Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG "NỖI BUỒN CHIẾN TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.92 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
Bất cứ một nền văn học nào trong sự vận động và phát triển của nó đều
nhằm đề cập và giải quyết ở mức độ nhất định những vấn đề mà thời đại đó đặt ra
và nó có thể dự báo những vấn đề chủ yếu của con người và thời đại trong bước
tiến của lịch sử.
Văn học cách mạng, văn học thời kỳ chiến tranh của chúng ta là sự phát
triển tiếp nối của truyền thống yêu nước trong văn học dân tộc. Âm hưởng chung
của văn học giai đoạn này là cái anh hùng, cái hào hùng. Ý thức chung của nền văn
học đó là hướng tới sự phản ánh cái cao đẹp của chiến tranh nhân dân, vì vậy mang
đậm giai điệu sử thi. Và nếu cái chất sử thi ấy có lẫn cái đau thương, cái đời
thường thì cũng là lẽ đương nhiên và cũng dễ hiểu trong sự cảm nhận của người
đọc hôm qua, hôm nay và cả mai sau.
Sau ngày miền Nam giải phóng (1975), đặc biệt là từ sau Đổi mới (1986),
đời sống văn học Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức và
tiếp nhận nghệ thuật. Việc phản ánh cuộc sống và con người trong văn học được
suy ngẫm và phân tích một cách sâu sắc những đối cực giữa thiện và ác, cao cả và
thấp hèn, chân thực và giả tạo … Từ góc độ khám phá hiện thực khác nhau, nhà
văn đã cố gắng thể hiện số phận con người với những chiến công và chiến bại,
những niềm vui lẫn day dứt đau thương, có khi rất riêng tư trong sâu thẳm của tâm
hồn, có khi lại hòa đồng với những lo toan, trăn trở đi lên của dân tộc. Có thể xem
tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh – một thành tựu đặc sắc
của văn học thời kỳ đổi mới ở mảng đề tài viết về chiến tranh trong thời kì hậu
chiến - là một ví dụ tiêu biểu.

1


CHƯƠNG 1. BẢO NINH VÀ TIỂU THUYẾT “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”
1.1. Tác giả Bảo Ninh
1.1.1. Cuộc đời
Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương, sinh năm 1952 tại huyện Diễn


Châu, tỉnh Nghệ An. Quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
trong một gia đình trí thức.
Năm 1969, ông vào bộ đội (lúc này 17 tuổi), tham gia chiến đấu ở mặt trận
B3 – Tây Nguyên.
Năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, ông giải ngũ và bắt đầu đi học
Đại học ở Hà Nội (1976 – 1981). Sau đó ông làm việc tại Viện Khoa học Việt
Nam.
Từ 1984 đến 1986, Bảo Ninh học khóa II trường viết văn Nguyễn Du và bắt
đầu tham gia sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết.
Hiện nay, Bảo Ninh làm việc ở Báo Văn nghệ trẻ và là Hội viên Hội Nhà
văn Việt Nam (1997).
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Hiện tại, “Nỗi buồn chiến tranh” là cuốn tiểu thuyết định mệnh ám ảnh toàn
bộ cuộc đời sáng tác của Bảo Ninh. Thế giới trong truyện ngắn của Bảo Ninh chỉ là
những mảnh vỡ của tiểu thuyết hoặc phản chiếu, hoặc soi sáng thế giới tiểu thuyết.
Trong truyện ngắn đầu tay “Trại bảy chú lùn” (1987), Bảo Ninh đã để ý tới
những số phận bị bỏ quên trong cuộc chiến. Không nhìn cuộc sống theo lăng kính
sử thi, nhà văn có ý thức tạo ra cách ứng xử nghệ thuật riêng: quan tâm tới những
mặt khuất tối của hiện thực, cố gắng nhìn những vùng mờ tâm linh sâu thẳm của
con người. Cảm quan hiện thực này được Bảo Ninh thể hiện xuất sắc trong “Nỗi
buồn chiến tranh”.

2


Các tác phẩm: “Hà Nội lúc không giờ”, “Khắc dấu mạn thuyền”, “Rửa tay
gác kiếm”, “Giang”,… thể hiện những mất mát lớn của tuổi trẻ, tình yêu trong
chiến tranh.
Các tác phẩm: “La Macxay”, “Tiếng vĩ cầm của kẻ tử thù” là kí ức về thời
thuộc địa và những con người thời thuộc địa.

“Lá thư từ Qúy Sửu”, “Thời tiết của kí ức” là sự tiếp nối và mở rộng về sự
suy tư về lịch sử của dân tộc và sự hàn gắn những chia rẽ của con người sau bão
táp lịch sử.
Đối chiếu thế giới truyện ngắn với thế giới tiểu thuyết, chúng ta sẽ hiểu rõ
hơn về “Nỗi buồn chiến tranh” cũng như nội dung chủ đạo của toàn bộ sự nghiệp
sáng tác văn học của Bảo Ninh. Đó là cái nhìn đầy suy tư, chiêm nghiệm nhưng
cũng hết sức mới mẻ về cuộc sống hiện tại cũng như quá khứ hào hùng của dân
tộc. Qua đó, chúng ta nhận thấy tình cảm trân trọng đối với quá khứ cùng tình yêu
cuộc sống hiện tại tha thiết của nhà văn.
1.2. Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh xuất bản lần đầu tiên vào năm 1990
với tiêu đề do các biên tập viên Nhà xuất bản Hội nhà văn lựa chọn trao giải:
“Thân phận tình yêu”. Một năm sau đó cuốn sách đầu tay này của nhà văn Bảo
Ninh được tái bản với tiêu đề của chính tác giả: “Nỗi buồn chiến tranh”. Cuốn
sách được giải thưởng của Hội Nhà văn, cùng với những tiểu thuyết khác như
“Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bến không chồng”
của Dương Hướng. Sau khi giành được giải thưởng ở Việt Nam, cuốn tiểu thuyết
của Bảo Ninh được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới và được độc giả
đón nhận một cách nồng nhiệt.
Dù nhan đề “Thân phận tình yêu” hay “Nỗi buồn chiến tranh” thì cũng chỉ
là một. Đó là: Một chuyện tình đau đớn trong chiến tranh.

3


Tác phẩm không có cốt truyện, tình tiết rành mạch mà chỉ là những mảng
hồi ức của nhân vật Kiên, một người lính của tiểu đoàn 27 độc lập hoạt động trên
địa bàn B3 còn sống sót, về cuộc chiến tranh đẫm máu vừa qua và về mối tình với
cô bạn học trường Bưởi tên là Phương. Chiến tranh, trong ký ức của Kiên đồng
nghĩa với cái chết và sự hủy diệt. Có những cái chết buồn thảm như cái chết của

