Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Tác động cấu trúc sở hữu đến rủi ro của các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Lƣơng Vy

TÁC ĐỘNG CẤU TRÚC SỞ HỮU ĐẾN
RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS. TS. VÕ XUÂN VINH

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Lương Vy, là tác giả luận văn thạc sĩ “Tác động cấu trúc
sở hữu đến rủi ro của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam”. Tôi xin cam đoan
tất cả các nội dung của luận văn này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện với sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Võ Xuân Vinh. Các kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác.

TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Ngƣời cam đoan

Nguyễn Lƣơng Vy

năm 2017


MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ LUẬN VĂN ................................1

1.1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu của đề tài ................................................................................. 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 3

1.5. Kết cấu của luận văn .............................................................................. 3
1.6. Ý nghĩa thực tiễn .................................................................................... 3
CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ................................................................................5

2.1. Khung lý thuyết về cấu trúc sở hữu của NHTM .................................... 5
2.2. Khung lý thuyết về rủi ro tín dụng của NHTM ..................................... 8
2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng ................................................................ 9
2.2.2. Nguyên nhân rủi ro tín dụng ......................................................... 10
2.2.3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng ...................................................... 13
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước đây về tác động của cấu trúc sở hữu
đến rủi ro của các ngân hàng ....................................................................... 14

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM...............................................19

3.1. Giới thiệu về NHTM Việt Nam ........................................................... 19
3.2. Tình hình hoạt động ............................................................................. 20
3.2.1. Vốn điều lệ .................................................................................... 21
3.2.2. Huy động vốn và cho vay ............................................................. 22


3.3. Thực trạng về cấu trúc sở hữu tại các NHTM Việt Nam..................... 24
3.4. Thực trạng rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam ........................... 27
CHƢƠNG 4: NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CẤU TRÚC SỞ HỮU ĐẾN RỦI

RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ..............................29

4.1. Phương pháp nghiên cứu: .................................................................... 29
4.1.1. Mô hình tác động cố định (Fixed Effects Model: FEM) .............. 30
4.1.2. Mô hình tác động ngẫn nhiên (Radom Effects Model: REM) ...... 30
4.1.3. Kiểm định Hausman ...................................................................... 31
4.2. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................... 32
4.3. Mô hình nghiên cứu ............................................................................. 32
4.4. Kết quả phân tích hồi quy mô hình nghiên cứu ................................... 35
4.4.1. Thống kê mô tả.............................................................................. 35
4.4.2. Phân tích tương quan..................................................................... 37
4.4.3. Phân tích hồi quy........................................................................... 37

4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu .............................................................. 40
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................43

5.1. Kết luận ................................................................................................ 43
5.2. Kiến nghị .............................................................................................. 44
5.2.1. Đối với nhà nước ........................................................................... 44
5.2.2. Đối với NHTMCP ......................................................................... 48
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt

Tên đầy đủ

Agribank

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam

BIDV


Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam

FEM

Mô hình tác động cố định

MHB

Ngân hàng TMCP Phát triển Đồng Bẳng Sông Cửu Long

NHNN


Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần

NHTMNN


Ngân hàng thương mại Nhà nước

REM

Mô hình tác động ngẫu nhiên

TCTD

Tổ chức tín dụng

VCB


Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam

Vietinbank

Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Tổng hợp kết quả từ các nghiên cứu trước đây………………………….18
Bảng 3.1 Tổng hợp cổ đông chiến lược nước ngoài của một số ngân hàng……….26
Bảng 4.1 Các biến sử dụng trong mô hình…………………………………………32

Bảng 4.2 Thống kê mô tả các biến……………………………………………..…..36
Bảng 4.3 Phân tích tương quan giữa các biến……..…………………………….....37
Bảng 4.4 Kết quả hồi quy REM và FEM ……………………………………….....38
Bảng 4.5 Kết quả kiểm định Hausman test ……………...………………………...38
Bảng 4.6 Phân tích đa cộng tuyến………………………………………………….39
Bảng 4.7 Kết quả kiểm tra phương sai sai số thay đổi ………………………….....40


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

Hình 3.1 Tỷ trọng vốn điều lệ của các TCTD giai đoạn 2012-2015……………….22
Hình 3.2 Tình hình huy động và cho vay giai đoạn 2006-2015……………………23

Hình 3.3 Thị phần huy động và cho vay năm 2016………………………………..24
Hình 3.4 Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD giia đoạn 2010-2016……………………….27


