Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TỪ NHO PHONG ĐẾN ĐOẠN TUYỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.13 KB, 45 trang )

MỞ ĐẦU
Ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn học.
Nó là công cụ, là chất liệu cơ bản để nhà văn xây dựng nên tác phẩm, là “chìa
khóa” để bạn đọc mở cánh cửa, bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật là cơ sở để tìm hiểu, khám phá thế giới hình
tượng và các lớp nội dung ý nghĩa của văn bản nghệ thuật; từ đó, khẳng định
những thành tựu và đóng góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc. Trong văn
học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945, Tự lực văn đoàn là “nhóm quan trọng nhất
và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học Việt Nam hiện đại” (Hoàng Xuân
Hãn). Với khoảng 10 năm hoạt động của mình, Tự lực văn đoàn đã có nhiều
đóng góp cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại tiểu
thuyết. Trong sự tồn tại phát triển của nhóm, chúng ta không thể không nhắc đến
cây bút trụ cột Nhất Linh. Là cây bút tài năng, tâm huyết với cuộc sống và nghệ
thuật, Nhất Linh không chỉ để lại một số lượng tác phẩm tương đối lớn mà
những sáng tác của ông có nhiều ảnh hưởng tới tư tưởng của tầng lớp thanh niên
trí thức Việt Nam những năm 30 và tạo được sự ngưỡng mộ đối với độc giả yêu
mến văn học. Nho phong và Đoạn tuyệt của Nhất Linh là hai tác phẩm vừa là mở
đầu, vừa là có giá trị nhất, góp tiếng nói tố cáo, phê phán mạnh mẽ những hủ tục
lạc hậu và bênh vực quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân của con người. Với
cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt Nhất Linh “đã có những đóng góp lớn vào nghệ
thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào câu văn của dân
tộc với lối văn trong sáng và rất Việt Nam” (Huy Cận).
Sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, trong số những công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Nhất
Linh đã công bố, chưa có công trình nào tập trung tìm hiểu sâu vào ngôn ngữ
nghệ thuật của nhà văn cũng như ngôn ngữ của tiểu thuyết Nho phong và Đoạn
tuyệt - cuốn tiểu thuyết luận đề đầu tiên mở màn cho hiện đại hóa văn chương
1


tiểu thuyết. Qua một số tác giả khi tìm hiểu về Nhất Linh cũng đã đưa ra một số


những nhận xét về ngôn ngữ nghệ thuật của ông. Vũ Ngọc Phan cho rằng lời văn
Nhất Linh: “nửa giản dị, nửa đài điếm”. Trương Chính trong bài “Nhất Linh" đã
so sánh: “Lối hành văn của Nhất Linh là một lối hành văn rất thi vị, thi vị ở ý
mà ít ở lời. Nhất Linh không đẽo gọt, trau chuốt câu văn của mình như Khái
Hưng nhưng tự nó có nhịp điệu , tự nó đã du dương vì ý bao hàm ở trong là một
ý thơ” [10; 239]. Bạch Năng Thi trong bài Nhất Linh - tác giả tiêu biểu đã đƣa ra
những lời đánh giá về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh: “... lời văn ngắn gọn,
chặt chẽ, chính xác, vừa giản dị, vừa chọn lọc (…) Văn Nhất Linh vừa rành
mạch, trong sáng, vừa có nhạc điệu, có hình ảnh. Nó diễn tả được những cảm
giác tinh vi. Nó sử dụng các so sánh cụ thể, có khả năng tạo hình và gợi cảm”.
Trong công trình nghiên cứu “Những cách tân trong nghệ thuật văn xuôi Tự
lực văn đoàn”, Trịnh Hồ Khoa cũng đã nêu ra ý kiến xác đáng: “Văn Nhất Linh
ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, giản dị nhưng không thiếu chất thơ. Giống con
người Nhất Linh, văn ông tế nhị, có chừng mực, trang nhã, tả rất đạt những tâm
tình thanh sạch…”. Nhìn chung các nhà nghiên cứu mới đã đưa ra những nhận
xét khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh hoặc đề cập đến một số đặc
điểm ngôn ngữ trong một vài tác phẩm chính. Song những nhận xét của người đi
trước cũng đã gợi ý cho tôi thực hiện đề tài này. Hôm nay tôi chọn đề tài: “Ngôn
ngữ nghệ thuật của Nhất Linh từ Nho phong đến Đoạn tuyệt” nhằm đi sâu
nghiên cứu quá trình vận động, đổi mới trong ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh và
thấy được những đóng góp của nhà văn đối với quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ
văn học dân tộc.

2


NỘI DUNG
Chương 1. Ngôn ngữ nghệ thuật và những yếu tố chi phối ngôn ngữ nghệ
thuật của Nhất Linh
1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật

1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật
Theo cuốn Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên, Ngôn ngữ nghệ thuật
là: “…một hệ thống các phương thức, quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ
của một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta có thể nói “ngôn ngữ ba lê”,
“ngôn ngữ chèo”, “ngôn ngữ điện ảnh”. Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ
thuật của sáng tác văn học trên cấp độ đó” [12; 185,186]. Khái niệm này đã nêu
ra cách hiểu khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật nhưng chưa chỉ ra được những nét
riêng của ngôn ngữ nghệ thuật với tư cách là phương tiện biểu hiện của các sáng
tác văn học - loại hình nghệ thuật ngôn từ. Vì thế khái niệm “Ngôn ngữ nghệ
thuật” cần được khu biệt rõ hơn. Theo tôi “Ngôn ngữ nghệ thuật” là ngôn ngữ
được sử dụng một cách nghệ thuật trong các tác phẩm văn học, đó là ngôn ngữ
mang tính hình tượng, tính biểu cảm và thể hiện rõ cá tính sáng tạo của nhà văn.
Trong thực tế, thuật ngữ này thường được dùng tương đương với các thuật ngữ:
Ngôn từ nghệ thuật, Ngôn ngữ văn học, Lời văn nghệ thuật. Bản chất của ngôn
ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ mang tính toàn vẹn, cụ thể, sinh động, có tính thẩm
mĩ trong các tác phẩm văn học, chứ không phải là ngôn ngữ trong các hoạt động
giao tiếp khác hoặc ngôn ngữ với tư cách đối tượng chuyên biệt của ngôn ngữ
học.
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật
1.1.2.1. Trong hoạt động sáng tạo
Ngôn ngữ chính là công cụ, là chất liệu để nhà văn xây dựng hình tượng văn
học và giao tiếp nghệ thuật, qua đó gửi gắm ý đồ nghệ thuật của mình. Ngôn ngữ
nghệ thuật có “cội nguồn từ ngôn ngữ nhân dân”, nhưng được chọn lọc, rèn giũa
3


qua lao động nghệ thuật của nhà văn, trở thành phương tiện biểu hiện nghệ thuật.
Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận thấy: “Ngôn ngữ khoa học không mấy khi có
nhiệm vụ tái hiện lại mối quan hệ tình cảm giữa người nói với đối tượng được
nói đến. Còn ngôn ngữ nghệ thuật thì bao giờ cũng tìm cách truyền các quan

điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy cái lối nhìn sự vật,
cách nhận thức và cảm quan về thế giới của anh ta, nói tóm lại là ngôn ngữ đó
mang dấu ấn của cá tính và phong cách nghệ sĩ. Đặc điểm nói trên tạo nên sức
rung cảm, thuyết phục và thu hút đặc biệt của ngôn ngữ nghệ thuật” [2; 343].
Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật đối với hoạt động sáng tạo của nhà văn cũng
được các tác giả cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học" khẳng định: “Ngôn ngữ văn
học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách,
tài năng của nhà văn” [14; 215]. Kho ngôn ngữ là của toàn dân, được bồi đắp
qua các thời kỳ lịch sử, nhưng cách sử dụng như thế nào lại phụ thuộc vào nhãn
quan ngôn ngữ của mỗi thời đại, mỗi trào lưu văn học, mỗi tác giả.Tìm hiểu
ngôn ngữ nghệ thuật sẽ giúp các nhà nghiên cứu khám phá sâu hơn về về thế giới
nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà văn trên nền chung của một thời
đại, một trào lưu văn học, một thể loại văn học.
1.1.2.2. Trong hoạt động tiếp nhận văn học
Trong hoạt động tiếp nhận, ngôn ngữ nghệ thuật cũng có vai trò rất quan
trọng. Đó là “yếu tố đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc đối với tác phẩm”,
là “hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại nội dung tác phẩm” [4; 308]. Và từ
yếu tố trực tiếp, đầu tiên, duy nhất ấy mà người đọc có thể tìm hiểu, khám phá tư
tưởng nghệ thuật, thế giới hình tượng…đã được nhà văn gửi gắm trong tác
phẩm. Tiếp nhận văn học dù với mục đích nào thì cũng đều phải bắt đầu từ ngôn
ngữ nghệ thuật, bởi vì “cả hình tượng nhân vật, bức tranh phong cảnh, cốt
truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật về thế giới và con
người… chỉ được nắm bắt nhờ những hình thức của ngôn từ” [7; 170]. Ngôn ngữ
4


nghệ thuật chứa đựng trong đó cả thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã sáng tạo, từ
nhân vật đến không gian, thời gian, chi tiết, cốt truyện, kết cấu… không một
bình diện nào nằm ngoài ngôn ngữ nghệ thuật. Chính vì thế muốn nắm bắt được
thế giới nghệ thuật ấy của nhà văn, người đọc không thể không đi sâu khám phá

ngôn ngữ trong tác phẩm.
1.2. Những yếu tố chi phối ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
1.2.1. Những biến đổi trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.2.1.1. Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX có sự biến đổi sâu sắc từ xã hội phong kiến
sang xã hội thực dân nửa phong kiến trong cuộc tiếp xúc với phương Tây. Những
thay đổi này một mặt nằm trong kế hoạch khai thác thuộc địa tàn bạo mà thực
dân Pháp đã vạch ra. Mặt khác theo hướng tích cực, với vai trò là “công cụ vô
thức của lịch sử”, nó lại có tác dụng đưa Việt Nam dần thoát khỏi sự trì trệ ngàn
năm của chế độ phong kiến lạc hậu, dần bước vào con đường hiện đại Tây
phương. Sự thay đổi ấy kéo theo sự biến đổi trong ý thức, tâm lý người dân, mà
văn học là sự thể hiện tập trung và cao độ nhất.
Song song với quá trình biến đổi ấy là sự xuất hiện của các đô thị theo mô
hình Tây phương. Các đô thị mọc lên đã làm thay đổi hẳn cơ cấu giai cấp, những
tầng lớp mới được hình thành đã tạo nên sự đa dạng và phức tạp cho đời sống
chính trị xã hội của đất nước. Trước kia, trong xã hội Việt Nam có bốn hạng “tứ
dân”: Sĩ - Nông - Công - Thương. Thì thời điểm này có thêm những ông thông,
ông phán làm việc cho Pháp, công nhân làm việc trong các công xưởng, hầm mỏ,
nông dân bị phá sản, mất hết ruộng đất phải lên thành phố kiếm sống. Tại đây có
thể gặp được đủ hạng người, từ lưu manh, thất nghiệp đến lớp bình dân nghèo,
tầng lớp trung lưu và cả giới thượng lưu tư sản đua nhau thanh lịch, học theo
kiểu cách, lối sống phương Tây.

5


Lối sống coi trọng vật chất, hàng hoá, tiền bạc phá vỡ các quan hệ luân
thường. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở thành thị đã làm con người trở thành
những cá nhân. Mà “trong một xã hội cá nhân trở thành thực tế, thì luân thường
- những quan hệ đạo lí bất biến - quá đơn giản, chật hẹp, không thể chứa đựng

nổi sự phức tạp đa dạng sự biến động của thực tế cuộc sống. Ân tình không thể
giải quyết hết các quan hệ. Người ta phải tìm thế giới xã hội cách khác, có thái
độ khác và chờ đợi văn học đưa lại cho mình những cái khác trước” [6; 24].
Lối sống thay đổi đã tạo nên sự thay đổi trong tư tưởng, tình cảm, tâm lí của
con người thời đại. Điều đó đòi hỏi văn học cũng phải thay đổi từ tư tưởng, quan
niệm thẩm mĩ đến hình thức thể hiện. Quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn
chí” của văn học trung đại không còn phù hợp với nhu cầu thưởng thức của tầng
lớp công chúng chủ yếu của văn học lúc này nữa (tầng lớp thị dân). Trong cuộc
sống mới , thế lực đồng tiền lên ngôi, con người cá nhân cần khẳng định và tự
tôn, người ta chờ đợi và mong muốn một nền văn học sát với cuộc sống hiện
thực đang diễn ra hàng ngày: “Người ta cần hiểu rõ, hiểu kĩ cuộc sống với tất cả
những chi tiết đầy đủ, những chi tiết cụ thể trong cuộc sống bình thường thế tục.
Người ta muốn nếm trải cái có thật (hay có thể có thật), chứ không phải
được khích lệ bằng những tấm gương trung hiếu, minh hoạ bằng đạo nghĩa…
Người ta cũng muốn xúc cảm, muốn mở mang như những con người cá nhân,
chứ không phải xúc động như khi chiêm ngưỡng tấm gương cao cả của các vị
thánh xuất chúng” [6; 24 / 25].
Khát vọng đó của tầng lớp công chúng đã trở thành nhu cầu, thành thị hiếu
văn học, đòi hỏi nền văn học mới đáp ứng. Điều đó cũng góp phần lí giải tại sao
những đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh lại gắn với tầng lớp công
chúng đông đảo này.

6


1.2.1.2. Sự phổ biến và phát triển của chữ quốc ngữ
Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ là một cuộc cách mạng trong hệ thống ngôn
ngữ - văn tự của dân tộc ta. Trong thời kì phong kiến, chữ Hán là văn tự chính
thống được điển phạm hoá và hành chính hoá. Với tư cách là văn tự vay mượn,
lại được coi là “chữ thánh hiền”, chữ Hán chỉ được phổ biến trong phạm vi hạn

hẹp của tầng lớp nho sĩ theo đòi “cửa Khổng sân Trình”. Hơn nữa nó không dựa
trên cơ sở ngôn ngữ (lời ăn tiếng nói) dân tộc, nên cũng không thể đưa ra phổ
biến rộng rãi trong nhân dân. Chữ Nôm tuy là sáng tạo của nhân dân ta nhƣng lại
lấy cơ sở Hán tự mà cải biên đi, dùng ghi âm tiếng Việt nên cũng không thực
thích hợp. Chính điều đó đã tạo nên tính chất bó hẹp của văn học cổ điển trong
sáng tạo và thưởng thức.
Sang tới chữ quốc ngữ, tình hình lại khác hẳn. Với ưu điểm dễ đọc, dễ viết,
chữ quốc ngữ đã nhanh chóng đƣợc phổ biến trong nhân dân. Bất cứ ngƣời dân
bình thường nào cũng có thể học và tự ghi chép lại lời ăn, tiếng nói hàng ngày.
Nhiệm vụ “văn - ngữ nhất thể” mà văn học Việt Nam thực hiện trong quá trình
hiện đại hoá đầu thế kỷ XX không thể thực hiện đƣợc nếu không có sự xuất hiện
của chữ quốc ngữ.
Ngược dòng thời gian, có thể thấy chữ quốc ngữ đã có một lịch sử dài lâu
nhưng suốt ba thế kỷ trước nó không có điều kiện phát triển. Năm 1651, với việc
cuốn Từ điển An Nam - La tinh - Bồ Đào Nha do cố đạo A.de Rhode soạn được
in ở Vatican, Roma, đƣợc coi là mốc ra đời của chữ quốc ngữ. Tuy nhiên thứ văn
tự này chỉ tồn tại trong phạm vi những người công giáo. Mãi hơn 200 năm sau,
năm 1862 thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ và ra tờ “Gia Định
báo” (1865 - 1909), nhằm ban bố những chính sách với dân thuộc địa. Từ đây,
chữ quốc ngữ mới bắt đầu được phổ biến rộng rãi. Cùng với quá trình mở rộng
xâm lược và đặt nền bảo hộ của thực dân Pháp trên xứ An Nam, thứ văn tự mới
cũng được mở rộng phạm vi sử dụng. Người Pháp đã sớm nhìn thấy những mặt
7