cha và dượng Kiên, có cái chết bi thảm như cái chết của những người đồng đội của
Kiên trong cuộc chiến. Và ngay mở đầu tác phẩm là hồi ức của Kiên về trận đánh
– trận thảm sát xóa sổ cả một đơn vị vào “Mùa khô đầu tiên sau chiến tranh đến
với miền hậu cứ Cánh Bắc của Mặt trận B3 êm ả nhưng muộn màng”. Cái chết của
đồng đội, của địch trở thành những hồn ma ở truông Gọi Hồn, ở chốn rừng xanh
núi thẳm, cứ ám ảnh Kiên mãi thời hậu chiến: “Chẳng biết đến bao giờ thì lòng
mình mới có thể nguôi nổi, trái tim mình mới thoát khỏi gọng bàn tay xiết chặt của
những kỷ niệm chiến tranh. Những kỷ niệm có thể là êm đềm, có thể lá ác hại
nhưng đều để lại những vết thương mà tới bây giờ một năm đã qua, hay mười
năm, hay hai mươi năm nữa vẫn còn đau, đau mãi.”
Trong ký ức của Kiên, chiến tranh còn là những hình ảnh buồn bã về ngày
chiến thắng trĩu nặng những dự cảm kinh hoàng về sự tổn hại của nhân tính trong
nhà ga hàng không Tân Sơn Nhất với câu nói của một người chiến sĩ: “Liệu mà coi
chừng nhân tính” khi chứng kiến cảnh một người lính cao xạ quẳng xác của một
người phụ nữ bên địch ra giữa sân bê tông loáng nước mưa.
Tình yêu, trong ký ức của Kiên, là mối tình tuyệt đẹp mà đau xót với cô bạn
học Phương. Phương và Kiên ở tuổi 17 - tuổi thanh niên mới chớm nở; hai tâm hồn
lành mạnh yêu nhau đắm đuối, hồn nhiên. Ở Phương có “vẻ đẹp trời ban, vẻ đẹp
rực cháy sân trường Bưởi” và một cái nhìn tiên tri thiên phú. Bị cuốn vào vòng
xoáy nghiệt ngã của cuộc chiến, tình yêu cũng bị đày đọa, bị đẩy tới bờ vực của sự
hủy diệt. Cảnh đôi tình nhân trên chuyến xe lửa và Phương bị làm nhục ngay trong
những giờ khắc khởi đầu của cuộc chiến đã nói lên sức tàn phá ghê gớm của chiến
4


tranh. Mối tình của họ mãi mãi là mối tình đau khổ, không thành với những vết
thương không thể chữa lành trong thời bình. Thế nhưng cái duy nhất mà nàng
không bao giờ đánh mất, cố gắng không để mất, là tình yêu giành cho Kiên. Tình
yêu cho dù bị đày đọa, vẫn tồn tại như một thách thức làm cho người ta mê đắm.
Tình yêu của Kiên và Phương như là biểu tượng của cái đẹp, đối lập với chiến

tranh khốc liệt. Giữa một vùng bom đạn xé toạc bầu trời Hà Nội trong những ngày
đầu của cuộc chiến, Phương tắm bên hồ “ung dung”, “bình thản”, cái đẹp ngạo
nghễ trước bạo lực. Tình yêu của Phương, sắc đẹp của Phương bị chiến tranh hủy
hoại, chỉ còn lại ký ức mênh mông và huyền ảo, và nỗi buồn về thân phận tình yêu.
Bằng những ký ức chắp nối, tác phẩm như là những độc thoại của Kiên về
thân phận con người. Tình yêu và chiến tranh, hai chủ đề, hai nỗi buồn thấm vào
nhau, hòa lẫn nhau, da diết, xót xa, hủy diệt.
Ra khỏi cuộc chiến, Kiên trở thành “nhà văn cấp phường”, sống một thời
hậu chiến đầy u buồn. Anh lao vào viết như một “Thiên mệnh” xa vời, tối tăm.
Nhà văn của phường như người mộng du lang thang cả đêm khắp phố phường,
đêm đêm viết hàng núi giấy. Những câu chữ xuất hiện trong “bóng đêm âm u” của
tiềm thức, vô thức đã trở thành những hình tượng ảo giác trên trang bản thảo. Ngày
kia anh đốt bản thảo tác phẩm của mình, bên người con gái câm, một biểu tượng
đẹp, một bản sao khác của Phương. Cô gái câm là người đọc có thể, người đọc
tương lai tiểu thuyết của Kiên. Cô là người duy nhất chứng kiến một tiểu thuyết
đang hình thành trong bóng đêm, trong cơn say, trong điên khùng và hoảng loạn,
trong vô thức, tức là từ nỗi buồn tình yêu và nỗi buồn chiến tranh.

5


CHƯƠNG 2. CÁI NHÌN MỚI VỀ HIỆN THỰC CUỘC CHIẾN QUA
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG TIỂU THUYẾT
“NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”
2.1. Góc nhìn mới từ đề tài đã cũ
Chiến tranh là một đề tài lớn mang tầm vóc nhân loại. Nó có bề dày, bề dài
trong tiến trình lịch sử văn học thế giới. Cùng ở một đề tài cũ nhưng góc nhìn về
cuộc chiến tranh lại rất mới mẻ, Bảo Ninh viết về chiến tranh không với những
bom đạn, mưu lược quân sự, những hào nhoáng chiến thắng, vinh quang của người
lính khi chiến thắng trở về, với những phút giây cảm động rơi nước mắt khi gặp lại

người thân, gặp lại quên hương, bạn bè yêu dấu của mình. Chiến tranh được nhìn
nhận trung thực và khách quan từ góc độ cá nhân (trong cuốn tiểu thuyết “Nỗi
buồn chiến tranh” thì đó cụ thể là qua con mắt của Kiên). Chiến tranh tàn nhẫn và
khốc liệt. Tác giả không tung hô, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, ca ngợi chiến thắng
vẻ vang của dân tộc, không ca ngợi phẩm chất người lính mà tác giả đã đưa ra
những định nghĩa hết sức mới về chiến tranh, về hòa bình: “Chiến tranh là cõi
không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn
ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu, vô cảm, là tuyệt tự khủng khiếp nhất của
dòng giống con người”. Dù bên ta hay bên địch, dù bằng phương thức với mục
đích nào thì về bản chất đều như nhau cả, đều là cái chết, sự phá hủy, diệt vong…
Bảo Ninh không nhằm mục đích bênh vực, thiên lệch, tranh cãi bên nào phi nghĩa,
bên nào chính nghĩa mà muốn tái hiện sức tàn phá ghê gớm của chiến tranh. Không
chỉ những mất mát đau thương, những cái chết mà tàn bạo nhất là sự phá hủy ăn
sâu bén rễ trong linh hồn người trở về.
Bảo Ninh đưa đến cho bạn đọc một cái nhìn chân thực, góp phần tái hiện
toàn diện hơn cuộc chiến tranh Việt – Mỹ (cũng như tất cả các cuộc chiến tranh
khác).

6


“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh là một khúc ca bi tráng, đau thương
và tàn khốc về chiến tranh. Nỗi buồn ấy đã ám ảnh và day dứt nhiều thế hệ ở cả hai
phía, từng hành trình đi qua cuộc chiến đẫm máu ấy. Nhưng vượt lên trên tất cả
những mất mát, u ám và tuyệt vọng là tình yêu con người và tình yêu cuộc sống đã
cứu rỗi phần còn lại của thế giới này. Và những trang văn của Bảo Ninh trong
“Nỗi buồn chiến tranh” đã hướng đến những chân trời hy vọng ấy.
2.2. Hiện thực chiến tranh khốc liệt
Dù đã trở về song những người anh hùng, những người lính trong vai trò
người chiến thắng lại chẳng hề cảm thấy vui vẻ. Chiến tranh đã mãi nằm trong tâm