1

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ LUẬN VĂN
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngành ngân hàng là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của một quốc
gia. Sự phát triển ổn định của ngành có thể góp phần thúc đẩy nền kinh tế của quốc
gia đó phát triển, khi hệ thống ngân hàng yếu kém là nguyên nhân lớn trong việc
làm suy sụp nền kinh tế của một quốc gia. Dẫn chứng là cuộc khủng hoảng tài chính

tại Mỹ năm 2007-2008, hay có thể gọi là cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của
Mỹ. Nó bắt nguồn từ sự quản lý lỏng lẻo trong cho vay tín dụng dưới chuẩn của các
ngân hàng. Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới nên cuộc khủng hoảng ở Mỹ
chắc chắn sẽ tác động đến kinh tế thế giới, kể cả Châu Á. Do đó hoạt động của
ngành ngân hàng là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia quan
tâm.
Tình hình hoạt động của ngành ngân hàng tại Việt Nam có nhiều thay đổi
trong những năm qua. Kể đến đầu tiên là thực hiện chủ trương của Nhà nước năm
2005-2007, lần lượt các NHTMNN đã tiến hành cổ phần hóa, và việc gia nhập
WTO cũng khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài chú ý đến việc tham gia vào hệ
thống ngân hàng của Việt Nam, tỷ lệ tham gia khá cao. Tiếp đó, thực hiện theo chỉ
đạo của Thủ tướng chính phủ tại Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 về việc

phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”, các ngân
hàng đang từng bước thực hiện tái cơ cấu hướng tới việc cải thiện hiệu quả hoạt
động, phát triển an toàn và ổn định trong bối cảnh hội nhập mới.
Trên thực tế, các NHTM Việt Nam có thể được thành lập, tổ chức dưới hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn
điều lệ hoặc công ty cổ phần và TCTD là công ty cổ phần phải có tối thiểu 100 cổ
đông và không hạn chế số lượng tối đa. Với số lượng cổ đông như vậy, các NHTM
sẽ có cấu trúc sở hữu đa dạng, có thể có sở hữu nhà nước, cổ đông nước ngoài, cá
nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Vậy, liệu cấu trúc sở hữu đa dạng như thế có tác
động như thế nào đến hoạt động cũng như rủi ro của các ngân hàng? Điều này là
một đề tài mà các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Xuất phát từ thực



2

tế trên, tác giả lựa chọn đề tài “Tác động cấu trúc sở hữu đến rủi ro của các ngân
hàng thương mại Việt Nam” để nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu về tác động cấu trúc sở hữu đến
rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam, từ đó có thể đạt được các mục tiêu
sau:
- Lược khảo cơ sở lý thuyết về cấu trúc sở hữu và rủi ro của các NHTM và
tác động của cấu trúc sở hữu đến rủi ro của các NHTM.
- Phân tích và đánh giá thực trạng về cấu trúc sở hữu và rủi ro của các

NHTM Việt Nam.
- Sử dụng mô hình định lượng để kiểm định tác động cấu trúc sở hữu đến rủi
ro của các NHTM Việt Nam.
- Từ kết quả phân tích và nghiên cứu, sẽ có những đề xuất kiến nghị về cấu
trúc sở hữu và hoạt động tại các NHTM để có thể phần nào hạn chế được những rủi
ro xảy ra trong hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam.
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung vào các NHTMNN và NHTMCP trong hệ thống các tổ
chức tín dụng Việt Nam, dựa trên số liệu của các ngân hàng trong giai đoạn 20082016 thu thập được để tìm hiểu cấu trúc sở hữu cũng như rủi ro của các ngân hàng.
Từ đó đi sâu vào nghiên cứu tác động cấu trúc sở hữu đến rủi ro của các NHTM
Việt Nam. Về cấu trúc sở hữu, đề tài phân tích tỷ lệ sở hữu của nhà nước (GOVER)
và sở hữu của cổ đông nước ngoài (FOR) tại các NHTM Việt Nam. Rủi ro được lựa

chọn để phân tích là rủi ro tín dụng thông qua sử dụng biến tỷ lệ nợ xấu (NPL).
Nguồn thu thập dữ liệu:
- Các dữ liệu vĩ mô về hoạt động của hệ thống NHTM được tham khảo từ
báo cáo thường niên của NHNN.
- Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như là GDP, tỉ lệ lạm phát được thu thập từ
website của Tổng cục thống kê.


3

- Các dữ liệu của các ngân hàng được lựa chọn để nghiên cứu như là cấu trúc
sở hữu của NHTM, các chỉ tiêu phản ảnh rủi ro cũng như tình hình họat động của

ngân hàng được tham khảo từ các báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của các
NHTM trong giai đoạn năm 2008-2016.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng trong đề tài:
- Phương pháp tổng hợp so sánh: từ những số liệu thu thập được, tổng hợp
thành dữ liệu bảng rùi đưa ra nhận xét, đánh giá về cấu trúc sở hữu và rủi ro trong
hoạt động của NHTM Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng phần mềm Eview 8.0 để
phân tích mô hình hồi qui dựa trên chuỗi dữ liệu bảng. Đề tài bước đầu phân tích
mô hình tác động cố định (FEM), mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) và tiến hành
kiểm định Hausman để lựa chọn giữa REM và FEM. Đề tài nghiên cứu tác động
cấu trúc sở hữu đến rủi ro của các NHTM Việt Nam thông qua sử dụng biến về cấu

