhân sự và quản lý hành chính Viện công tố Pháp
trực thuộc Bộ tư pháp, do đó nó có địa vị như một cơ quan tư pháp, nhưng mối quan
hệ giữa Bộ trưởng Bộ tư pháp và Viện công tố không phải là quan hệ chỉ đạo trực
tiếp mà Bộ tư pháp giám sát hoạt động của Viện công tố. Các công tố viên hoạt
động dưới sự kiểm tra của Bộ trưởng Bộ tư pháp và có thể nhận các hướng dẫn
chung hoặc các chỉ thị chung về chính sách hình sự từ Bộ trưởng Bộ tư pháp.
Về chức năng, nhiệm vụ, vai trò trong hoạt động tố tụng dân sự:
Viện công tố Cộng hòa Pháp có vai trò quan trọng trong lĩnh vực dân sự, hành
chính với tư cách nhân danh công quyền để bảo vệ lợi ích chung. Viện công tố chủ
động tham gia tố tụng trong trường hợp do pháp luật quy định. Ngoài những trường

hợp pháp luật quy định, Viện công tố có thể tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích công
cộng khi có những hành vi xâm phạm trật tự công cộng. Viện công tố phải dự phiên
tòa dân sự trong những trường hợp Viện công tố tham gia tố tụng với tư cách là bên


22

đương sự chính, hoặc đại diện cho người khác hoặc trường hợp pháp luật quy định
Viện công tố phải có mặt tại phiên tòa. Các trường hợp khác, Viện công tố có thể
chuyển ý kiến của mình cho Tòa án bằng kết luận viết, Viện công tố khi tiến hành tố
tụng sẽ phát biểu cuối cùng. Viện công tố phải được thông báo về những việc dân sự
Tòa án thụ lý và giải quyết; nếu có tranh tụng, đại diện Viện công tố phải được tham
dự phiên tòa11.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự Pháp,
Viện công tố có thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự với hai tư cách:
Thứ nhất, với vai trò đại diện cho lợi ích chung, bảo vệ trật tự công, Viện công tố có
thể tự mình khởi kiện (khởi tố) vụ án dân sự, đưa yêu cầu giải quyết việc dân sự ra
trước Toà án (như đưa ra yêu cầu tuyên bố một người mất tích hay là đã chết, đưa ra
yêu cầu Toà án chỉ định người quản lý di sản thừa kế…), hoặc tham gia tố tụng với
tư cách bị đơn đại diện cho Nhà nước khi bị kiện; Thứ hai, với vai trò đại diện và
bảo vệ luật pháp, Viện công tố có quyền kháng nghị theo thủ tục phá án (giám đốc
thẩm), theo quy định tại Điều 618-1 Bộ luật Tố tụng Dân sự Pháp quy định: Viện
trưởng Viện công tố bên cạnh Toà Phá án có quyền kháng nghị phá án (giám đốc
thẩm) trước Toà phá án vì lợi ích của luật và yêu cầu Viện công tố bên cạnh Toà án
đã ra bản án tống đạt kháng nghị cho các bên12.
1.4.2 Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát Liên Bang Nga trong tố tụng dân sự
Về vị trí trong bộ máy nhà nước: Viện kiểm sát Liên bang Nga có vị trí độc lập
với cơ quan hành pháp và tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung thống nhất, trên cơ sở các Kiểm sát viên cấp dưới phải phục tùng các Kiểm sát
viên cấp trên và tất cả đều phục tùng Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga. Để đảm

bảo tính độc lập cho các cơ quan Viện kiểm sát, Luật liên bang quy định không cho
phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc thực hiện công tác kiểm sát.
Hệ thống Viện kiểm sát Liên Bang Nga được tổ chức theo đơn vị hành chính gồm:
Viện kiểm sát trung ương Liên Bang Nga; Viện kiểm sát các chủ thể thuộc Liên
Bang Nga và tương đương; Viện kiểm sát các thành phố, quận, huyện và cấp tương
đương; các Viện kiểm sát chuyên trách như: Viện kiểm sát trong lĩnh vực giao
thông, Viện kiểm sát bảo vệ môi trường; Hệ thống kiểm sát quân sự các cấp.
11 Nguyễn Thị Thủy: “Giới thiệu về Viện kiểm sát và Viện công tố một số nước trên thế giơi”, tạp chí kiểm
sát số 14 (tháng 7/2007), trang 25.
12 Nguyễn Ngọc Khánh: “Vị trí vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”,
tạp chí kiểm sát số 01/ 2008, trang 23.


23

Về chức năng, nhiệm vụ, vai trò trong hoạt động tố tụng dân sự:
Viện kiểm sát Liên Bang Nga có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật. Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát vẫn thực
hiện chức năng kiểm sát chung, tuy nhiên chức năng kiểm sát chung đã bị thu hẹp
hơn trước. Ở Liên Bang Nga, Viện kiểm sát không kiểm sát hoạt động xét xử của
Tòa án và những người tham gia tố tụng dân sự và tố tụng hình sự.
Viện kiểm sát Liên bang Nga tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người
nhân danh Liên bang Nga và vì lợi ích của luật để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích
công cộng, lợi ích xã hội, Kiểm sát viên Liên bang Nga thực hiện hai nhóm quyền
cơ bản: Thứ nhất, khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền tự do và lợi ích hợp pháp
của công dân, của tập hợp người không xác định, lợi ích của Liên bang Nga, chủ thể
Liên bang Nga, các tổ chức tự quản địa phương; Thứ hai, tham gia tố tụng và phát
biểu kết luận đối với những vụ án liên quan đến việc buộc đi ở nơi khác, yêu cầu
khôi phục việc làm, yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm tính mạng
hoặc sức khoẻ, hoặc trong những trường hợp khác do luật quy định.

Việc tham gia của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự nhằm bảo vệ lợi ích Nhà
nước, lợi ích công cộng. Mục đích hoạt động của Viện kiểm sát Liên bang Nga là
bảo đảm tính tối cao của pháp luật, sự thống nhất và củng cố pháp chế, bảo vệ
quyền tự do và các quyền khác của con người và của công dân, cũng như lợi ích của
xã hội và nhà nước được pháp luật bảo vệ13.
1.4.3 Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân Trung Quốc trong tố tụng
dân sự
Về vị trí trong bộ máy nhà nước: Theo quy định tại Điều 1 và Điều 3 Hiến
pháp Trung Quốc hiện hành, cơ quan Kiểm sát Trung Quốc được Hiến pháp quy
định có vị trí độc lập trong hệ thống cơ cấu nhà nước, chịu trách nhiệm và sự giám
sát trước Đại hội đại biểu nhân dân các cấp, điều này giúp cho việc thi hành quyền
kiểm sát độc lập theo pháp luật được thuận lợi, không chịu sự can thiệp của bất kỳ
cơ quan hành chính, tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân nào. Trung Quốc là một
quốc gia đông dân và diện tích rộng vì vậy hệ thống Viện kiểm sát được tổ chức
theo 4 cấp và có nhiều Viện kiểm sát chuyên ngành gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (có địa vị ngang với Chính phủ) do Viện trưởng đứng đầu, có nhiệm vụ lãnh
13 Nguyễn Xuân Hà: “Giới thiệu về Viện kiểm sát và Viện công tố một số nước trên thế giơi”, tạp chí kiểm
sát số 14 (tháng 7/2007), trang 10.


×