mạnh của của loại văn tự này so với chữ Hán trong việc truyền bá những chính
sách cai trị: tính dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đánh vần, ghi âm. Mặt khác, nhằm
nhanh chóng xoá bỏ những ảnh hưởng của chế độ phong kiến xứ thuộc địa mà
một trong số đó, đầu bảng là Hán văn nên trong thời kì đầu, Pháp ra sức ủng hộ
chữ quốc ngữ. Nghị định ngày 6/4/1878 viết : “Kể từ ngày1/1/1882 không một

tuyển dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào cho phép trong ngạch
phủ, huyện. tổng đối với bất cứ ai ở trong tình trạng không viết được chữ quốc
ngữ” [11; 34]. Tiếp theo đó, ngày 18/ 9/1924, Nghị định của toàn quyền Đông
Dương cho phép dạy chữ quốc ngữ ở ba năm đầu trong sáu năm cấp tiểu học.
Tuy nhiên, công lao hàng đầu trong việc phổ biến rộng rãi chữ quốc ngữ đầu thế
kỉ XX, qua đó hình thành nền quốc văn mới, phải kể đến những nhà Nho yêu
nước cùng các trí thức có đầu óc tiên tiến “như Trần Quý Cáp, Nguyễn Phan
Lãng, Nguyễn Quyền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh
Thúc Kháng:
"Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách Âu Mỹ, sách Chi na
Chữ kia, chữ nọ dịch ra tỏ tường"
(Trần Quý Cáp)
Và trong sáu chương trình của Văn minh tân học sách thì việc học và dạy
quốc ngữ ở vị trí số 1. Số 1, bởi nó có tầm quan trọng nhất đối với việc xây dựng
một nền văn hoá mới, để thay cho toàn bộ nền văn chương học thuật cũ” [Dẫn
theo giáo sư Phong Lê, Tạp chí Hán Nôm số 5 (66) - 2004]. Tất cả họ - những
nhà làm cách mạng văn tự mới đầu thế kỉ XX - đã tạo ra những ảnh hưởng cực kì
to lớn cho hậu thế và cho ngay chính thời kì đó. Một là mở đầu cho một ngành
mới là báo chí, hai là mở đầu cho một nghề mới là nghề in ấn - nghề trọng yếu

8


trong xã hội hiện đại, ba là khơi nguồn cho các loại hình văn học khác nhau phát
triển.
Với tất cả những lí do trên, sự xuất hiện và phổ biến của chữ quốc ngữ đã tạo
một nền tảng quan trọng, là tiền đề trực tiếp cho nền quốc văn mới hình thành.
Sống trong giai đoạn lịch sử đang có những biến chuyển mạnh mẽ ấy, cũng nhƣ

nhiều trí thức tân học đương thời, Nhất Linh không chỉ tiếp nhận đƣợc những
thành tựu do sự phát triển của chữ quốc ngữ đem lại, mà còn khao khát xây dựng
một nền quốc văn mới bằng chữ quốc ngữ.
1.2.1.3. Những khát vọng xây dựng một nền quốc văn mới của tầng lớp trí
thức tân học đầu thế kỷ XX
Những năm đầu thế kỉ XX, văn học viết bằng chữ Hán lặng lẽ dần rồi tàn lụi,
văn học Việt Nam đã đƣợc chứng kiến sự phát triển mạnh mẽcủa văn học quốc
ngữ. Tuy nhiên, nói một cách đầy đủ hơn về mặt hệ thống ngôn ngữ được sử
dụng thì “có thể coi văn học mới như một nền văn học kế thừa trực tiếp văn học
Nôm của văn học dân tộc mười thế kỉtrước” [6; 213]. Nhưng những thành tựu
của văn học chữ Nôm, thời kỳ trung đại chủ yếu ở địa hạt thơ ca, còn văn xuôi
không phát triển: “Nền văn học truyền thống của ta căn bản là một nền văn học
văn vần. Văn xuôi cũng phải có nhạc điệu, tiết tấu hoặc là viết theo thể biền
ngẫu hoặc là phải viết chen vào những đoạn văn vần. Văn xuôi viết bằng tiếng
nói thông tục không phát triển” [6; 32]. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các nhà văn
hiện đại là phải xây dựng ngôn ngữ văn xuôi mới: “Sự hình thành văn xuôi mới ,
văn xuôi hiện đại được coi là sự kiện quan trọng nhất của ngôn ngữ văn học Việt
Nam thế kỷ XX” [5; 819].
Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, phong trào sáng tác văn xuôibằng chữ
quốc ngữ đã đạt được những thành tựu bước đầu. Có thể kể đến các tác phẩm:
Truyện thầy Lazazo Phiền (năm 1887) của Nguyễn rọng Quản, tác phẩm được
coi là “cuốn tiểu thuyết bằng Quốc ngữ viết theo phương Tây sớm hơn cả ở miền
9


Nam” [5; 12]; tiểu thuyết chương hồi Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (năm
1910) của Trương Duy Toản, Hoàng Tố Oanh hàm oan (năm 1910) của Trần
Chánh Chiểu, Giấc mộng con của Tản Đà (1915) và một loạt truyện ngắn của
Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học,...
Tuy nhiên văn xuôi trong khoảng 20 năm đầu thế kỉ XX còn rơi vào hai

hướng: Một là dấu ấn của văn xuôi truyền thống còn đậm đặc trong các sáng tác
của những nhà Nho, những trí thức chịu ảnh hưởng Hán học như truyện của
Phan Bội Châu, truyện của Tản Đà. Hai là văn xuôi có thiên hướng vay mượn về
cốt truyện, phóng tác, phỏng theo một cuốn sách có giá trị nào đó của phương
Tây. Như thế, bước vào thập niên 20 của thế kỷ XX các cây bút cựu học không
còn đảm đương nổi trọng trách mà lịch sử giao cho. Và nhiệm vụ đó được trao
cho "những người tân học yêu quê hương, yêu tiếng Việt, đặc biệt phần lớn họ
sinh vào thế kỉ XX, chính họ “đã nhận lãnh phiên gác mới”, làm sáng lên nền
văn chương quốc ngữ " [9; 35].
Những năm 20 của thế kỉ trước đã dấy lên một phong trào sôi nổi cổ động
“xây đắp nền quốc văn mới”, rất nhiều nhà văn hưởng ứng.Trong văn xuôi, một
loạt tiểu thuyết viết theo lối mới đã ra đời như Giọt máu chung tình (1920 - Tân
Dân Tử), Cành lê điểm tuyết (1921 - Đặng Trần Phất), Oan kia theo mãi (1922 Lê Hoằng Mưu)… Đặc biệt Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (viết từ 1922, đăng
nhiều kì ở tập kỷ yếu của hội Cao đẳng ái hữu, rồi đến năm 1925 mới xuất bản),
đó là tác phẩm cho thấy “sự tác động mãnh liệt của lối văn chương mới của
Trung Quốc và văn chương lãng mạn phương Tây với ông Hoàng Ngọc Phách”
[9; 38].
Lúc này có nhiều dòng tiểu thuyết được xuất hiện. Tiểu thuyết xã hội được
xuất bản ở Sài Gòn nổi trội nhiều tác giả như Nguyễn Chánh Sắc, Lê Hồng
Minh, Phú Đức, Bửu Đình, Phạm Minh Kiên, Hồ Biểu Chánh. Tiểu thuyết lịch
sử của Trương Duy Toản, Nguyễn Tử Siêu và Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm.
10