trúc sở hữu gồm tỷ lệ sở hữu nhà nước (GOVER), tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước
ngoài (FOR) và biến về rủi ro đề tài sử dụng là tỷ lệ nợ xấu (NPL).
1.5. Kết cấu của luận văn
Đề tài nghiên cứu gồm có 5 chương, như sau:
Chương 1: Giới thiệu về luận văn
Chương 2: Tổng quan lý thuyết về cấu trúc sở hữu và rủi ro của NHTM
Chương 3: Thực trạng về cấu trúc sở hữu và rủi ro của các NHTM Việt Nam
Chương 4: Nghiên cứu tác động cấu trúc sở hữu đến rủi ro của các NHTM
Việt Nam
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
1.6. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài cung cấp một số lý thuyết và khái quát được thực trạng về cấu trúc sở

hữu và rủi ro của các NHTM. Dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực
nghiệm có liên quan, đề tài đưa ra mô hình để nghiên cứu tác động cấu trúc sở hữu
đến rủi ro của các NHTM Việt Nam từ đó có thể đề xuất ra một số kiến nghị đối với


4

Nhà nước và các NHTM liên quan đến cấu trúc sở hữu cũng như hoạt động của các
ngân hàng nhằm hạn chế được rủi ro không đáng có, có thể giúp ổn định được hệ
thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác giả mong muốn sẽ đóng góp phần nào đó vào việc giải quyết vấn đề cấp
thiết hiện nay của Nhà nước là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, giúp hệ thống ngân

hàng Việt Nam hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững, nhất là trong thời kỳ mở
cửa của nước ta hiện nay.


5

CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
2.1. Khung lý thuyết về cấu trúc sở hữu của NHTM
Cấu trúc sở hữu có thể hiểu một cách ngắn gọn là cơ cấu vốn góp trong một
doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu khi phân tích cấu trúc sở hữu của một ngân hàng
sẽ tập trung vào tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông, thứ nhất có thể xét đến quyền

sở hữu tập trung là tỷ lệ sở hữu của các cổ đông nắm giữ cổ phiếu nhiều nhất; thứ
hai là đặc tính của cổ đông như: tỷ lệ sở hữu nhà nước, tỷ lệ sở hữu nước ngoài, tỷ
lệ sở hữu tư nhân, tỷ lệ sở hữu của tổ chức, tỷ lệ sở hữu gia đình. Các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước thời gian qua cũng ghi nhận nhiều kết quả khác nhau khi
nghiên cứu về cấu trúc sở hữu.
Về khía cạnh thứ nhất là quyền sở hữu tập trung, ta có nghiên cứu của
Iannota, G., et al. (2007) so sánh hiệu suất và rủi ro của mẫu gồm 181 ngân hàng
lớn từ 15 quốc gia châu Âu trong giai đoạn 1999-2004. Bài nghiên cứu đưa ra ba
kết quả chính. Thứ nhất, các ngân hàng do chính phủ sở hữu biểu lộ một khả năng
sinh lời thấp hơn so với các ngân hàng tư nhân, mặc dù chi phí thấp hơn. Thứ hai,
các ngân hàng khu vực nhà nước có chất lượng nợ thấp hơn và rủi ro vỡ nợ cao hơn.
Cuối cùng, mặc dù sự tập trung sở hữu không ảnh hưởng đáng kể tới khả năng sinh

lời, nhưng sự tập trung sở hữu cao hơn liên quan đến chất lượng nợ tốt hơn, rủi ro
tài sản thấp hơn và rủi ro vỡ nợ thấp hơn.
Ngoài ra còn có nghiên cứu của Shehzad, Haan, Scholtens (2010), thông qua
số liệu thu thập của 500 NHTM từ hơn 50 quốc gia trong giai đoạn 2005-2007, và
nhận thấy được sự tập trung trong sở hữu có tác động đáng kể đến chất lượng nợ và
vốn hóa của ngân hàng. Sự tập trung trong sở hữu và tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng có
ảnh hưởng ngược chiều.
Và theo W. Rossum, T. Mosk (2012) nghiên cứu để đưa ra câu trả lời về việc
tập trung quyền sở hữu có làm giảm sự mất ổn định tài chính bằng cách cải thiện
chất lượng khoản vay và mức an toàn vốn? Để phân tích chỉ số về chất lượng khoản
vay, tác giả sử dụng chỉ tiêu nợ xấu và sử dụng tổng nguồn vốn, vốn cấp một để