trí họ, đã thiêu đốt cả cuộc đời họ, mãi mãi họ không còn trở về cuộc sống bình
thường như trước được nữa. Trong “Nỗi buồn chiến tranh”, nhân vật cụ thể là
Kiên, từ hiện thực đi lần tìm hài cốt đồng chí đồng đội mình quay trở ngược lại với
những kí ức đau thương, với những hiểm nguy, chết chóc và cũng có những niềm
vui nhưng tất cả chúng đều rạch vào tâm hồn Kiên, đồng đội Kiên giống như
những vết khắc sâu trên đá, in đậm trong tâm trí họ như một nỗi ám ảnh không bao
giờ phai nhòa. Kiên là một trong những người may mắn được sống trở về, may
mắn lành lặn nhưng đó có thực sự là một may mắn?
Đời lính phải trải qua bao nhiêu nỗi vất vả, gian truân mà trước hết đó là
điều kiện sinh tồn, điều kiện chiến đấu khốc liệt.
Lần tìm về kí ức, điều đầu tiên Kiên nhớ đến chính là “Mùa khô đầu tiên
sau chiến tranh đến với miền hậu cứ Cánh Bắc của Mặt trận B3 êm ả nhưng muộn
màng”. Có lẽ yếu tố ngoại cảnh dễ dàng tác động vào tâm trí người ta nhất:
“Tháng Chín và tháng Mười, rồi tháng Mười Một nữa đã trôi qua, vậy mà trên
dọc dòng sông Ya Crông Pôcô làn nước mùa mưa xanh ngát vẫn tràn ắp đôi bờ.
Thời tiết bấp bênh. Ngày nắng. Đêm mưa. Mưa nhỏ thôi, nhưng mưa. Mưa… Núi
non nhạt nhòa, những nẻo xa mờ mịt. Cây rừng ướt át. Cảnh rừng lặng lẽ. Tối
ngày đất rừng ngun ngút bốc hơi. Biển hơi màu lục, ngụt mùi lá mục. Và, cho tới
7


tận những ngày đầu tháng Chạp tất thảy những ngả đường trong rừng vẫn còn
đang lầy lội khốn khổ, hư nát, bị hòa bình bỏ hoang, hầu như không thể qua lại
được, dần dần lụt chìm xuống, mất dấu tích giữa rừng cây rừng cỏ tốt um tùm.
Hành trình trong điều kiện thời tiết như thế, đường sá như thế vất vả không tả
được…”
Rồi cái đói, bệnh tật luôn thường trực như kẻ thù thứ hai sẵn sàng làm tiêu
hao sinh lực, lấy mạng người lính: “Khẩu phần lương thực đang sụt xuống nhanh
như thể nước trong bình bị đập vỡ đáy. Khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên, thối hết
cả máu, vì quần áo mục nát tả tơi và vì những lở loét cùng người như phong hủi,

cả trung đội chẳng còn ai trông ra hồn thằng trinh sát”. Còn đâu hình ảnh những
người anh hùng nông dân áo vải “Áo anh rách vai- Quần tôi có vài mảnh vá- Nụ
cừi buốt giá- Chân không giày- Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Cái đói khiến người ta phải liều. Thịnh “con” liều lĩnh xông vào một ngôi
làng hủi bỏ hoang để bắt và mang về một con vượn rất to, thế nhưng khi cạo sạch
lông thì hiện ra nguyên hình “một mụ đàn bà béo xệ, da sùi lở nửa xám nửa trắng
hếu, cặp mắt trợn ngược”.
Trước thực tại đói khổ, bệnh tật, cái chết rình rập chực sẵn, người lính đã
phải nhờ đến hồng ma, một loại tiền ma túy, nhờ khói nó người ta chế ra các loại
ảo giác tùy sở thích “có thể nhờ khói hồng ma mà quên mọi nông nỗi đời lính,
quên đói khổ, chết chóc, quên béng ngày mai”. Mỗi không gian tưởng tượng, mỗi
giấc mơ đều bình dị, giản đơn nhưng nó chỉ có thể xuất hiện trong giấc mộng:
+ “Kiên lại được thấy Hà Nội của anh, Hồ Tây, chiều hạ, hàng phượng vĩ
ven hồ, tiếng ve sầu ran lên khi hoàng hôn xuống, và anh cũng nghe thấy, cảm thấy
gió hồ lộng thổi, cảm thấy sóng vỗ mạn thuyền. Anh mơ thấy Phương đang cùng ở
trên thuyền thoi với anh, tóc vờn trước gió, trẻ trung xinh đẹp, không một nét sầu
thương”.
+ Cừ: Mơ đến “ngày trở về với những sum họp đoàn tụ, dễ chịu”.
8


+ Vĩnh lại “rặt chỉ mơ thấy đàn bà, và hắn thường xuyên khoái trá tả thực
cho anh em nghe về những cuộc làm tình tưởng tượng vô cùng tham lam, phức tạp
rất ngóc ngách, đầy kì thú và sống sượng với chị em huyền thoại của hắn”.
+ Tạo “voi” “lại đặc biệt hay mơ về sự ăn uống” với“những mâm cỗ ăm ắp
các món ăn béo bở do tâm thần mộng mị của hắn bịa tạc nên”.
Có khó gì đâu với một con người được sống bên gia đình, đầm ấm cùng
người thân, đôi chút khoảng tâm tình với người yêu, được ăn no. Vì chiến tranh họ
đã bị cướp đi tất cả những gì bình yên nhất, giản đơn nhất của cuộc sống. Rừng già
âm u, những tiếng hú, những bóng ma lảng vảng như một sự báo trước về số mệnh

đen tối của con người trong chiến tranh. Trước hết là những mất mát về con người:
Ngay ở những trang đầu, Bảo Ninh đã tái hiện một trận đánh kinh hoàng
cuối mùa khô năm 69, “mùa khô cực kì cùng khốn của toàn cõi B3, tiểu đoàn 27
độc lập, cái tiểu đoàn bất hạnh mà anh là một trong mươi người may mắn còn
được sống”, “một trận đánh ghê rợn, độc ác bạo tàn…”. “Các đại đội đã tan tác
đang cố co cụm, lại bị đánh tan tác. Tất cả bị na - pan tróc khỏi công sự, hóa
cuồng, không lính không quan gì nữa rùng rùng lao chạy trong lưới đạn dày đặc,
chết dúi ngã dụi vào biển lửa. Trên đầu trực thăng rà rạp các ngọn cây và gần
như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu tung xối, chảy tóe,
ồng ộc, nhoe nhoét….” “Những ngày sau đó diều quạ rợp trời…Bãi chiến trường
biến thành đầm lầy, mặt nước màu nâu thẫm nổi váng đỏ lòm. Trên mặt nước lềnh
bềnh xác người sấp ngửa, xác muông thú cháy thui, trương sình trôi lẫn với cành
lá và những thân cây to nhỏ bị mảnh pháo băm…” Và “từ đó chẳng còn ai nhắc
đến tiểu đoàn 27 nữa”.
Cả một tiểu đoàn bị xóa sổ chỉ sau một trận chiến. Sự sống dường như mong
manh lắm. Nếu như trong “Nhật kí Đặng Thùy Trâm”, “nay người này ngã xuống,
mai người kia lại ngã xuống” thì trong “Nỗi buồn chiến tranh”, cái chết cũng đến

9


bất ngờ như một điều không thể tránh khỏi và đã biết trước. Lần lượt lần lượt Kiên
chứng kiến đồng đội mình gục ngã:
+ Đầu tiên là cái chết của Can: Cái chết không rõ nguyên do, chỉ biết khi tìm
được Can thì đó chỉ còn là “cái xác lở loét, ốm o như xác nhái bị dòng lũ xô tấp
lên một bãi lau lầy lụa. Mặt của xác chết bị quạ rỉa, miệng nhét đầy bùn và lá mục,
nom cực kì tởm.”
+ Ba cô gái thủ kho, bị chiến tranh cầm tù, giam hãm tuổi xuân giữa rừng
già, đương khi tìm được hạnh phúc ngắn ngủi với những viên trinh sát thì đã bị bọn
viễn thám bắt, hiếp và giết chết.