Luồng gió văn hoá phương Tây đã ùa vào Việt Nam, đem đến biết bao sự mới
mẻ, hấp dẫn và chính nó đã tạo một lực đẩy to lớn cho nền văn hoá và văn học
Việt Nam trên đƣờng hiện đại hoá. Nhưng đồng thời, người ta có thể nhìn thấy
và lo lắng về một cuộc “xâm lăng văn hoá” từ phương Tây. Vấn đề xây dựng
một nền quốc văn mới thực sự Việt Nam, đang trở thành một thách thức với
những ngƣời trí thức, những nhà văn, nghệ sĩ đương thời. Nguyễn Tường Tam

lúc này đang là một thanh niên tràn đầy nhiệt huyết, cũng đã hưởng ứng tích cực
phong trào xây đắp nền quốc văn mới. Hồi tưởng về những ngày tháng ấy, Tú
Mỡ đã kể: “Tôi quen anh Tam từ khi anh với tôi cùng làm sở Tài chính. Khi ấy
anh chưa sang Pháp du học nhưng đã rất để ý đến quốc văn. Khi ấy sở Tài
chính còn ở Bờ Hồ, trong sở chúng tôi bày ra nhiều trò chơi có ích cho sự tiến
thủ về mặt luyện tập quốc văn” [5; 42].
Tuy nhiên để thực hiện được khát vọng xây dựng một nền quốc văn “đậm
tính cách An Nam” không phải là điều dễ dàng. Trong buổi đầu của cuộc tiếp xúc
Á - Âu, câu văn quốc ngữ phát triển theo hai hướng. Xu hướng thứ nhất là “câu
văn biền ngẫu gần gũi với câu văn của thể phú”, “cấu trúc đăng đối, diễn đạt
kiểu cách, lạm dụng vốn từ ngữ Hán Việt” [5; 819], do ảnh hưởng của câu văn
trong văn học trung đại còn nặng nề. Xu hướng thứ hai là sự áp dụng cứng nhắc
những mẫu câu của ngôn ngữ Pháp vào ngôn ngữ Việt tạo ra những câu văn ngắn
gọn tới mức “cộc lốc”, không chút nghệ thuật như kiểu Hoàng Tích Chu: “Canh
khuya, buồn. Thân gái, cực. Dặm trường, khổ”. Sự hình thành ngôn ngữ văn
xuôi ở nước ta đầu thế kỉ XX có sự đóng góp tích cực của báo chí. Nhà nghiên
cứu Đinh Văn Đức đã nhận thấy: “Ở nước ta (…), ngôn ngữ văn học, nhất là văn
xuôi đầu thế kỉ XX, lại thừa hưởng thành tựu ngôn ngữ báo chí mà trưởng thành.
Nhiều nhà văn đã trưởng thành từ nhà báo, những áng văn xuôi mới hay nhất đã
từng xuất hiện trên báo chí trước khi được in thành sách. Lối văn trọngsự thật,

11


gãy gọn vốn là đặc trưng của ngôn ngữ thông tấn đã là tiền đề cho ngôn ngữ
trong các sáng tác văn xuôi mới với các thể loại khác nhau…" [5; 820].
Những năm đầu thế kỉ XX là thời kì dựng nghiệp của báo chí Việt Nam, nhất
là báo chí quốc ngữ. Rất nhiều tờ báo đƣợc ra đời, đặc biệt từ năm 1910 trở đi,
báo chí càng phát triển, có thêm những xu hướng mới, ngoài nhiệm vụ thông tấn,
còn có các tạp chí dành cho học thuật và chuyên khảo như: Đông Dương tạp chí

(1913), Nam Phong tạp chí (1917), Đại Việt tạp chí (1918), An Nam tạp chí
(1926),… Báo chí lúc này đã thiên về văn chƣơng, có lối diễn đạt của ngôn ngữ
văn chương. Nhiều tờ báo đã có những chuyên mục văn nghệ, đăng các tác phẩm
văn học, cả các tác phẩm dịch thuật văn học nƣớc ngoài. Có thể nói báo chí đã
trở thành “bà đỡ” cho văn chương mới đang thành hình. Đúng như Mã Giang
Lân khẳng định: “Quá trình chuyển từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ bắt buộc tất
cả những nhóm nhà văn, dù tân học hay cựu học, đều phải trải qua một quá
trình “tập làm văn” bằng tiếng mẹ đẻ, hay nói cách khác: đặt nền tảng xây dựng
một thứ ngôn ngữ văn học mới bằng tiếng Việt. Báo chí chính là môi trường
thuận lợi cho những thể nghiệm đó" [11; 150].
Có lẽ chính vì nhận thấy vai trò quan trọng của báo chí trong sự phát triển
văn học dân tộc, mà sau này Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam đã bắt đầu từ con
đường báo chí để thực hiện khát vọng văn chương.
1.2.2. Cuộc hành trình đến với văn học của Nhất Linh
1.2.2.1. Nhất Linh - người nghệ sĩ đa tài, say mê văn học
Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh ngày 13 tháng 9 năm 1906 tại
phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương, là con thứ ba trong gia đình có sáu anh em
trai và một người em gái. Như các anh em khác trong gia đình, Nhất Linh được
ăn học chu đáo, bản thân ông cũng rất chăm học. Cha ông là công chức nhà nước
bảo hộ, nhưng mất sớm (năm ông 12 tuổi), ngƣời mẹ tần tảo nuôi bảy đứa con
ăn học. Sau khi cha mất, gia đình lâm vào cảnh khó khăn, ông phải bỏ học hai
12


năm, năm 1920 mới thi vào trường Bưởi. Sau ba năm trung học, đỗ bằng Thành
Chung, ông xin làm thư kí ở sở Tài chính Hà Nội.
Theo Phạm Thế Ngũ, Nhất Linh là người năng khiếu “đa dạng đủ vẻ, Pháp
văn và khoa học giỏi, lại có tài vẽ, thích làm thơ văn quốc âm” [10; 9]. Tháng11
năm 1925, chia tay người bạn thân thiết Hồ Trọng Hiếu, Nguyễn Tường Tam vào
học trường Cao đẳng Y khoa, có lẽ muốn tìm một nghề nghiệp có địa vị hơn.

Song cuối năm đó, nhà nƣớc bảo hộ mở trường Cao đẳng Mỹ thuật, vì tiếng gọi
quyến rũ của “nàng Mỹ thuật”, ông lại bỏ trường thuốc, thi vào trường Mỹ thuật.
Với tài hội họa bẩm sinh của mình, Nguyễn Tường Tam đã đỗ đầu, vào học và
được hoạ sư người Pháp - Victor Tardieu hết sức dìu dắt. Khả năng hội hoạ cùng
những kiến thức thu nhận được từ ngành học này đã có ảnh hưởng khá rõ đến
ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh sau này. Những bức hoạ ngôn từ tinh tế về
thiên nhiên có khả năng nói thay tâm trạng con người trong tác phẩm, chỉ có thể
có được từ nhà văn có năng khiếu hội họa tài hoa.
Tư chất nghệ sĩ là nét nổi bật ở con ngƣời Nhất Linh, ngoài làm văn, viết thơ,
vẽ tranh, ông còn mê sáo trúc. Sau này khi chán nản, mệt mỏi trong hoạt động
chính trị, ông đã tìm đến Đà Lạt say sưa kiếm lan, thổi sáo cho lan nghe, đắm
chìm trong thế giới thanh khiết. Chính những phẩm chất nghệ sĩ đó đã tạo cho
văn phong Nhất Linh chất thơ, chất nhạc hiếm có, làm say lòng biết bao chàng
trai, cô gái trong giai đoạn Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên trong những phẩm chất
nghệ sĩ ấy thì niềm say mê văn học với ông là hơn cả.
Nhất Linh rất ham đọc sách. Trong tác phẩm Viết và đọc tiểu thuyết, ông cho
biết đã đọc độ vài ba trăm cuốn tiểu thuyết Việt, ba bốn chục truyện Tầu, năm
sáu trăm truyện trinh thám Anh, Mĩ và khoảng ngần ấy tác phẩm khác của Anh,
Mĩ, Pháp. Những tác phẩm được đọc đã tạo cho Nhất Linh một niềm say mê văn
học từ rất sớm. Ông nói rằng từ lúc 13, 14 tuổi đã từng viết một vài truyện ngắn
nhƣng không bao giờ cho đăng. Tới khoảng những năm 1921, 1922 - khi 15, 16
13