6

phân tích mức an toàn vốn. Sử dụng dữ liệu của khoảng 1.800 ngân hàng từ gần 80
quốc gia, kết quả nghiên cứ cho rằng mức độ tập trung trong quyền sở hữu cao hơn
đã làm cải thiện đáng kể tỷ lệ nợ xấu so với mức độ tập trung quyền sở hữu thấp
hơn.
Về vấn đề thứ hai là đặc tính của cổ đông, sở hữu của chính phủ (sở hữu nhà
nước) có ý nghĩa đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay. Như
theo nghiên cứu của Paola Sapienza (2002) sử dụng thông tin về hợp đồng cho vay
cá nhân để nghiên cứu ảnh hưởng của sở hữu của chính phủ đối với hành vi cho vay
của ngân hàng. Các ngân hàng quốc doanh áp dụng mức lãi suất thấp hơn so với các

ngân hàng tư nhân. Các ngân hàng quốc doanh chủ yếu ủng hộ các doanh nghiệp
lớn nằm ở những khu vực phát triển không mạnh mẽ. Các ngân hàng quốc doanh
khi thực hiện cho vay sẽ có liên quan đến kết quả bầu cử của đảng có liên quan với
ngân hàng: đảng chính trị mạnh mẽ hơn trong khu vực đang vay mượn thì mức lãi
suất trong khu vực đó sẽ thấp hơn.
Rahman, N. and B. Reja (2015) đã cung cấp bằng chứng về tác động của cấu
trúc sở hữu đối với hoạt động của các ngân hàng. Sử dụng dữ liệu thứ cấp, phân tích
thực nghiệm của nghiên cứu này chỉ giới hạn cho các NHTM Malaysia năm 20002011. Thử nghiệm trên năm loại cấu trúc quyền sở hữu như nội bộ, gia đình, chính
phủ, thể chế và sở hữu nước ngoài, kết quả cho thấy hiệu quả hoạt động sẽ khác
nhau đối với các loại hình cơ cấu sở hữu khác nhau. Quyền sở hữu nội bộ và quyền
sở hữu của chính phủ có tác động đáng kể đến những thay đổi của ngân hàng. Tuy
nhiên kết quả không nhất quán về quyền sở hữu nội bộ với giả thuyết cho thấy rằng

cổ phần hiện tại của nội bộ không đủ để gắn kết sự quan tâm của cổ đông nội bộ với
các nhà quản lý và từ đó ngăn cản họ làm việc để mang lại tối đa hóa lợi ích của cổ
đông. Kết quả cho thấy quyền sở hữu của tổ chức chỉ có ý nghĩa đối với ROE
nhưng không đáng kể đối với ROA. Trong khi đó, kết quả về quyền sở hữu gia đình
và sở hữu nước ngoài cho thấy cả hai loại cơ cấu sở hữu này không có tác động
đáng kể.


7

Một làn sóng mới trong việc tư nhân hóa ngân hàng đã làm thay đổi đáng kể
cấu trúc sở hữu của các hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới theo nghiên cứu của

Taboada, A. G.(2011). Tác giả tìm hiểu xem những thay đổi này ảnh hưởng như thế
nào đến hiệu quả phân bổ vốn và đưa ra nhận định sự suy giảm quyền sở hữu của
chính phủ đối với các ngân hàng không ảnh hưởng đến hiệu quả phân bổ vốn. Tuy
nhiên, điều quan trọng là liệu người nước ngoài hoặc các cổ đông lớn trong nước có
mua được các cổ phần của chính phủ. Tăng sở hữu trong nước của các ngân hàng
ảnh hưởng tiêu cực đến việc phân bổ vốn, tăng cường sự hiện diện của nước ngoài
làm tăng hiệu quả phân bổ vốn, đặc biệt ở các nước có sự bảo vệ tốt đối với các cổ
đông thiểu số. Cuối cùng, việc gia tăng sự hiện diện của cổ đông trong nước có ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển tài chính.
Bài báo của Samir Srairi (2013) điều tra tác động của cấu trúc sở hữu, được
đo lường thông qua: tính chất của chủ sở hữu, tập trung trong sở hữu, rủi ro, kiểm
soát ngân hàng, các đặc điểm và các quy định của ngân hàng khác nhau. Đặc biệt,

so sánh hành vi mạo hiểm của các ngân hàng thông thường và Hồi giáo tại 10 quốc
gia MENA gồm sở hữu gia đình, tổ chức và nhà nước trong giai đoạn 2005-2009.
Kết quả đưa ra khi cơ cấu quyền sở hữu thay đổi có ý nghĩa quan trọng trong sự
khác biệt về rủi ro giữa các ngân hàng, tồn tại mối liên hệ tiêu cực giữa tập trung
quyền sở hữu và rủi ro, các loại cổ đông khác nhau có thái độ rủi ro khác nhau. Các
ngân hàng sở hữu gia đình có rủi ro ít hơn. Các ngân hàng quốc doanh có rủi ro cao
hơn và có tỷ lệ nợ xấu cao hơn. Bằng cách so sánh các ngân hàng thông thường và
Hồi giáo, các kết quả thực nghiệm cho thấy các ngân hàng Hồi giáo tư nhân cũng ổn
định như các ngân hàng thông thường tư nhân. Tuy nhiên, các ngân hàng Hồi giáo
có rủi ro tín dụng thấp hơn so với các ngân hàng thông thường. Kết quả làm nổi bật
là khi có sự sở hữu tập trung thì ngân hàng đó có rủi ro phá sản thấp hơn và rủi ro
tài sản thấp hơn. Các phát hiện của bài báo cũng cho thấy rằng bản chất của chủ sở

hữu giải thích việc chấp nhận rủi ro như các ngân hàng thuộc sở hữu gia đình dường
như có rủi ro thấp hơn. Không có sự khác biệt giữa hai loại ngân hàng Hồi giáo và