+ Thịnh “con” hy sinh trong trận chiến, đạn trúng tim, không kịp kêu một
tiếng kêu, ngã sấp.
+ “Vân chết cháy cùng với chiếc T54 đầu đàn. Thân xác ra tro nên cũng
chẳng cần huyệt mộ. Còn Thanh thì chết ở Cầu Bông, và cũng bị thiêu trong quan
tài thép cùng với tổ lái. Chỉ có Từ là đã cùng Kiên đánh đến cử số 5 sân bay Tân
Sơn Nhất rồi mới hi sinh.”
+ Cô giao liên Hòa xinh tươi “gục ngã giữa trảng cỏ và đằng sau bọn Mỹ
xông tới, vậy xúm lại, trần trùng trục, lông lá một bầy như những con đười ươi,
thở phù phò, giằng giật, nặng nề hộc rống lên…”
+ Quảng ở mùa khô năm 66 trong chiến dịch Đông Sa Thầy, Quảng bị trúng
một trái cối 106 nổ tung gần như dưới chân, nhấc Quảng lên, quăng bổng theo
đường vòng cung rồi giáng quật xuống “bụng rách ruột trào, xương xẩu dường
như gãy hết, mạn sườn lõm vào, tay lủng liểng, và hai đùi tím ngắt”. Lần đầu tiên
Kiên được hạ lệnh ra tay với chính đồng đội mình. Nhân đạo ở đây chính là được
cho người ta chết một cách thanh thản không đau đớn. Cũng như Phán, một người
lính mà Kiên gặp được, trinh sát trung đoàn 24, đã day dứt vì cái chết đớn đau của
một tên lính ngụy: “thà rằng tôi giết phứt anh ta”, “là người không ai đáng chịu

10


một nhục hình như tôi đã bắt anh ta phải chịu”. Cái chết đôi khi không đáng sợ
bằng cái nhục hình, nỗi đau đớn xác thịt mà người ta phải gánh chịu.
+ Tùng: bị viên bi trúng đầu, người hoàn toàn lành lặn song đã trở nên điên
khùng.
Rồi những số phận khác, những cái chết khác mà mỗi con người một số
phận nghiệt ngã , kể cả là cái chết hay còn lành lặn trở về. Và hậu quả để lại trong
mỗi con người đó là: mất đi nhân hình lẫn nhân tính, trở nên vô cảm trước cái chết
của đồng loại.
Chiến tranh chỉ là làm sao “không bị ngỏm trong mùa khô”. Chiến tranh

chẳng khác nào một trận chiến sinh tồn mà nếu không ra tay thì ta sẽ là một cô hồn
vất vưởng, xác thịt bị giòi, quạ rỉa dần. Chính vì vậy, việc cầm súng, giết người đã
trở thành một bản năng, đã đánh cắp lương tâm con người để sẵn sàng bắn chết,
hành hạ đồng loại của mình. Những người lính hay chính là những công cụ, những
cỗ máy giết người. Kiên điên cuồng nã súng, “lòng căm thù bóp méo nhân dạng”.
Sự tiếp xúc với xác chết thường xuyên đến mức Kiên đã ngủ ngay cạnh xác một cô
gái ngon lành ở sân bay Tân Sơn Nhất. Đáng giận hơn đó là một người lính “lôi
xác cô gái xuống bậc tam cấp. Tóc tai xõa tung, gáy và xác chết nảy bình bình như
trái banh. Thằng chó má dã man kéo sền sệt cái xác khốn khổ qua mặt bê tông…
hắn choãi chân, vặn lưng lấy đà, quăng mạnh, liệng bổng người ta lên”. Một hồi
chuông “Hãy coi chừng mà xem lại nhân tính”. Chiến tranh có sức hủy hoại đáng
sợ, những chàng thanh niên chân chất, những sinh viên, công nhân khoác trên vai
màu áo lính, chiếc súng, ba lô…một là biến thành những linh hồn phiêu bạt, hai là
còn sống trở về - nguyên vẹn hoặc thương tật, biến thành những con thú khát máu
hay những kẻ khuyết tật về tâm hồn, không thể trở về bình thường được nữa.

2.3. Số phận con người
11


Có ba tuyến nhân vật chạy song song trong cuộc đời của Kiên: những người
đồng đội (những người lính) và những người phụ nữ, những người thân (những
người hậu phương). Đa phần trong số họ hiện diện trong hình hài của những ký ức,
không tiểu sử, thậm chí, có những nhân vật chỉ là những tiếng nói vang vọng trong
lương tâm của Kiên.
2.3.1. Những người lính
Cách nhìn nhận về người lính mới mẻ, gần gũi mà sống động. Họ không
phải là những anh hùng, những người làm nên từ sắt từ đồng không biết mệt mỏi
ngày đêm chiến đấu ngoan cường bảo vệ nhân dân.
Người lính trong “Nỗi buồn chiến tranh” hiện lên đầy những chán nản, mệt

mỏi với cuộc chiến. Họ cũng giống bao người khác, cũng biết đói, khổ, cũng có
mong muốn mãnh liệt là trở về với quê hương, thậm chí thây kệ nhiệm vụ Tổ quốc
giao cho để đào ngũ về nhà. Người lính xuất hiện trong “Nỗi buồn chiến tranh”
cũng biết yêu, cũng có những giây phút ủy mị, buông xuôi tất cả, cái chết dường
như trở nên vô nghĩa, với họ chiến tranh càng trở nên vô nghĩa. Để tự tìm niềm vui
cho mình, họ đã phải nhờ đến hồng ma, nhờ khói của nó để tạo ra các loại ảo giác
tùy thích. Nhưng khi không còn hồng ma, họ lại trở về với thực tại khắc nghiệt.
Những cô gái giao liên trong chiến tranh, số phận của họ đồng nghĩa với vô
vọng và bất lực. Trong gian lao nhưng họ vẫn ngời lên chất nữ tính, duyên dáng,
đằm thắm và kiên trung với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Đặc biệt yếu tố sex được đưa vào trong cuốn tiểu thuyết là điều hiếm hoi
trong tiểu thuyết về chiến tranh. Tình dục được nhắc đến khá nhiều và đặc biệt với
Kiên. Hình ảnh người lính xưa chân chất hiền lành bao nhiêu, nay đã được hiện lên
chân thực với đúng bản chất vốn có của nó. Kiên không được miêu tả trong một
cuộc tình duy nhất mà rất nhiều cuộc tình với những cuộc làm tình, thậm chí cả
người tình tưởng tượng - hồn cô gái ở sân bay Tân Sơn Nhất rồi với chị Hạnh,
Hiền, Phương, cô gái câm tầng trên... Tâm tư người lính đầy những trúc trắc, góc
12


cạnh, hỗn độn đan xen. Tác giả đi theo những kí ức, những tâm tư của Kiên để tìm
ra những sự thật về chiến tranh, sự thật trong tâm hồn anh, những hoài nghi, ám
ảnh…
Trong hành trình tâm tưởng của Kiên, ký ức về những người đồng đội luôn
gắn liền với cái chết. Hoặc họ là nạn nhân của cái chết, hoặc họ là người gây ra cái
chết. Cái chết phản ánh bản chất hai mặt của chiến tranh. Nó gắn liền với bạo lực,
thứ bạo lực tăm tối hủy diệt con người “chà đạp, hành hạ, (…), làm nhục, (…),
giết chết, (…) chôn vùi, quét sạch, tuyệt diệt”, nó chà đạp lên nhân tính của con
người và hủy diệt “những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, xứng đáng hơn ai hết
quyền được sống trên cõi dương”, nó khơi dậy bạo lực và sự tàn bạo trong con

người, sự dửng dưng với cái ác. Ở phương diện đó, vết thương khủng khiếp nhất
mà chiến tranh để lại không chỉ là sự thương tổn và cái chết cụ thể mà quan trọng
hơn, là sự chà đạp lên nhân tính. Ở một phía khác, cũng chính cái chết của những
người đồng đội phản ánh một phương diện khác của chiến tranh: cái đẹp của tình
người. Điều đó được đúc kết trong một chân lý thật đơn giản: “những con người
xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi đời này nhưng đã lẳng lặng chấp
nhận quy luật đơn giản của chiến tranh : mình chết thì bạn mình sống !” Tiếng
nói, kỷ niệm và những hồi ức của những đồng đội đồng vọng vào dòng tâm tư của
Kiên, chiếu rọi vào hiện thực tàn bạo của chiến tranh, bộc lộ nỗi đau đích thực của
con người trong chiến tranh – nỗi đau của nhân tính (mà trong đó vang vọng lời
cảnh báo của người lính ở phi trường Tân Sơn Nhất trong ngày giải phóng: “liệu
mà coi chừng nhân tính”) - và làm ngời sáng vẻ đẹp của tình người trong chiến
tranh.
Và khi hòa bình trở lại, không phải tất cả người lính đều có thể “giã từ vũ
khí”:
+ Với Vượng – người lính lái xe khi trở về không chịu được những con
đường “êm êm, nhũn nhũn” khiến anh nôn ọe, say xe.
13