tuổi - ông đã từng làm thơ Đường luật được đăng trên báo Trung Bắc tân văn của
Nguyễn Văn Vĩnh (bài Vịnh Tây Hồ). Khi học trung học, từ năm đầu ban Thành
Chung, Nhất Linh đã tham gia bình luận truyện Kiều trên báo Nam Phong. Theo
ông: “Truyện Kiều thực là một tấm gương luân lí thiên cổ”. Không ngạc nhiên
khi với quan điểm “Ta chỉ nên nhận rằng văn chương Kiều có thể làm cái mẫu
rất tốt cho văn chương quốc ngữ, và người nào làm văn cũng nên theo cách làm

văn trong truyện Kiều” [9; 36], hai tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tường Tam:
tiểu thuyết Nho phong (1924) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1926) có sự
ảnh hưởng truyện Kiều nói riêng và văn học cổ điển nói chung rất rõ. Đó là tư
tưởng đạo nghĩa phu phụ, lối kể truyện của văn xuôi trung đại, câu văn đăng đối
du dương.Nhất Linh có khát vọng về một sự nghiệp văn chương hơn người, ông
không muốn sống cuộc đời của một công chức nhà nước bảo hộ “Sáng vác ô đi,
tối vác về". Ông đã từng tâm sự với Hồ Trọng Hiếu: “Tôi không có ý trở thành
ông tham, ông đốc… như ai. Nguyện vọng tha thiết của tôi là được viết văn, làm
báo, sống bằng ngòi bút của mình, sống bằng nghề tự do ngoài vòng kiềm toả”
[9; 522].
Niềm say mê văn học cộng với tư chất nghệ sĩ và khát vọng dùng ngòi bút để
hoạt động văn học nghệ thuật đã hình thành từ rất sớm trong con người Nhất
Linh. Chính điều đó đã thôi thúc ngƣời thanh niên Nguyễn Tường Tam tìm lối đi
mới cho mình. Theo Trương Bảo Sơn, trong con người Nhất Linh có hai khuynh
hướng: “nghệ sĩ” và “cách mạng”. Khuynh hướng nghệ sĩ thì đã rõ. Còn khuynh
hướng cách mạng là sự quan tâm của Nhất Linh với các vấn đề xã hội. Ông
“muốn san bằng mọi bất công trong xã hội loài người. Trong thời gian học ở
trường Mỹ thuật, Nhất Linh đã nhiều lần vác giá vẽ về những vùng nông thôn,
tận mắt chứng kiến cuộc sống lam lũ khổ cực của người nông dân. Chàng hoạ sĩ
trẻ đã nhận ra được “hai vẻ đẹp” trái ngược: một bên là ngƣời dân với những
kiếp: Nghèo, Nô lệ, Đầu đường xó chợ. Cuộc sống lam lũ của người dân quê đã
14


làm cho người thanh niên ấy xúc động và thấy rằng không thể nào vui riêng với
cái vui của người nghệ sĩ. Thêm vào đó, sự sôi động của thời cuộc khoảng 19251926 càng kích thích Nguyễn Tường Tam cái chí làm việc ích lợi cho nước, cho
dân. Muốn thực hiện được chí đó, Nguyễn Tuờng Tam phải xuất ngoại, mong tìm
học hỏi lấy những kiến thức và phương tiện cần thiết. Năm 1927, khi tìm được
cơ hội, ông ném cây cọ, bỏ giá vẽ xin đi Tây du học.
1.2.2.2. Chuyến du học ở Pháp - Những thay đổi trong quan niệm xã

hội và văn chương của Nhất Linh
Năm 1927, được sự giúp đỡ của Hội du học bảo hộ - một tổ chức của các
quan đại thần Huế - Nhất Linh đã sang Pháp du học. Với tài năng nhiều mặt,
Nhất Linh đã theo học ban Khoa học, trong vòng 24 tháng giật đủ ba chứng chỉ
để trở thành Cử nhân lý hoá. Nguyễn Tường Tam đã giải thích về việc muốn trở
thành nhà văn, nhưng lại đi học lấy bằng “cách trí”: “…sang Pháp chủ yếu là
nghiên cứu nghề làm báo, để khi về sẽ mở một tờ báo thể tài mới, khác hẳn các
báo. Còn cái bằng cử nhân khoa học? Chỉ là cứu để phòng cánh xa, nếu làm
báo thất bại sẽ ra làm giáo sư cũng tốt” [9; 526].
Quả đúng như vậy, trước khi đi du học, ông đã nung nấu một con đường nghệ
thuật khác hẳn với đương thời và cũng nhìn thấy vai trò quan trọng của báo chí
với đời sống và văn chương. Do vậy, trong những tháng ngày du học, ngoài việc
học ở nhà trường, ông còn để ý đến đời sống xã hội Pháp, những nét mới của văn
chương nghệ thuật, nhất là vai trò tiền phong của báo chí, tiếng nói hữu quyền
của nhà ngôn luận. Ông đặc biệt đi sâu nghiên cứu đời sống văn học phương
Tây, cách điều hành một tờ báo ở Pháp, từ việc tổ chức, sắp xếp bài vở đến nghệ
thuật trình bày. Trương Bảo Sơn kể về Nhất Linh: “Có tiền, anh chỉ mua sách,
mua báo, say mê đọc, nghiền ngẫm nghệ thuật viết văn của họ, hầu có thể áp
dụng vào văn chương Việt Nam, để cải tiến nghệ thuật viết văn Việt Nam. Trong
khi ấy anh học thêm và tốt nghiệp cử nhân lý hoá" [9;187].
15


Những kiến thức được trực tiếp thâu nhận từ nền văn hoá phương Tây nói
chung và văn học Pháp nói riêng đã giúp Nhất Linh có những thay đổi trong
quan niệm về xã hội và văn chương. Ông đã sớm nhận ra những trì trệ trong xã
hội Việt Nam đương thời (tất nhiên cả trong văn học) và mong muốn xây dựng
một nền văn học mới. Ông nhìn thấy rõ những mâu thuẫn gay gắt giữa con người
cá nhân với đại gia đình phong kiến, giữa ý thức hệ tư sản với lễ giáo phong
kiến. Ông mong muốn giải phóng phụ nữ ra khỏi chế độ đại gia đình, tránh cho

phụ nữ nỗi tình duyên ép buộc, cảnh mẹ chồng, nàng dâu, cảnh goá bụa lạnh
lùng. Và với tư tưởng của một trí thức tiểu tư sản, ông chủ trương cải cách xã
hội. “Phải cải cách vì xã hội chưa hợp lý: Còn những cô Loan bị mẹ cha gả bán,
những cô Nhung giam cầm trong goá bụa, những bà Phán Lợi tàn ác mà không
biết, (…). Còn những ám ảnh "'tối tăm", những nơi "bùn lầy nước đọng" những
"xã hội quê bao giờ cũng khốn nạn, cũng nghèo xơ xác như bây giờ”…[9; 89].
Những quan điểm mới mẻ về xã hội đó của ông đã được gửi gắm qua những hình
tượng nghệ thuật trong các tác phẩm về sau này như Loan, Dũng trong Đoạn
tuyệt, Nhung trong Lạnh lùng, Doãn trong Hai vẻ đẹp,…
Theo Nhất Linh, để cải thiện cuộc sống của ngƣời nông dân, phải làm cho họ
có học thức, hiểu biết, không để họ “sống mãi trong đêm tối vì không ai soi sáng
họ, dạy họ biết một cách sống khác”. Và ông rất có ý thức đấu tranh bằng văn
nghệ cho những quan niệm xã hội của mình. Ông thấy rằng không thể viết như
trước mà phải đổi mới cách viết. Đúng như Phạm Thế Ngũ nhận xét: “Năm
1930, Nguyễn Tường Tam 24 tuổi trở về nước, với trong đầu óc một chân trời
mới, những quan niệm thay đổi hẳn về xã hội và văn chương. Con người Nho
phong đã nhường chỗ cho nhà "cách mạng xã hội". Nhà văn chỉ biết khâm phục
truyện Kiều thấy cần phải đổi mới cái không khí văn học do phái Nam Phong
thổi ra từ trên 10 năm nay" [10; 11].