8

thông thường về điểm Z. Kết quả phù hợp với quan điểm cho rằng các ngân hàng
quốc doanh có rủi ro tín dụng lớn hơn các ngân hàng tư nhân.
Ngoài ra, nhóm tác giả Berger, K., et al. (2005) đã nghiên cứu dựa trên ba
loại sở hữu là sở hữu trong nước, nước ngoài và nhà nước. Những phát hiện chính
của bài nghiên cứu về ảnh hưởng của quyền sở hữu ngân hàng đối với hiệu quả hoạt
động cho thấy các ngân hàng quốc doanh có xu hướng có hiệu quả hoạt động về lâu

dài kém hơn so với các ngân hàng khác, kết quả này phù hợp với nhiều tài liệu.
Tại Việt Nam. các NHTM có cấu trúc sở hữu cũng khá đa dạng. Các nhà
nghiên cứu trong nước cũng quan tâm phân tích nhưng thực sự chưa nhiều. Như
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Sơn (2014) về “Tác động của cấu trúc sở hữu
đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh tái cơ cấu”, nghiên
cứu của tác giả Võ Xuân Vinh về “Cấu trúc sở hữu, hiệu quả hoạt động và giá trị
doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam” được đăng trên Tạp chí phát
triển và hội nhập số 16 (2014), cả hai nghiên cứu đều cho ra kết quả cấu trúc sở hữu
khác nhau có tác động khác nhau đến hoạt động của doanh nghiệp.
2.2. Khung lý thuyết về rủi ro tín dụng của NHTM
Rủi ro là nguy cơ xảy ra những sự kiện ngoài mong muốn, gây ra những tác
động bất lợi cho cá nhân hoặc tổ chức. Đối với ngân hàng, các tác động này có thể

dẫn đến sự giảm sút trong doanh thu. Theo tiêu chuẩn của Basel thì rủi ro là việc
ngân hàng có thể xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Như vậy, rủi ro của ngân hàng phải
gắn với việc giảm sút thu nhập ngoài dự kiến và những biện pháp quản lý rủi ro của
ngân hàng là để kiểm soát rủi ro nằm trong mức chấp nhận được, có thể kiểm soát
được và không gây tổn thất quá lớn, làm giảm lợi nhuận kỳ vọng. Ngân hàng là
ngành kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế nên rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng
thường rất nhiều và rất cao. Trong kinh doanh của ngân hàng luôn phải đối mặt với
rất nhiều rủi ro khác nhau, có thể rủi ro đến từ nội tại của ngân hàng, rủi ro bên
ngoài…
Nghiệp vụ tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng trong hoạt
động của ngân hàng. Do đó, có rất nhiều nhà phân tích khi nghiên cứu về rủi ro của



9

ngân hàng thường lựa chọn nghiên cứu về rủi ro trong nghiệp vụ này và đề tài cũng
lựa chọn rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại để nghiên cứu.
2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Từ xưa đến nay, có rất nhiều nghiên cứu về rủi ro tín dụng, vì vậy cũng có
nhiều khái niệm về loại rủi ro này.
Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của
Ngân hàng Nhà nước: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả
năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn

bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Trong từ điển thuật ngữ chuyên ngành ngân hàng của Thomas P.Fitch (2000):
“Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh toán được nợ theo
thoả thuận hợp đồng dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn”.
Ngoài ra, Greuning, Bratanovic (2003) cho rằng rủi ro tín dụng được định
nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc
so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi
trả bị trì hoãn, hoặc thậm chí là không hoàn trả được toàn bộ. Điều này gây ra
những vấn đề đối với dòng tiền và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân
hàng. Rủi ro tín dụng vẫn là nguyên nhân chính gây ra sự thất bại của ngân hàng.
Vậy tóm lại, rủi ro tín dụng là rủi ro mà ngân hàng thường gặp phải, biểu
hiện của rủi ro này là các khoản cho vay của ngân hàng giảm giá trị hoặc không thể

thu hồi được. Rủi ro tín dụng được xác định là rủi ro thua lỗ do người vay và các
đối tác của ngân hàng không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng và các tài
sản thế chấp đã cung cấp không đáp ứng các yêu cầu trả nợ của ngân hàng. Trong
trường hợp nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng nhỏ hơn nhiều so với tổng giá trị
tài sản, thì khi ngân hàng gặp rủi ro tín dụng có thể đẩy đến tình trạng tệ nhất là phá
sản. Để khắc phục và phòng ngừa tổn thất trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng
sẽ thực hiện trích lập dự phòng.