+ Với Trần Sinh – thương binh cột sống bán thân bất toại, mang trong mình
hai nỗi đau thể xác và tinh thần.
+ Với Hiền – chiến sĩ mặt trận quân khu 9, trở về với đôi chân không lành
lặn. Hiền đã để lại tuổi thanh xuân, nhan sắc và máu thịt ở chiến trường, hòa bình
lặp lại, cô không tìm ra cách để hòa nhập với cuộc sống.
+ Với Kiên – nhân vật chính, anh sống trong ám ảnh quá khứ. Trở thành một
nhà văn hơi “điên dại”, trở về với hi vọng vào mối tình với Phương nhưng vô
vọng. Kiên trở về mang nỗi buồn được sống sót và cảm thấy mình “bị bắn ra khỏi
lề đường”. Bi kịch của Kiên là bi kịch của một người phải sống cảnh “một người –
hai kiếp” nhưng kiếp nào cũng bất hạnh.

Những điều đó cho ta thấy rằng dù thời chiến hay thời bình, người lính trong
“Nỗi buồn chiến tranh” đều mang trong mình nhiều vết thương, vết thương thân
thể ở chiến trường và vết thương tinh thần khi đã bình yên. Bơ vơ, lạc lõng giữa
cõi đời, giữa cuộc sống bình yên mà họ phải đổ bao xương máu để giành lấy.
2.3.2. Những người ở hậu phương
Trong thời kì chiến tranh diễn ra gay go, quyết liệt thì hậu phương luôn là
động lực làm nên chiến thắng vẻ vang. Hậu phương là nguồn sức mạnh cung cấp
vật chất lẫn tiếp vận về tinh thần cho tiền tuyến thân yêu. Những chiến sĩ ngoài mặt
trận phải ngày đêm chiến đấu cận kề cái chết thì những người ở hậu phương cũng
vừa lo tăng gia sản xuất, vừa lo lắng, đau buồn khi chịu nhiều mất mát trong cảnh
xa người thân. Chiến tranh đã gây ra cảnh chia lìa, mất mát, hi sinh trong con
người. Cũng chính chiến tranh làm thay đổi tất cả, thay đổi cuộc sống và ngay cả
số phận con người cũng bị thay đổi.
Trong chiến trận, người hậu phương là những người mẹ mòn mỏi trông tin
con. Tiêu biểu là bà Huynh, sau những ngày trông ngóng ba con trai đang ở chiến
trường, bỗng nhận được giấy báo tử của từng người con mà bà bị liệt người từ đó.

14


Người mẹ nuôi – mẹ Lành ở đồi Mơ đã nuôi bao nhiêu chiến sĩ, thương yêu, che
chở như con ruột mình.
Cha của Kiên được Bảo Ninh xây dựng là một người rất kì lạ, khác người.
Ông là một họa sĩ bị người ta chối bỏ, họ phê phán tranh ông vì những bức tranh
của ông theo người ta là chân dung của ma quỷ. Ông đắm chìm vào trong thế giới
ảo giác, siêu thực, ông lạc loài giữa xã hội con người mà nhập vào xã hội yêu ma
có những khuôn mặt dài thườn thượt mang nét gì đó của cõi vô hình, hư ảo. Trước
khi mất ông đã tự thiêu hủy những bức tranh mà ông đã dày công sáng tạo. Làm
như vậy nghĩa là để những người trong bức tranh được phóng thích, được cùng đi
vào một thế giới khác với ông để ông không phải cô đơn như khi đang sống trong

xã hội loài người.
Con người đã chịu nhiều gian khổ, hi sinh trong chiến tranh nhưng cho đến
khi hòa bình lặp lại thì những con người này – những người hậu phương sống năm
xưa bây giờ vẫn phải chịu nhiều nỗi đau, mất mát hơn nữa. Lan – con gái của mẹ
Lành phải sống trong cảnh cô đơn, lẻ loi không gia đình, một mình sống trên đồi
Mơ bát ngát ấy. Mẹ Lan mất khi có giấy báo tử của hai người con trai. Rồi chồng
Lan mất ngoài chiến trường. Ngay cả đứa con là niềm an ủi cuối cùng cùng từ bỏ
Lan mà ra đi cùng bố nó. Chiến tranh đã kết thúc nhưng nỗi đau mất người thân là
quá lớn. Nên mẹ Vĩnh cũng mất sau ngày nhận giấy báo tử của Vĩnh bỏ lại đứa em
gái của Vĩnh mà Kiên không biết rõ tên, khoảng mười chin tuổi đã phải đi làm đĩ
để nuôi thân.
Bảo Ninh cũng như nhiều nhà văn viết về đề tài chiến tranh đều đưa vào tác
phẩm hiện thực những số phận của con người. Đến với tác phẩm “Nỗi buồn chiến
tranh”, người đọc thấy được hình ảnh người phụ nữ “rất lạ” – đó là Phương.
Phương là người thích ứng với hoàn cảnh sống, từ một cô gái trong sáng, nhạy cảm
cô trở thành người phụ nữ buông thả. Trong chiến tranh, Phương có một tình yêu
trong sáng với Kiên. Cái nét hồn nhiên pha lẫn bướng bỉnh đã có sẵn trong
15


Phương. Phương là người có những tình cảm tinh tế, nhạy cảm. Phương đã dự cảm
được sự đổ nát, thiêu hủy của chiến tranh mang đến, gieo vào số phận của cả
Phương và của cả Kiên nữa. Phương thích ứng với những đổi thay mà chiến tranh
mang lại. Trong lần tiễn Kiên ra trận trên một chuyến tàu bị ném bom, Phương rơi
vào tay một người đàn ông thô lỗ, dâm tục. Trong khi Kiên đau đớn, xấu hổ cho
người yêu thì Phương lại xem tai họa như một điều tự nhiên, cái gì đến phải đến.
Với cô, chung thủy hay phản bội chẳng có ý nghĩa gì cả. Cũng chính vì chấp nhận
hoàn cảnh mà sau khi Kiên và Phương chạy khỏi ga đến trường làng ngồi nghỉ thì
Phương đã khỏa thân đi tắm mà không vướng bận ai soi xét mình mặc dù điều đó
làm Kiên rất giận cô.