16


Từ Pháp trở về, Nhất Linh đã đem theo những hiểu biết về nền văn học
phương Tây, đặc biệt văn học Pháp và những kiến thức mới mẻ về khoa học, về
xã hội, về nghề báo,… Đó chính là những cơ sở cho sự thay đổi về quan điểm
sáng tác, ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm mới của ông.
1.2.2.3. Chủ trương “Tự sức mình làm ra những sáng tác có giá trị về văn
chương”, “làm giàu văn sản trong nước”.
Về nước năm 1930, trong lúc chờ thực hiện hoài bão văn chương của mình,

chàng cử nhân trẻ làm giáo sư dạy ở trường trung học Thăng Long, đồng thời
không quên theo dõi tình hình báo chí đương thời. Những kiến thức thu lượm
được từ nhiều tờ báo ở Pháp đã giúp Nhất Linh nhận thấy loại báo trào phúng rất
hợp với sở thích mọi người, điều này ở Việt Nam lại chưa có. Nhất Linh nộp đơn
xin ra báo Tiếng Cườivà tích cực chuẩn bị mọi thứ cho tờ báo tương lai, từ bài vở
cho đến nhân sự toà soạn. Tú Mỡ đã kể: “Anh thuê một căn nhà nhỏ trong ấp
Thái Hà, lấy nơi tĩnh mịch để làm việc. Ở đó, tôi đã gặp mặt anh em trong toà
soạn tương lai của tờ báo, lúc đầu chỉ có năm người: anh Nguyễn Tường Tam,
anh Nguyễn Tường Long, anh Nguyễn Tường Lân và hai người ngoài là anh
Trần Khánh Giư và tôi - Hồ Trọng Hiếu (…) chủ trương sáng tác theo một tôn
chỉ đúng đắn: cải tạo xã hội cũ, đả phá mọi phong tục tập quán hủ bại xây dựng
một đời sống mới tiến bộ, vui vẻ trẻ trung (…). Chúng tôi có một đường lối sáng
tác thuần tuý Việt Nam, lời văn bình dân trong sáng, dễ hiểu” [9; 529,530].
Năm 1932, tờ Phong Hoá của mấy bạn đồng nghiệp cùng dạy học ở trong
trường ra đời, do Phạm Hữu Ninh - người sáng lập trƣờng Thăng Long - làm
quản lý, Trần Khánh Dư - giáo sư Thăng Long - làm chủ bút. Phong Hoá mới ra
đời đã được nhiều ngƣời chú ý, nhưng cái tôn chỉ “xét trong hai nền văn hoá cái
gì tốt đẹp thì thâu góp làm văn hoá nước nhà” của ông Phạm Hữu Ninh chìm
vào trong cái luận điệu dung hoà của thời đại, tờ báo không đem lại điều gì mới
mẻ và đi xuống. Nguyễn Tường Tam thấy đây là một cơ hội tốt để làm một thử
17


nghiệm. Nhất Linh tập hợp bạn bè, đồng nghiệp, người thân và tuỳ vào khả năng
từng người, ông phân công từng người đảm nhiệm những vị trí và công việc
thích hợp. Tiếp đó, ông điều đình với Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai
(người chính thức có giấy phép) để đứng ra làm lại tờ báo. Ngày 22 tháng 9 năm
1932, Phong Hoá đổi mới ra mắt độc giả. Với tài tổ chức của mình, Nguyễn
Tường Tam đã biến một tờ báo vô thưởng, vô phạt thành một tờ báo trào phúng
đầu tiên của làng báo Việt Nam. Và từ một tờ báo không ai biết đến, báo Phong

Hoá mới đã được quần chúng hoan nghênh nhiệt liệt, nổi tiếng khắp ba kỳ. Bởi
vì: “Nó đáp ứng đúng nhu cầu của trí thức, của bình dân; vạch mặt, làm bia chế
giễu những kẻ tai to mặt lớn, sống trên áp bức bóc lột dưới cúi luồn xu nịnh mà
người bình dân căm ghét; nó bàn đến và tìm cách thực hiện một cuộc đời tươi
sáng thay vào cuộc sống tối tăm, bùn lầy nước đọng; nó phát huy một lối văn
quốc ngữ trong sáng, đánh rấp các thứ văn lai căng đặc sệt những danh từ Hán
học” [9; 532].
Với niềm say mê nghệ thuật, với tư tưởng xã hội và văn chương mới mẻ và
tài tổ chức của mình, Nguyễn Tường Tam đã thực hiện được khát vọng làm báo
để tuyên truyền, thực hiện “bài phong đả thực, xây dựng một đời sống mới, một
xã hội mới, một nền quốc văn mới” [10; 13]. Không dừng lại ở thành công đó,
ông còn tính đến chuyện hoạt động lâu dài. Đề cương hồi ký của Thế Lữ (thành
viên của toà soạn báo Phong Hóa) ngày 18 tháng 6 năm 1977 có ghi: “Bài thơ
đầu tiên: “Con người vơ vẩn” trên báo Phong Hoá số tết (…) cùng Ngô Bích
San đến thăm Tú Mỡ (...) Buổi gặp gỡ ấy mở đầu (làm đà mạnh dạn) cho những
buổi khác đến thăm Nguyễn Tường Tam (…) Ngay từ buổi ấy Tam đã nói đến
formation dun noyan. Cái Noyan ấy tức là Tự Lực văn đoàn sau này”. Với tư
liệu này, một lần nữa khẳng định việc thành lập một văn đoàn được Nguyễn
Tường Tam nung nấu ngay từ những ngày hoạt độngvăn học nghệ thuật đầu tiên
sau khi từ Pháp trở về.Trong tác phẩm, Nhất Linh đã bày tỏ khát vọng của ông là
18


phải viết được những cuốn sách hay, đó là những “cuốn sách có nghệ thuật cao
siêu, bền mãi với thời gian, được đời đời công nhận” [9; 61]. Cụ thể là: “Những
cuốn tiểu thuyết hay là những cuốn tả đúng sự thực cả bề trong lẫn bề ngoài;
diễn tả được một cách linh động các trạng thái phức tạp của cuộc đời, đi thật
sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh tế nhị của tâm hồn
bằng cách dùng những chi tiết về người và việc để làm hoạt động những nhân
vật cùng hành vi, cảm giác và ý nghĩ của họ” [9; 388].

Để viết được những cuốn tiểu thuyết như thế, Nhất Linh nhận thấy người viết
phải xác định rõ đối tượng mà mình định viết phải là vấn đề mà mình thích, xây
dựng được đại cương của cốt truyện, rồi định hình về các nhân vật. Đặc biệt
muốn tạo dựng đƣợc các nhân vật, người viết phải có sự quan sát tinh nhạy con
người, để nhân vật đó “đúng sự thực, có vẻ sống, linh động”, có nét riêng và
“không lờ mờ”, nhân vật hiện lên phải có cả “tính tình, cử chỉ, hình dáng” cụ thể,
đặc biệt là “đi sâu vào tâm hồn người đời”. Quan niệm như thế về một tác phẩm
hay, tất yếu đưa ngòi bút Nhất Linh đi sâu khám phá thế giới tâm hồn con ngƣời
với những rung động tinh tế nhất.
Về cách diễn đạt trong văn chương, Nhất Linh cho rằng: “Văn ấy trước hết
phải thật giản dị (…) Nên tránh mọi câu cầu kì (…) Nên tránh những câu đăng
đối (…). Văn tức là chọn cho thật đúng chữ để diễn tả cái mình định nói…” [9;
414]. Nhất Linh rất để tâm đến giọng điệu của nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
Theo ông, nhà văn nào khi viết cũng phải xác định đƣợc lối văn sở trường của
mình, không nên bắt chước ai. Và với ông, giọng điệu tuyệt đích mà ông hướng
đến là “ viết giản dị mà không lạt lẽo, rất bình thường mà vẫn sâu sắc, giọng văn
hơi điểm một chút khôi hài nhẹ, kín đáo” [9; 419]. Trong thực tế, ông chưa thấy
nhà văn nào đạt được tới điều “tuyệt đích” đó. Nhưng việc xác định rõ được
hướng đi cho văn phong của mình sẽ chi phối đến việc lựa chọn ngôn ngữ của
nhà văn trong quá trình sáng tác. Trên con đường văn nghệ, Nhất Linh luôn chủ
19