10

2.2.2. Nguyên nhân rủi ro tín dụng

Một khi rủi ro tín dụng xảy ra đối với một NHTM thì thiệt hại gây ra cho
ngân hàng cũng vô cùng lớn, không những ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh của
ngân hàng mà có thể ảnh hưởng đến khả năng chi trả của ngân hàng, thậm chí nguy
hiểm hơn làm ảnh hưởng dây chuyền đến toàn hệ thống ngân hàng. Do đó, việc tìm
hiểu, phân tích nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng là vô cùng quan trọng và cần
thiết đối với mỗi một NHTM. Tham khảo “Giáo trình tín dụng và thẩm định tín
dụng ngân hàng” của tác giả Nguyễn Minh Kiều (2009) và nghiên cứu của Pavla
Vodova (2014) về nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia thành các nhóm
nguyên nhân sau:
 Về phía ngân hàng:
Thứ nhất, sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về
năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu

kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin,
đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay, lãi suất vay và kỳ hạn không phù
hợp; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng
không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành
chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất
vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có
tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng
cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà
bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.
Thứ hai, sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao.
Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu
cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính

xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân, cán bộ
tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của
những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ
mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán


11

bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến
những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên
không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ
đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.

Thứ ba, ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công cụ luôn
được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị
danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận
dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản
phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin
rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù
hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, song rất nhiều ngân
hàng chỉ tập trung cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh
nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào
một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có
rủi ro.
 Về phía khách hàng:

Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này
thành hai loại chính:
Thứ nhất, do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ.
Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các
vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích, sản
phẩm chất lượng thấp không bán được…Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng
lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà
không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra
nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai, do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được
mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng
phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch.

Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả


12

năng tài chính của khách và cho vay vốn với hạn mức và thời hạn không hợp lý, dẫn
đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh
có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định
không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
 Nguyên nhân khác:
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như
chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách của nhà nước…

Thứ nhất, chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu
thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của
khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các
thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không
phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và
kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có
hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân
hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai, những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn
định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến
động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một

nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể
thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt
động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không
được đảm bảo.
Thứ ba, sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất
quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân
hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy
định về thuế, vốn..,cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động
nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, trích lập dự phòng…Như vậy, các



13

chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn cho doanh
nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho
vay.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ
của khách hàng mà khách hàng không lường trước được như thiên tai, cháy nổ….
2.2.3. Ảnh hƣởng của rủi ro tín dụng
 Đối với hoạt động ngân hàng:
Rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng: khi có một khoản nợ được
coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay, một phần vì không thu
được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả lãi cho nguồn vốn huy

động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh. Mặt khác nếu các khoản
nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu được thì việc xử lý tài sản đảm
bảo luôn gặp khó khăn về pháp lý và định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu
hồi được nợ khi phát mại tài sản rất khó khăn.
Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ lệ xấu trên
tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân hàng mà còn làm giảm
nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Khi đó ngân
hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ
tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc
hàng loạt người gửi tiền rút tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá
sản.
Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khi

ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn khác nhau, uy tín
của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm trọng. Hơn nữa tỷ lệ
nợ xấu trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá không tốt về
tình hình hoạt động của ngân hàng, điều này sẽ ảnh hưởng đến tâm lý đối tác của
ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại
trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác.
 Đối với nền kinh tế:


14

Hoạt động của NHTM mạng tính xã hội hóa cao vì nó lien quan đến nhiều

ngành nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy khi một ngân
hàng bị phá sản nó sẽ gây ảnh hưởng đến các bộ phận còn lại trong xã hội, trước
tiên là các ngân hàng khác, bởi có quan hệ mật thiết với nhau trong hoạt động nên
một ngân hàng sụp đỗ có thể dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra
việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn, người gửi
tiền không lấy lại tiền được. Những hậu quả này còn giảm lòng tin của công chúng
vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các
chính sách tiền tệ của Chính phủ.
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trƣớc đây về tác động của cấu trúc sở hữu đến
rủi ro của các ngân hàng
Rủi ro là một đề tài mà rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan
tâm, các yếu tố tác động đến rủi ro của một ngân hàng rất nhiều và phức tạp. Tùy

thuộc vào tính chất và mục đích của nghiên cứu, mỗi tác giả sử dụng một bộ các
biến giải thích khác nhau. Dưới đây là tổng quan một số nghiên cứu về tác động cấu
trúc sở hữu đến rủi ro của các ngân hàng của một số tác giả trong và ngoài nước,dựa
vào đó để làm cơ sở lựa chọn mô hình cho luận văn.
Nghiên cứu của Barry, Lepetit, Tarazi (2011) với mục tiêu nghiên cứu nhằm
phân tích cấu trúc sở hữu khác nhau có liên quan đến các mức độ rủi ro và lợi nhuận
khác nhau ở các ngân hàng tư nhân và các ngân hàng nhà nước hay không? Tác giả
phân biệt năm nhóm cổ đông giả định có những khác nhau về rủi ro (nhà quản lý /
giám đốc, nhà đầu tư tổ chức, công ty phi tài chính, cá nhân / gia đình, và ngân
hàng). Tác giả sử dụng tỷ lệ cổ phần của cổ đông là tổ chức như là một tỷ lệ sở hữu
chuẩn để đánh giá tác động khi cơ cấu quyền sở hữu của một ngân hàng thay đổi
đối với rủi ro và lợi nhuận. Mục đích của tác giả nhằm đánh giá phản ứng khác nhau

của các ngân hàng có sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân với những thay đổi về rủi
ro và lợi nhuận. Thông qua việc kiểm định một mẫu bao gồm dữ liệu báo cáo hàng
năm từ năm 1999 đến năm 2005 cho một nhóm các nước châu Âu gồm các NHTM
tại 16 nước Tây Âu để phân tích rủi ro trong các ngân hàng sở hữu nhà nước và