Khi hòa bình lặp lại, Phương vẫn thích ứng với hoàn cảnh sống. Phương trở
thành ca kĩ, sống buông thả mặc đời. Sau bao năm chiến tranh cách biệt, gặp lại
Phương, Kiên thấy cô trở thành một con người khác. Ngày trước, mẹ Phương là
giáo viên âm nhạc, cha là nghệ sĩ dương cầm. Mẹ Phương mong muốn Phương trở
thành một nghệ sĩ dương cầm giống cha. Nhưng nay Phương nói với Kiên rằng cô
đã bán dương cầm đi vì nó làm chật căn phòng. Trong mắt Kiên, Phương đã là một
con người khác, Phương cho rằng mọi chuyện hôm qua không thể giải thích được,
sống là để quên hết mọi chuyện cũ. Vì thế, cô đã sống theo cách buông xuôi, theo
kiểu số phận đã định. Phương lao vào những cuộc đàm đúm, trụy lạc. Song tình
yêu giữa Kiên và Phương chẳng hề thay đổi. Họ luôn nghĩ về nhau nhưng không
bao giờ xây hạnh phúc bên nhau. Và rồi Phương từ biệt Kiên ra đi để lại trong Kiên
niềm nhớ thương khôn nguôi.
Cuối tác phẩm, hình ảnh cô gái câm lại xuất hiện. Nếu Phương là người yêu
nghệ thuật thì cô gái câm cũng là người đam mê với nghệ thuật. Chính cô gái câm
đã ngăn cản việc thiêu hủy những bản thảo viết văn của Kiên. Chính cô đã cất giữ
và tìm cách đưa tác phẩm của Kiên đến gần công chúng hơn. Sống trong thời bình,
cô tiêu biểu cho con người thầm lặng, biết lưu giữ, trân trọng những gì là của một
16


thời máu lửa hào hùng. Qua bao nhân vật, qua bao cảnh đời ta thấy chiến tranh đã
gây nên đau thương, làm thay đổi bao số phận con người.

17


CHƯƠNG 3. CÁI NHÌN MỚI VỀ HIỆN THỰC CUỘC CHIẾN QUA
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
“NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”
3.1. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ tiểu thuyết thời kì đổi mới ngày càng đậm chất đời thường, tự do,
linh hoạt, được cá tính hóa mạnh mẽ. Bảo Ninh không những sử dụng ngôn ngữ
đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật mà còn sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội
tâm với mô típ giấc mơ như ngôn ngữ độc thoại đặc biệt:
“ – Chín – Mười – Zi này!
– Quy – Ka – Át này!
Thỉnh thoảng anh vẫn mơ thấy chúng, những con bài ấy. Xướng lên và một
mình đỏ đen với mình. “Con cơ này, con rô này, và đây con chuồn…”.”
“Một cách trực giác tôi luôn nhận thấy quanh tôi quá khứ vẫn đang lẩn
khuất. Đêm đêm giữa chừng giấc ngủ tôi nghe thấy tiếng chân tôi từ những thuở
nào đó xa rồi vang lên trên hè phố lát đá…Ôi năm tháng của tôi, thời đại của tôi,
thế hệ của tôi! Suốt đêm nước mắt tôi ướt đầm gối bởi nhớ nhung, bởi tiếc thương
và cay đắng ngậm ngùi”.
Trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” này, ngôn ngữ miêu tả đậm chất
lãng mạn, quyến rũ, hấp dẫn mạnh với người đọc:“Suối lũ rền rĩ. Mưa tầm tã
trong bóng đêm. Tối tăm ẩm ướt, hoang rợn, đất trời như bị bưng kín, bị đè
nghẹt.”
Khi miêu tả Hà Nội: “Ban ngày nắng hửng trời quang, không gian thoáng
đãng, êm ả tựa như đã là trời của tháng Tư, tháng Năm rồi vậy. Các hàng cây trụi
lá mùa đông đã xanh rì lá mới, không còn chút nào vẻ tiêu điều. Trong công viên
bừng rộ hoa nở và các loài chim di trú lại trở về gây tổ dưới những mái nhà. Thế
nhưng thời tiết thì kì thực là còn lâu mới vượt qua nổi khúc quanh tăm tối nhất

18


trên con đường hầm. Và cứ khoảng xế chiều là da trời lại xám ngăn ngắt. Gió lạnh
lùa dọc phố, mưa phùn lại bắt đầu rơi, lại nỗi nao buồn.”
Hay khi miêu tả về cái xác của Can: “Cái xác lở loét, ốm o như xác nhái bị
dòng lũ xô tấp lên một bãi lau lầy lụa. Mặt của xác chết bị quạ rỉa, miệng nhét đầy

bùn và lá mục, nom cực kì tởm.”
3.2. Điểm nhìn trần thuật
Để hiểu được sâu sắc tác phẩm văn học ta không thể không tìm hiểu điểm
nhìn nghệ thuật. Bởi lẽ, để miêu tả, trần thuật, nhà văn buộc phải lựa chọn, xác
định điểm nhìn hợp lý. Trong văn học, điểm nhìn trần thuật được hiểu là vị trí
người trần thuật quan sát, cảm thụ và miêu tả, đánh giá đối tượng. Trong tác phẩm,
việc tổ chức điểm nhìn trần thuật bao giờ cũng mang tính sáng tạo cao độ. Trên
thực tế, có rất nhiều trường hợp, giá trị của tác phẩm bắt đầu từ việc nhà văn cung
cấp cho người đọc cái nhìn mới về cuộc đời. Mặt khác, thông qua điểm nhìn trần
thuật, người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và nhận ra đặc điểm
phong cách nhà văn.
Điểm nhìn trần thuật trong “Nỗi buồn chiến tranh” di động hết sức linh hoạt
từ nhân vật này sang nhân vật khác. Việc tổ chức điểm nhìn giúp cho cái nhìn về
chiến tranh trở nên chân thực và chính xác hơn. Trong “Nỗi buồn chiến tranh” ta
bắt gặp hai mạch kể: mạch kể người trần thuật (xưng “tôi”) và mạch kể của nhân
vật (Kiên cùng một số nhân vật khác được tái hiện lại qua cái nhìn của Kiên).
Trước hết là điểm nhìn nhân vật. Nét độc đáo của “Nỗi buồn chiến tranh” là
phần lớn tác phẩm được nhìn bằng cái nhìn của Kiên. Nói chính xác hơn là tác
phẩm được dệt nên bằng tâm trạng của Kiên trên đường tìm về quá khứ. Vì thế,
đọc phần đầu “Nỗi buồn chiến tranh”, ta ngỡ như tác phẩm được trần thuật từ ngôi
thứ ba. Đây là hình thức giấu kín người trần thuật nhằm tạo bất ngờ cho người đọc.
bước ra khỏi cuộc chiến, Kiên không thể hòa nhập được với hiện tại. Chấn thương
tinh thần đã vĩnh viễn lưu cữu trong hồn anh và kéo anh về với quá khứ. Với Kiên,
19


chỉ có quá khứ là có ý nghĩa. Chính vì thế, với anh, Phương mãi mãi tinh khiết,
trong trẻo bất chấp cuộc chiến đã tàn hại nàng.
Tuy nhiên, không chỉ có điểm nhìn của Kiên, tác giả còn trao điểm nhìn cho
các nhân vật khác như Can, Phán, cha Kiên… Trong tác phẩm, cha Kiên như một