trương học tiếng Việt, luyện tiếng Việt. Tường Hùng trong bài viết “Một vài nét
về chân dung Nhất Linh” in trong Tạp chí Văn số 61 ngày 1/7/1966, đã xác nhận:
“Thường Nhất Linh rất ghét các câu quá Tây, những câu bí hiểm đầy chữ khó
hiểu, những sáo rỗng. Ông chủ trương một lối văn hoàn toàn Việt Nam và thực
giản dị”. Chủ trương đó của Nhất Linh không chỉ được thể hiện thông qua các
tác phẩm, mà còn bằng việc tổ chức, tập hợp các nhà văn cùng chí hướng với
mình để xây dựng nên một văn đoàn độc lập đầu tiên. Sau một thời gian chuẩn

bị, năm 1933 văn đoàn đã ra mắt độc giả với tên gọi là Tự lực văn đoàn. Lấy tên
gọi Tự lực là có ý họ tự sức mình gây lấy một cơ sở chứ không cậy nhờ bàn tay
chính phủ hoặc một thế lực tài chính nào, do đó có tư cách độc lập không tuân
theo một chỉ thị nào, ngoài đường lối do chính họ vạch ra.
“1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không
phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương
thôi. Mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2. Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho người và xã
hội ngày một hay hơn lên.
3. Theo chủ nghĩa bình dân; soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và
cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
4. Dùng một lối văn giản dị, ít chữ Nho, một lối văn thật có tính cách An
Nam.
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6. Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến
cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách
trưởng giả, quí phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

20


9. Đem phương pháp khoa học của thái Tây ứng dụng vào văn chương An
Nam.
10. Theo một trong chín điều trên cũng được miễn là đừng trái ngược với
những điều khác.”.
Những nội dung trong tôn chỉ hoạt động của Tự lực văn đoàn đã thể hiện rõ
hoài bão của Nhất Linh cũng như của các nhà văn trong nhóm về văn hoá dân
tộc, mong muốn xây dựng một nền văn chƣơng hoàn toàn có tính cách An Nam.

Là người chủ xướng, người điều hành mọi hoạt động của tờ báo, tất nhiên
Nhất Linh đã tuân thủ nghiêm túc tôn chỉ sáng tác của văn đoàn. Và với tài năng,
cá tính sáng tạo của mình, ông đã trở thành một tiểu thuyết gia tài năng, một
“cây bút trụ cột của Tự lực văn đoàn” (Mai Hương).
Khát vọng xây dựng một nền văn chương hoàn toàn có tính cách An Nam đã
chi phối lớn đến việc lựa chọn ngôn ngữ trong các tác phẩm của Nhất Linh, nó
đã khiến ông có được những bước tiến dài trên con đường nghệ thuật. Điều đó
được thể rất rõ trong tác phẩm các tác phẩm của ông.
Chương 2. Qúa trình vận động của ngôn ngữ nghệ thuật từ Nho phong đến
Đoạn tuyệt của Nhất Linh
2.1. Từ ngôn ngữ mang đậm dấu ấn văn xuôi trung đại, hiện đại sơ kì trong
Nho Phong
Nho phong (1924) được Nhất Linh viết trong giai đoạn văn học Việt Nam
đang có sự chuyển giao từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại. Ở giai
đoạn này, văn học Việt Nam đang “ngổn ngang”, “hỗn độn” vì cái cũ vẫn còn,
cái mới đã xuất hiện nhưng chưa đủ mạnh để chiến thắng hoàn toàn trong cuộc
tranh chấp. Có thể thấy rõ điều này qua ba tác giả tiêu biểu của văn học cận đại
Việt Nam: Tản Đà, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách. Đặc biệt Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách (viết năm 1922, in thành sách 1925) là một mốc quan trọng
trong sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Nó đã khắc phục, vượt
21


thoát lối kết cấu chương hồi của tiểu thuyết truyền thống bằng cách kết cấu theo
quy luật tâm lí. Trong tác phẩm, thiên nhiên đã xuất hiện nhiều hơn so với văn
học truyền thống nhƣng Hoàng Ngọc Phách vẫn dùng lối văn biền ngẫu để miêu
tả, nên thiên nhiên chƣa đạt tới vẻ đẹp tự nhiên sinh động: “Xa trông những hạt
mưa bay mờ mờ trắng, mấy hàng tre gió lướt đổ ngà ngà, những con chim bạt
gió kêu bầy, mấy con bê lạc đàn gọi mẹ” (Tố Tâm). Mặc dù tác phẩm được đánh
giá là “đánh dấu một cuộc cách mạng trong làng văn về tư tưởng và lối viết” (Vũ

Bằng). Nhưng ngôn ngữ của Tố Tâm cũng còn nhiều hạn chế như dùng nhiều từ
cổ, chưa tránh được một số câu triết lí dài dòng, chưa tránh được cái réo rắt của
câu văn biền ngẫu.
Nho phong là tác phẩm kể lại câu truyện tình giữa Lê Nương - người con
gái thảo hiền và Dương Văn - một hàn sĩ để ngợi ca những mẫu ngƣời lí tưởng
theo quan niệm phong kiến. Thể hiện chủ đề truyền thống ấy, ngôn ngữ trong các
tác phẩm của Nguyễn Tường Tam còn mang rất nhiều dấu ấn của ngôn ngữ văn
xuôi trung đại, có dấu hiệu phôi thai ngôn ngữ hiện đại nhưng còn mờ nhạt.
2.1.1. Ngôn ngữ mang đậm dấu ấn văn xuôi trung đại
2.1.1.1. Câu văn đăng đối, nhịp nhàng mang dáng dấp của câu văn biền
ngẫu
Là một trí thức Tây học, nhưng từ nhỏ Nhất Linh đã mê đọc truyện Tàu, đọc
đi đọc lại không chán những truyện Đông chu liệt quốc,Tam quốc, Tây Hán,
Thuỷ hử…, lại “là một độc giả khâm phục Nam phong, một tín đồ của văn
chương Nguyễn Du” [10; 9] nên trong tác phẩm đầu tay này ông có ảnh hưởng
của lối viết truyền thống cũng là điều dễ hiểu. Khảo sát hai văn bản Nho phong
và Tố Tâm - căn cứ vào số chữ trên dòng (Nho phong: 10 chữ trên dòng, Tố
Tâm: 12 chữ trên dòng) và số dòng trên một trang văn bản (Nho phong: 26 dòng
và Tố Tâm: 33 dòng), chúng tôi đã tính được tỉ lệ 65 trang truyện Nho phong
tương ứng với 50 trang truyện Tố Tâm . Nhìn vào kết quả trên, có thể nhận thấy
22