15

ngân hàng tư nhân. Biến được sử dụng trong bài nghiên cứu: Biến phụ thuộc gồm
SDROA (độ lệch chuẩn của lợi nhuận trên tài sản bình quân), SDROE (độ lệch
chuẩn của lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân), tỷ lệ dự phòng rủi ro trên dư
nợ cho vay ròng (M_LLP) và chỉ số Zscore (biểu thị xác suất thất bại của một ngân

hàng nhất định, rủi ro vỡ nợ) và các biến độc lập gồm MANAGER, FAMILY,
COMPAMNY, BANK (tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà quản lý, gia đình/cá nhân,
các công ty phi tài chính, ngân hàng), LISTED (phân biệt các ngân hàng được niêm
yết), quy mô ngân hàng (M_LNTA), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản
(M_OEQUITY). Qua nghiên cứu và phân tích thực nghiệm số liệu thu thập được,
tác giả đưa ra nhận định cấu trúc sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích
sự khác biệt về rủi ro nhưng những phát hiện đó chủ yếu dành cho các ngân hàng tư
nhân. Nhìn chung, cổ phần của các cá nhân/gia đình hoặc các tổ chức nhiều hơn sẽ
làm giảm rủi ro tài sản và rủi ro vỡ nợ. Hơn nữa, không giống như đối với các ngân
hàng tư nhân, đối với những thay đổi cấu trúc sở hữu ngân hàng nhà nước ở nước
này không ảnh hưởng đến rủi ro.
Nếu xét về cấu trúc sở hữu nhà nước, nghiên cứu của Cornett, L.Guo,

Khaksari, Tehranian (2010) về sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động khác nhau
ở ngân hàng tư nhân và ngân hàng sở hữu nhà nước. Bài viết này xem xét làm thế
nào sở hữu của nhà nước và sự tham gia của chính phủ vào hệ thống ngân hàng của
một quốc gia ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong giai đoạn từ
năm 1989 đến năm 2004. Nghiên cứu khám phá ra sự thay đổi quả hoạt động giữa
các ngân hàng có sở hữu nhà nước và các ngân hàng tư nhân xung quanh cuộc
khủng hoảng tài chính ở Châu Á thông qua báo cáo tài chính cuối năm từ năm 1989
đến năm 2004 của 16 quốc gia: Bangladesh, Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ,
Indonesia, Macau, Malaysia, Nepal, Pakistan, Philippines, Singapore, Hàn Quốc,
Sri Lanka, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam. Tác giả cho rằng các ngân hàng sở hữu
nhà nước hoạt động kém hiệu quả, vốn cấp một ít và rủi ro tín dụng cao hơn các
ngân hàng tư nhân trước năm 2001 và sự khác biệt về hiệu quả hoạt động này có ý

nghĩa quan trọng hơn ở những nước có sự tham gia của chính phủ và tham nhũng


16

chính trị trong hệ thống ngân hàng nhiều hơn. Ngoài ra, thời kỳ 4 năm kể từ cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á, sự suy thoái về lợi nhuận, vốn cấp một và chất lượng
tín dụng của các ngân hàng có sở hữu nhà nước lớn hơn đáng kể so với các ngân
hàng tư nhân, đặc biệt ở những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng
hoảng Châu Á. Sau đó, các ngân hàng có sở hữu nhà nước đã thu hẹp khoảng cách
với các ngân hàng tư nhân về lợi nhuận của dòng tiền, vốn cấp một và các khoản
cho vay không hiệu quả trong thời kỳ hậu khủng hoảng 2001-2004.

Xem xét sự liên quan giữa quyền sở hữu nhà nước và sự ổn định của ngân
hàng trong giai đoạn 1997-2010 trên một mẫu gồm 103 quốc gia theo nghiên cứu
của Linh Nguyen (2012). Tác giả cho thấy mối liên hệ giữa quyền sở hữu của nhà
nước và sự ổn định của ngân hàng phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế và chính sách
pháp luật của một quốc gia. Ở những nước đã phát triển, các nước có thu nhập cao,
mức độ sở hữu của nhà nước và rủi ro của các ngân hàng có liên quan nhau. Và có
sự mâu thuẫn ở các nước đang phát triển, các nước có thu nhập trung bình và thấp.
Bất kể phân loại quốc gia, tính thanh khoản của ngân hàng và lãi suất có mối liên hệ
tiêu cực với sự ổn định của ngân hàng.
Đối với sở hữu của cổ đông nước ngoài, phải nói đến nghiên cứu của Laeven
(1999) đã phát hiện cho thấy các ngân hàng nước ngoài ít có rủi ro hơn so với các
ngân hàng khác trong khu vực Đông Á, và các ngân hàng thuộc sở hữu của gia đình,