nghệ sĩ “lạc loài”, cũng như Phương “Cháu rất đẹp… cái đẹp của cháu không
bình thường…Vẻ đẹp lạc thời và lạc loài… sẽ khổ đấy. Khổ lắm.” Người nghệ sĩ
nhận xét vẻ đẹp của Phương nhưng lại tự ngẫm đời mình. Cái nhìn của ông, vì thế,
là cái nhìn của kẻ sinh bất phùng thời. Cái nhìn ấy khác với cái nhìn lý trí và khô
khan của mẹ Kiên, đồng thời cũng khác với cái nhìn mang tính “bảo toàn” của
ông bố dượng. Điều đáng nói là mặc dù khi bố còn sống, Kiên không thật hiểu ông,
nhưng sau này, Kiên lại có những nét giống ông. Sự thay đổi ấy gắn liền với những
trải nghiệm, những đau đắng mà Kiên đã gặp. Tuy nhiên, trong cuốn tiểu thuyết
này, bên cạnh cái nhìn của Kiên, đáng chú ý hơn cả là cái nhìn của Phương. Yêu
Kiên nhưng không phải là cái bóng của Kiên. Phương có quan điểm riêng của
mình. Ngay từ khi sắp ra trận, Phương đã có cách hình dung về chiến tranh khác
với Kiên. Kiên thấy cần tham gia cuộc chiến (về điều này Kiên gần với mẹ),còn
Phương thì nhìn thấy trước sự bi thảm của chiến tranh (về điều này Phương gần
với cha Kiên). Vì thế, giữa Phương và họa sĩ có mối giao cảm đặc biệt. Đây là sự
gặp gỡ của những linh cảm mang tính tiên tri.
Cũng cần phải nói thêm rằng, sự không hòa nhập với cuộc sống hậu chiến
của Kiên được nhìn từ phía bàn dân trong phố. Với họ, Kiên là “kẻ dị biệt, khó cắt
nghĩa”. Cũng phải, bởi hồn vía của nhân vật đã gửi lại hết trong quá khứ và tiếng
gọi của tình yêu là lực hấp dẫn duy nhất kéo Kiên vào vòng quay của nó. Muốn
hiểu được cái bản lai diện mục của Kiên, cách duy nhất là tìm đến những trang bản
thảo của anh. Mà cái đó chỉ có “tôi” mới hiểu, không ai nhận ra một Kiên khác
trong hình hài của nhà văn phường kì dị, thất thường.

20


Có thể nói, việc trần thuật từ điểm nhìn của nhiều nhân vật đã tạo ra nhiều
góc quét khác nhau, làm cho đối tượng miêu tả trở nên đa chiều. Và có bao nhiêu
người thì có bấy nhiêu cuộc chiến tranh hiện ra trong cõi nhớ và trong cảm nhận
của họ. Đây là tư duy nghệ thuật mới mẻ của Bảo Ninh, nó khước từ cách nhìn đối

tượng một phía vì theo cách nhìn này, chiến tranh chỉ có một khuôn mặt duy nhất
mà thôi.
Về điểm nhìn của người kể chuyện, phải gần đến cuối tác phẩm, người kể
chuyện xưng tôi mới xuất hiện. “Tôi” tình cờ có được đá bản thảo lộn xộn mà
người con gái câm chưa kịp đốt, kể lại việc sắp xếp của mình. Người kể chuyện
trần tình: “Không hề có một chữ nào là của tôi trong bản thảo mới, tôi chỉ xoay
xoay vặn vặn như một người chơi rubic vậy thôi. Nhưng sau khi chép xong, đọc
lại, tôi ngỡ ngàng nhận thấy những ý tưởng của mình, những cảm giác của mình,
thậm chí cả những cảnh ngộ của mình nữa. Dường như do sự tình cờ của câu chữ
và của bố cục, tôi và tác giả đã trở nên hòa đồng tư tưởng, trở nên rất gần nhau.
Thậm chí tôi ngờ rằng có quen anh trong chiến tranh”.
Trong đoạn văn này có hai điểm cần chú ý. Thứ nhất, khi người kể chuyện
đưa ra lời bảo đảm “không hề có chữ nào là của tôi” tức là muốn nhấn mạnh tính
khách quan của câu chuyện. Rõ ràng, “tôi” (người trần thuật) chỉ ghi lại những gì
đã có , của tôi trong bản thảo (Kiên). Thứ hai, khi người trần thuật thấy mình và
nhân vật ngẫu nhiên hòa đồng, gần gũi tức là thừa nhận sự giống nhau về quan
điểm. sự gần gũi ấy xuất phát từ chỗ người trần thuật cũng đã tưng trải qua những
đau đớn, dằn vặt như nhân vật của mình. Đây là hình thức trải nghiệm trong trải
nghiệm mà Bảo Ninh muốn thể hiện. Tuy nhiên, khi người kể chuyện nói đến tình
trạng “mỗi người trong chúng tôi bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng, mỗi
người ngay từ ngày đó đã mang trong lòng một cuộc chiến tranh của riêng mình”
thì nó đã hé gợi một khả năng: rất có thể, sẽ có những cuộc chiến tranh nữa sẽ
được kể lại, vì mỗi người đều có một cuộc chiến tranh riêng. Nếu hiểu như thế thì
21


đây mới chỉ là một “nỗi buồn” của riêng Kiên, rồi ta sẽ còn những nỗi buồn khác.
Như thế, sự kết hợp điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật về thực chất
là sự phân tán, gấp bội điểm nhìn. Điểm nhìn của người kể chuyện không phải lúc
nào cũng thống nhất với nhân vật và giữa các nhân vật, điểm nhìn lại khác nhau.

Hiệu quả nghệ thuật của hình thức này là nhằm khám phá đời sống từ nhiều chiều
kích khác nhau.
3.3. Cách xây dựng nhân vật
3.3.1. Xây dựng nhân vật theo kiểu ghép mảnh
Nhân vật văn học là con người được miêu tả thể hiện trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học. Vì thế, tìm hiểu nhân vật cũng là tìm hiểu thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm. Với “Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh đã xây dựng thế giới hình
tượng nhân vật với những con người cá thể có giọng nói riêng, tính cách riêng. Mỗi
con người một số phận, mỗi con người với niềm đau, hạnh phúc riêng trong một
cảm nhận về thực tại…Tất cả họ hiện lên trang giấy như là nỗi ám ảnh về một quá
khứ đầy đau thương.
Nhân vật trong tác phẩm văn xuôi thường được chú ý khắc họa về ngoại
hình, ngôn ngữ, cá tính, tâm lý, hành động…Những điều ấy liên quan mật thiết đến
sự vận động, phát triển tính cách của nhân vật trong hoàn cảnh nhất định. Trong tác
phẩm của mình, Bảo Ninh không cho người đọc bắt gặp những nhân vật trọn vẹn
với đầy đủ lý lịch, tiểu sử. Nhà văn đã xây dựng nhân vật theo kiểu ghép mảnh:
mảnh ghép chân dung và mảnh vỡ tâm hồn.
Nhân vật chính trong tác phẩm là Kiên. Nhân vật Kiên được xây dựng dựa
trên những dòng hồi ức chắp nối ghép lại với nhau. Qua những hồi tưởng đứt đoạn
của Kiên người đọc có thể hình dung về con người anh Kiên là một chàng trai
chính gốc Hà Nội, bố là họa sĩ đã ly hôn với mẹ. Anh có một mối tình với Phương,
người bạn gái cùng học cấp 3, Kiên thuộc lớp thanh niên lớn lên trong hoàn cảnh
chiến tranh. Sauk hi cha mất, Kiên nhập ngũ khi tròn 17 tuổi. Mang theo lòng nhiệt
22


tình cách mạng, Kiên dấn thân vào cuộc chiến tranh sinh tử với lý tưởng giải
phóng đất nước. Lý tưởng đó đã theo Kiên trong quá trình chiến đấu và nó đã cho
anh những suy nghĩ tình cảm tốt đẹp chân thành về đồng đội, về những con người
đã làm nên chiến thắng. Từ lý tưởng tốt đẹp, suy nghĩ sâu sắc về cuộc chiến tranh