Nguyễn Tường Tam rất thích sử dụng kiểu câu đăng đối này. Có rất nhiều những
câu văn được kết cấu thành những vế cân xứng, chẳng hạn nhu: “Cánh buồm
theo gió, ròng rã năm ngày đến ấp An Thi. Cụ Phủ Lê bấy lâu đi làm quan xa
quê hương đã ngoại hai mươi năm, tuổi già, râu tóc đã bạc, mới được về thăm
chốn cũ (1). Tuy nhậm phủ Thanh Lương trong bấy nhiêu năm mà nhà vẫn thanh
bần như lúc còn nho sĩ (2). Bà phủ mất sớm, chỉ để lại một người con gái tên là
Lê - nương, năm ấy tuổi mới trăng tròn (3). Cụ phủ thấy mình không ai nối dõi,

nên đêm ngày buồn bã bèn đem con về vui thú điền viên, không nề hai chữ công
danh, cho bận chiếc thân già yếu (4). Vả Lê - nương đã lớn các nhà quan gia
quen thuộc có ý dòm nom, cụ nghĩ rằng còn chút con gái không muốn gả chỗ xa
xôi, định về làng xem có nơi nào xứng đáng thì gả, không cứ nghèo giầu, chỉ
mong sao lúc đau yếu con cái có người gần gụi, có người trông nom săn sóc đến
mình (5). Bấy giờ hồi tưởng đến thưở niên thiếu mà ngậm ngùi. Nhớ khi còn là
học trò, những ao ước đỗ đạt làm quan, đến nay lẩn thẩn về già, đường công
danh đã trải mà ngắm lại có khác chi đâu (6)”. Cả trang văn có 8 câu thì 6 câu
được viết theo hình thức cân xứng. Ở câu (1), câu văn được chia làm ba nhịp cân
đối, các thanh bằng trắc có sự luân phiên nhịp nhàng. Câu (2) chia làm hai vế nói
về hai thời khắc của cuộc đời cụ Phủ Lê, mỗi vế lại chia thành hai đoạn, mỗi
đoạn cân đối nhau về số lượng từ ngữ, đem lại sự nhịp nhàng cân đối cho lời
văn. Ở câu (3) và (4) các vế câu đăng đối còn có sự kết hợp với các sáo ngữ:
“tuổi mới trăng tròn”, “vui thú điền viên”, “hai chữ công danh” , “chiếc thân
già yếu”, tất cả tạo nên nhạc điệu ngân nga, trầm bổng, mang đậm chất thơ cổ
phương Đông. Tuy nhiên hạn chế của kiểu câu này là nội dung thông tin đem
đến cho người đọc ít, câu văn nhiều khi dài lê thê , khó đọc, có lẽ vì thế mà sau
này Nhất Linh nhận thấy đó là những câu “nhịp nhàng êm ái (nhưng trống
rỗng)” [9; 363]. Việc sử dụng nhiều câu viết theo kiểu biền ngẫu này là do ảnh
hưởng của nền văn chương lúc đó. Ông đã lý giải về điều này: “Tôi bị ảnh
23


hưởng tai hại của nhà trường, của văn chương Pháp và của văn chươngTàu hay
ta hồi ấy (quãng 1922 - 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm tai, nhịp
nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ viết ra những câu như thế
và cho ngay là truyện của tôi hay” [9; 363]. Sự ảnh hưởng này có lẽ chỉ là do tác
động tự nhiên, chứ Nguyễn Từờng Tam không phải là nho sĩ, không được đào
tạo nơi “cửa Khổng, sân Trình”, nên dấu ấn không sâu đậm (vì vậy sau khi đi du
học về, câu văn nghệ thuật của ông đã có sự biến đổi rất nhanh chóng).

2.1.1.2. Dùng nhiều từ ngữ cổ mang tính ước lệ
Trong Nho phong, số lượng từ cổ đƣợc sử dụng rất nhiều, đặc biệt là các từ
Hán - Việt cổ, làm cho lời văn nặng nề, khó hiểu. Chẳng hạn các từ “thỉnh
nghiệp”, “tác thành” trong câu văn sau: “Bà Huấn liền nhân tiện nhắc đến việc
muốn cho con giai sang thỉnh nghiệp , xin cụ nghĩ đến tình thân mà ra công tác
thành cho” [1;5]; từ “thương tâm” với ý nghĩa chỉ lòng thương trong câu: “Cụ
khuyên người ta lấy thương tâm làm gốc” [1;7]; hoặc từ “kinh lịch” với nghĩa chỉ
sự hiểu biết trong câu: “Cụ giảng giải bao giờ cũng minh bạch, tường tận, tỏ ra
rằng tuy tuổi già mà tinh thần còn tráng kiện, càng ngày sự kinh lịch càng rộng
thêm ra và lại hay suy nghĩ về nghĩa lý ở đời” [1;6],... Khảo sát từ cổ hai tác
phẩm Nho phong và Tố Tâm với số trang ứng nhau, ta thu được kết quả: Tố
Tâm xấp xỉ 7,5 từ / trang văn bản, còn ở Nho phong khoảng 9 từ / trang văn bản.
Như vậy tỉ lệ từ cổ trong Nho phong nhiều hơn hẳn Tố Tâm. Căn cứ vào kết quả
đó, ta thấy, mặc dù Nho phong được viết sau Tố Tâm hai năm nhưng ngôn ngữ
của Nguyễn Tường Tam lại cổ hơn ngôn ngữ của Hoàng Ngọc Phách rất nhiều.
Có lẽ vì thế mà Tố Tâm đã gây nên cả một “cơn bão” trên văn đàn trong khoảng
10 năm trời, còn Nho phong lại bị rơi vào quên lãng không chỉ vì nội dung mà
còn cả về nghệ thuật.
Ở Nho phong Nguyễn Tường Tam còn sử dụng nhiều từ ngữ cố định, mang
tính chất ước lệ đã mòn sáo kiểu như: “tuổi mới trăng tròn” [1;1] để nói đến
24


người thiếu nữ, “làn thu ba như nhuộm vẻ sầu” [1;14] những hình ảnh ước lệ:
“…Nhưng bóng hoa thấp thoáng, dáng liễu thanh tân, làm cho chàng nhiều
phen phải man mác trong lòng’ [1; 8]. Trong tác phẩm, tâm trạng Dương Văn khi
đến tìm Lê Nương khi không thấy nàng cũng chẳng khác tâm trạng Kim Trọng
khi trở lại vườn Thuý tìm Kiều. Ngôn ngữ miêu tả vì thế cũng có nhiều nét giống
ngôn ngữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Đứng ngoài trông ngẩn ngơ trăm
nỗi, nhớ đến cụ Phủ mà ngậm ngùi, không biết bây giờ cụ đã đi đến chốn nào xa

xôi mịt mù, linh hồn không biết còn quanh quất đâu đây nữa không; nếu cụ còn
trông thấy cái cảnh song trăng quạnh quẽ; vách mưa rã rời này , tuy cụ có tính
điềm đạm thật, chắc cũng phải đau lòng vì cuộc đời thay đổi" [1; 32].
Biện pháp so sánh bóng bẩy quen thuộc, cổ kính cũng hay được tác giả sử
dụng, ví dụ như: “…tóc nàng không năng trải trông bối rối như mây thu” [1;
13]. Tính chất công thức, sáo mòn của từ ngữ làm cho những sự vật, hiện tượng,
tâm trạng được miêu tả trong Nho phong chưa rõ nét, chẳng hạn miêu tả Từ
Nương: “Cô trông xinh lắm, người thanh thanh vừa tầm, hai con mắt êm đẹp,
mỗi khi trời nắng, gió lạnh, cô ra sân hai tay ngọc xe sợi tơ vàng dệt lụa là cho
người trong làng mặc” [1; 13]. Hoặc có khi cầu kì khó hiểu như: “Ngày trước Lê
- nương như đoá hoa lan ở nơi u cốc lạnh lẽo nên tuy đẹp mà trong cái đẹp có vẻ
yếu ớt, ẻo lả. Từ hôm sang ông chú, như được vào chỗ ôn thất, không ngại mưa
rầm, gió bấc, thành ra dung nhan lại tươi tốt thêm bội phần, chàng phải lấy làm
lạ, nửa buồn, nửa vui; vui vì người của mình yêu thật đáng bậc quốc sắc, thiên
hương, buồn vì tiếc cái hình dung vẫn tơ tưởng như phảng phất quanh mình” [1;
33].
Như vậy, ngôn ngữ của Nguyễn Tường Tam trong hai tác phẩm Nho phong
còn rất cổ cả về dùng từ, kiểu câu, các biện pháp tu từ. Nhất Linh sau này khi trò
chuyện với Nguyễn Ngu Í đã tự nhận: "Nho phong, Người quay tơ í cũ, lời xưa.

25


×