hoặc các ngân hàng có cổ đông sở hữu là các tổ chức. Các ngân hàng được tái cấu
trúc chủ yếu là các ngân hàng có sở hữu gia đình hoặc tổ chức, và hầu như không có
ngân hàng có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài. Tác giả nhận định khuyến khích
người nước ngoài trở thành nhóm chủ đầu tư của các ngân hàng. Ngoài ra còn có
nghiên cứu của Jiang, Yao, Feng (2013) về cấu trúc sở hữu, tư nhân hóa và hoạt
động của ngân hàng, đã kiểm tra ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu và tác động của tư
nhân hóa đến hoạt động của ngân hàng ở Trung Quốc trong giai đoạn 1995-2010.
Và có những phát hiện chính như sau: thứ nhất, cấu trúc sở hữu của một ngân hàng
có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng có quyền sở
hữu của người nước ngoài có nhiều lợi nhuận hơn. Các ngân hàng sở hữu nhà nước



17

có hiệu quả hoạt động thấp. Ngược lại, các ngân hàng cổ phần là các ngân hàng
hiệu quả nhất về chi phí. Những kết quả này có liên quan và quan trọng hơn về lâu
dài đối với các ngân hàng có quyền sở hữu của người nước ngoài.
Ngoài ra, rủi ro của một ngân hàng cũng chịu tác động của những yếu tố về
quy mô, vĩ mô. Để giải thích thêm, đề tài cũng tham khảo một số nghiên cứu trước
đây về các yếu tố ngân hàng, yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động đến rủi ro của các
ngân hàng.
Những phát hiện của Anjom, Karim (2016) về tỷ lệ tăng trưởng GDP, tỷ lệ
lạm phát, tỷ lệ vốn trên tổng tài sản, lợi nhuận ròng trên tài sản dường như có ảnh
hưởng mạnh đến tỷ lệ nợ xấu. Những kết quả này cho thấy tỷ lệ nợ xấu của các

ngân hàng Băng-la-đét bị ảnh hưởng lớn bởi cả yếu tố kinh tế vĩ mô và yếu tố ngân
hàng.
Khi nghiên cứu về các khoản nợ xấu và yếu tố vĩ mô, Beaton, Myrvoda,
Thompson (2016) cũng cho rằng các yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đáng kể đến
chất lượng tài sản. Hiệu quả kinh tế mạnh mẽ dẫn đến sự sụt giảm đáng kể về nợ
xấu. Do tăng trưởng GDP cao hơn thông qua tỷ lệ thất nghiệp thấp và tăng thu nhập
khả dụng, có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ nợ quá hạn, nhất là trong lĩnh vực cá nhân
và du lịch. Lạm phát cao có thể làm giảm giá trị thực của khoản nợ của khách hàng
và giảm nợ xấu, do đó tạo ra một tác động âm; nhưng nếu tiền lương không theo kịp
lạm phát, khả năng khách hàng có đủ tiền để trả nợ hoặc trả nợ đúng hạn sẽ giảm,
dẫn đến nợ xấu cao hơn, có nghĩa là mối quan hệ dương giữa lạm phát và tăng
trưởng nợ xấu. Có một sự khác biệt khi xem xét về tốc độ tăng trưởng GDP ở khu

vực dùng đồng Euro chung, Nir Klein (2013) cho rằng tốc độ tăng trưởng GDP có
quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu. Kết quả xác nhận mức nợ xấu có xu hướng
tăng lên khi tỷ lệ thất nghiệp tăng và lạm phát cao. Các khoản nợ xấu cũng nhạy
cảm với các yếu tố ngân hàng như tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, tỷ lệ lợi
nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu.
Sau đây là bảng tổng hợp các nghiên cứu để làm cơ sở so sánh với kết quả
phân tích của đề tài:


18

Bảng 2.1 Tổng hợp kết quả từ các nghiên cứu trƣớc đây

Tác giả

Biến độc lập

Rủi ro tín dụng

Barry, Lepetit, Tarazi (2011)

- EA

(-)


Linh Nguyen (2012)

- GOVER
- EA
- ROA
- GDP
- HHI

(+)
(+)
(-)
(-)

(+)

Cornett, L.Guo, Khaksari, Tehranian
(2010)

- GOVER

(+)

Samir Srairi (2013)

- GOVER


(+)

Laeven (1999)

- FOR

(-)

Anjom, Karim (2016)

- GDPg

- INF
- ROA
- EA

(+)
(+)
(-)
(+)

Beaton, Myrvoda, Thompson (2016)

- GDPg

- INF

(-)
(+/-)

Nir Klein (2013)

- GDPg
- INF
- EA

(-)

(+)
(-)

Willbert, Thomas (2012)

- ROA

(-)


×