và tình cảm chân thành với đồng đội, Kiên đã đi đến những hành động. Anh không
quên ơn những người đã vì mình mà hi sinh. Trở về sau chiến tranh, anh mong mỏi
được cầm bút để viết về họ, viết để hậu thế không bao giờ quên họ, viết để khẳng
định sự bất diệt của đồng đội trong lòng mọi người. Nếu trong cuộc chiến, Kiên đã
hành động “với khẩu tiểu liên trong tay, anh đã luôn luôn ở hàng đầu quân xung
kích, cùng đồng đội từng bước kiên trì vượt qua ngàn dặm của cuộc kháng chiến
lớn lao” thì trong hòa bình việc Kiên viết về cuộc chiến tranh đã thể hiện phẩm
chất người chiến sĩ nơi anh.
Bảo Ninh đã khéo léo xâu lại các mảng cuộc đời của nhân vật Kiên bằng
một sợi dây vô hình – đó là những mảng đời của một quá khứ đã ngót hai mươi
năm được hồi nhớ không thể trọn vẹn, trộn lẫn với hiện tại. Có hiện thực, có mơ
hồ…Tất cả được đổ ra, được sắp xếp lại theo một trật tự tương đối nhưng cũng đủ
để tạo nên một nhân vật Kiên đa sắc diện trong biểu hiện. Nhà văn đã đi sâu miêu
tả thế giới nội tâm đầy biến động của Kiên. Nhân vật Kiên được Bảo Ninh xây
dựng theo mô típ lặng theo suy tưởng về một vùng ký ức xa xăm. Đó là kí ức về
những ngày chiến tranh, về Phương – người phụ nữ đã đánh thức tình yêu trong
Kiên thời tuổi trẻ, là nguồn sức mạnh chập chờn trong quãng đời chiến trận của
anh “những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng và ngọt lịm như mật ứa ra trào
lên lấp đầy cõi mộng mị. Trong những đêm mưa ấy, từ giữa miền không gian xa
xanh sâu thẳm khuất chìm sâu sương mù ký ức, người con gái của thành phố quê
hương lại hiện lên và bước tới với anh trong bóng hình tiên nữ mờ ảo”. Kiên
thường chìm đắm trong những cơn mơ “trong mơ, trí nhớ khuấy đảo, lật tung tất
cả, lần tìm trong đổ nát đam mê niềm đau buốt, vô hạn độ, vô bến bờ của anh đối
23


với nàng từ tận những thuở hồng hoang xa tít mù tắp thời trai trẻ”. Chính trong hồi
tưởng mà Kiên đi tìm ý nghĩa thực của đời mình. Dường như ở Kiên luôn có sự cố
gắng để sắp xếp những kỉ niệm lộn xộn, nối khớp chúng với những sự kiện lịch sử
chung của dân tộc, để có được một kết luận. Dù sống trong thời bình nhưng Kiên

“không tài nào nhấc chân ra khỏi miệng hố của chiến tranh, loại người bị ký ức
quá kinh khủng đè bẹp và làm cho suy đốn”. Ngay cả mối tình với Phương cũng bị
cuộc chiến đó chia đôi “Đời anh chỉ có hai tình yêu thôi. Một mối tình của anh và
Phương hồi trước chiến tranh. Và sau chiến tranh là mối tình khác, cũng giữa anh
và nàng”.
Tác phẩm đưa người đọc vào sâu bên trong thế giới tâm hồn của nhân vật
Kiên để từ đó khám phá những bí mật mà từ lâu anh muốn che giấu, thậm chí là
phủ nhận. Kiên từng hững hờ với mẹ, coi thường cha, thậm chí có lúc nghi ngờ
tình yêu với Phương, ghen tuông và thù hận cô, anh cũng có những hoang tưởng
nhục dục với thây người chết, đôi khi hèn nhát trong chiến trận. Vì thế anh muốn
kể hết trong cuốn sách anh đang viết, đó không chỉ là một “tiểu thuyết đầu tay” mà
là một tác phẩm đặc biệt, là “cuộc phiêu lưu cuối cùng trong cả cuộc đời làm lính
của anh”. Bảo Ninh đã sử dụng độc thoại nội tâm để nhân vật có thể tự nói lên
những dằn vặt ẩn sâu bên trong tâm hồn mình “Một cách trực giác tôi luôn nhận
thấy quanh tôi quá khứ vẫn đang lẩn khuất. Đêm đêm giữa chừng giấc ngủ tôi
nghe thấy tiếng chân tôi từ những thuở nào đó xa rồi vang lên trên hè phố lát đá…
Ôi năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi! Suốt đêm nước mắt tôi ướt
đầm gối bởi nhớ nhung, bởi tiếc thương và cay đắng ngậm ngùi”. Quên đi chiến
tranh là một việc hết sức khó khăn đối với Kiên. Kiên ý thức được điều này nhưng
mọi chuyện không phải lúc nào cũng theo ý muốn của con người “Nói chung,
chẳng biết đến bao giờ thì lòng mình mới nguội nổi, trái tim mình thoát khỏi gọng
bàn tay siết chặt của những kỉ niệm chiến tranh…để lại những vết thương mà tới
bây giờ, một năm đã qua hay mười năm hay hai mươi năm nữa, vẫn còn đau, đau
24


mãi”. Lời bộc bạch của Kiên là một độc thoại dài, là một dòng tâm sự đau thương
của chính nhân vật muốn chia sẻ với thế hệ hôm nay.
Bảo Ninh chọn cách lắp ghép những mảnh tâm hồn, những mảnh đời không
hoàn thiện trong bức tranh tối sáng của quá khứ và hiện tại. Nhân chứng duy nhất

trải nghiệm mãnh liệt nhất chính là Kiên. Kiên hiện diện một cách dị mọ khác
thường trong con mắt mọi người xung quanh, anh nhà văn lập dị này đã và đang
luôn trong bối cảnh của những kí ức chắp nối những cơn mộng du huyền ảo mông
lung. Qua các lớp thời gian bị đảo lộn đứt gãy liên tục, những mảnh vụn kí ức
vương vãi khắp nơi trong tâm trạng rối bời bấn loạn của nhân vật. Kiên đang đứng
ở hiện tại nói về trạng thái tinh thần hiện tại của mình, thì những kỉ niệm biến cố
của những thời gian khác nhau trong quá khứ gọi anh trở về. Chúng bị xô đẩy, đan
cài vào nhau trong suy nghĩ chập chờn, bất định của Kiên với những kỉ niệm dĩ
vãng không hệ thống rõ ràng, đứt đoạn liên tục về những mùa mưa sầu thảm, về cái
xác lõa lồ của người đàn bà trong ngày giải phóng, về cuộc sống ảm đạm ở truông
Gọi Hồn, về cái đêm trên tàu với Phương với khoảnh khắc “cắt lìa” nhau của mối
tình định mệnh, về cánh rừng đại ngàn, những khuôn mặt đồng đội, những mất mát
đau thương… Tất cả bị đọng ứ, nhòe mờ, chồng chéo trong dòng chảy miên man
bất định, hồi ức, cảm xúc của Kiên.
Bên cạnh Kiên thì trong tác phẩm Phương là nhân vật nữ nổi lên hơn hết.
Tác giả sử dụng kì ảo ghép mảnh chân dung một cách ấn tượng và đắc địa khi
miêu tả chân dung của Phương – người định mệnh trong đời Kiên. Nhan sắc của
Phương không được miêu tả một cách trực tiếp mà thông qua sự hồi tưởng, trí nhớ
của anh. Nhưng dòng quá khứ của Kiên lại đứt gãy, xáo trộn liên tục. Diện mạo
của cô được hoàn thiện và bổ sung bởi những ấn tượng mới, kí ức tràn về của
Kiên. Phương xuất hiện lần đầu trong giấc mơ của Kiên “anh mơ thấy Phương
đang cùng ở trên thuyền thoi với anh, tóc vờn trước gió, trẻ trung xinh đẹp, không
một nét sầu thương”. Những ấn tượng hiện diện ban đầu của Phương dù không
25


×