Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.06 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
Thi pháp học là bộ môn khoa học cũ mà mới. Cũ là bởi vì nó đã xuất hiện
ở Hy Lạp từ thời cổ đại với Nghệ thuật thi ca của Aristote. Nhưng Thi pháp học
với tư cách là một bộ môn khoa học chỉ hình thành vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi
dịch chuyển sang Âu – Mỹ và phổ biến khắp thế giới. Ở Việt Nam trước 1975,
Thi pháp học đã thâm nhập vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phổ biến ở
miền Bắc. Mãi đến sau Đổi mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành
“mốt” thời thượng được nhiều người vận dụng. Thi pháp học được dạy ở bậc Cao
học, Đại học và có trong sách bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học. Tinh
thần Thi pháp học đang thấm dần trong sách giáo khoa, trong giờ giảng văn và
trong bài làm văn học sinh. Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học
đường.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Nhưng trong nhà trường,
nên có một cách hiểu thống nhất vì tất cả học sinh phải học chung một sách giáo
khoa, thi chung một đề, một đáp án. Có thể hiểu, thi pháp học là cách thức phân
tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm
ngoài văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật,
giá trị hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình
thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật – không gian – thời gian, kết cấu – cốt
truyện – điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại… Nội dung trong tác phẩm phải được suy
ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính quan niệm” (Trần Đình Sử). Phương
pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Chúng ta hiểu,
“Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của
tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó” (Nguyễn Văn
Dân). Dạy Văn theo hướng thi pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức
nghệ thuật tác phẩm.

1


Nam Cao (1915-1951) là một trong những nhà văn Việt Nam tiêu biểu nhất


thế kỷ 20. Nhiều truyện ngắn của ông được xem như là khuôn thước cho thể loại
này. Đặc biệt một số nhân vật của Nam Cao trở thành những hình tượng điển
hình, được sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày.
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái
lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do NXB Đời mới Hà Nội ấn hành được đón
nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi
tên là Chí Phèo. Với giá trị đặc biệt của tác phẩm Chí Phèo, nhiều năm liền nó là
tác phẩm không thể thiếu trong chương trình giảng dạy ở bậc phổ thông. Vì vậy,
việc tìm hiểu về tác phẩm này dưới góc nhìn thi pháp học là một phương pháp
nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ hơn giá trị của tác phẩm Chí Phèo - một đỉnh
cao của khuynh hướng văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 của dân
tộc ta.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1. 1. Thi pháp và thi pháp học
1.1.1. Thi pháp
Cho đến nay từ “thi pháp” đã khá quen thuộc với những người học tập
nghiên cứu hoặc quan tâm đến văn học. Trên sách báo văn nghệ, người ta nhắc
đến nhiều thi pháp tác phẩm, thi pháp tác giả, thi pháp thể loại, thi pháp thời kì…
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thi pháp, nhưng chung quy có hai cách:
Một là: coi thi pháp là nguyên tắc, biện pháp chung tạo ra tác phẩm nghệ
thuật.
Thông thường gọi là “phương pháp làm thơ, làm văn”. Lí thuyết mang tính
cổ điển, được lưu truyền nhằm bồi dưỡng nhà văn.
Hai là: hiểu thi pháp là nguyên tắc, biện pháp sáng tạo cụ thể, tạo thành đặc

sắc nghệ thuật của một tác giả, tác phẩm, trào lưu, thể loại...
Cách thứ 1 gần với mĩ học, lý thuyết văn học, cách thứ 2 gần với phê bình
thưởng thức tiếp nhận những hiện tượng văn học nghệ thuật. Tóm lại, thi pháp là
phương diện hình thức của một hiện tượng văn học (tác giả, tác phẩm, trào lưu,
giai đoạn, nền văn học…). Thi pháp đi nghiên cứu những quy luật, đặc điểm của
hình thức nghệ thuật, đặc biệt là tính quy luật thống nhất của hình thức nghệ thuật
với những quan điểm thẩm mỹ của nhà văn.
1.1.2. Thi pháp học
Thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp, tức là nghiên cứu về các
nguyên tắc nghệ thuật của tác phẩm (thời gian, không gian, quan niệm về con
người, logic kết cấu tác phẩm bao gồm giọng điệu, ngôn ngữ, thể loại, hình ảnh
biểu tượng…).

3


Nói cách khác, thi pháp học là một khoa học ứng dụng trong văn học, gần
gũi với phân tích phê bình và nghiên cứu văn học:
Lí luận văn học thiên về nghiên cứu các quy luật chung của hiện tượng văn
học; còn thi pháp học thiên về nghiên cứu các tác phẩm, thể loại, tác giả, phong
cách, trào lưu, ngôn ngữ, nguyên tắc đặc thù tạo thành hiện tượng văn học cụ thể
mà thôi.
Phê bình văn học có thể đi từ những góc độ khác nhau mà phát hiện khám
phá nội dung và đánh giá chúng; còn thi pháp học thiên về phát hiện, khám phá
các quy luật hình thức nghệ thuật.
Những đặc tính của thi pháp học nói trên bắt đầu từ thời cổ đại Hy Lạp,
qua phương Tây đến Nga rồi đến Việt Nam. Viện sĩ Khravchenko (Nga) phân loại
:
- Thi pháp học lí thuyết: nghiên cứu cấu trúc, hình thức của tác phẩm văn học.
- Thi pháp học lịch sử: nghiên cứu sự tiến hoá của phương thức phương tiện

chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng và nghiên cứu sự hoạt động của chức năng
thẩm mĩ của chúng và số phận lịch sử của các khám phá nghệ thuật.
Nhìn chung, thi pháp học là một bộ phận chuyên biệt của nghiên cứu văn
học, chuyên nghiên cứu tính đặc thù và nguyên tắc nghệ thụât của văn học.
1.3. Định hướng nghiên cứu tác phẩm văn học theo hướng thi pháp
học
1.3.1. Thi pháp nhân vật - Quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả
năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn.
Có thể nói, nó giống như là một “chiếc chìa khóa vàng” góp phần gợi mở cho
chúng ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ
nói chung và từng thời đại nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù được nhiều

4


nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, song khái niệm quan niệm nghệ thuật về con
người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau. Cụ thể như sau:
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người là
một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm
cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”. Tức,
quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con
người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện
con người trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ
cho các hình tượng nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy được giá trị của
hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm.
Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng một cách
nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của
nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”.
Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ điển Thuật

ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là hình
thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với
các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm
thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.”
Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên
đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Từ
đó, chúng ta có thể đi đến khái quát cách hiểu quan niệm nghệ thuật về con người
như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm,
cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà
nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với
cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả
con người giống hay không giống so với đối tượng.

5


Như vậy, vì trung tâm của văn học là con người nên con người cũng chính
là đối tượng thẫm mĩ thể hiện quan niệm của tác giả về cuộc sống. Người sáng
tác sẽ là người vận động, suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư
tưởng mới để hiểu về con người. Bởi người ta không thể miêu tả và tạo nên chiều
sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học nếu không hiểu biết,
cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định.
Từ việc hướng đến xác định khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người,
có thể khẳng định rằng, chúng ta sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ những đổi
thay trong nội dung phản ánh cũng như nghệ thuật biểu hiện của văn học, nếu
không quan tâm tới sự vận động của con người trong văn học, đặc biệt là vấn đề
quan niệm nghệ thuật của các tác giả về con người trong văn học. Nói cách khác,
nếu bỏ qua quan niệm nghệ thuật về con người sẽ dẫn tới cách hiểu đơn giản về
bản chất phản ánh của nghệ thuật, hạ thấp yêu cầu sáng tạo thẩm mĩ của nghệ
thuật. Cho nên, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là điều hết sức quan

trọng. Đây được xem là cơ sở lí luận để chúng ta nghiên cứu tác phẩm văn học
dưới góc độ thi pháp học.
1.3.2. Thi pháp không gian nghệ thuật
“Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian, không
gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người” (Trần
Đình Sử). Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ tọa độ không - thời gian
xác định, nên những cảm nhận của con người về thế giới đều bắt đầu từ sự đổi
thay của không gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không gian - thời gian, con
người nhận ra sự đổi thay trong chính mình.
Khi bàn về không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học, Lê Bá Hán
trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa: “Không gian nghệ thuật là
hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”.

6


Trần Đình Sử lí giải thêm: “không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại cùng thế
giới nghệ thuật”. Ông còn khẳng định một cách hết sức chắc chắn: “không có
hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào
không nào không có một nền cảnh nào đó”, và “không gian nghệ thuật là sản
phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm
nhất định về cuộc sống”.
Như vậy, không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai của
thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời
sống, “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”. Và sự miêu tả, trần thuật bên trong
tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, ta xác định được vị
trí của chủ thể trong không - thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, diễn ra
trong một trường nhìn nhất định. Căn cứ vào điểm nhìn mà xác định được vị trí
của chủ thể trong không - thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, khoảng cách
nhìn, ở đặc điểm của khách thể được nhìn. Điểm nhìn không gian được thể hiện

qua các từ chỉ phương vị (phương hướng, vị trí), để tạo thành “viễn cảnh nghệ
thuật”.
Tóm lại, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ
thuật. Không gian nghệ không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn
học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới,
chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở
khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các
hình tượng nghệ thuật. Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà
nó tồn tại.
1.3.3. Thi pháp thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện
phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Theo Từ điển thuật ngữ

7


văn học: “thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó”.
Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ
thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái
được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần
thuật. Sự phối hợp giữa hai yếu tố này tạo thành thời gian nghệ thuật.
Khác với thời gian khách quan (tự nhiên) được đo bằng đồng hồ và lịch,
thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, vươn tới tương lai, có
thể dồn nén một thời gian dài trong chốc lát, cũng có thể kéo dài thời gian ấy đến
vô tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp
lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ,
chia tay… tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm.
Như vậy, thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong của hình
tượng nghệ thuật. Gắn với phương thức, phương tiện thể hiện, mỗi thể loại văn

học có kiểu thời gian nghệ thuật riêng. Phạm trù thời gian nghệ thuật cung cấp
một cơ sở để phân tích cấu trúc bên trong của hình tượng văn học, cũng như
nghiên cứu loại hình các hiện tượng nghệ thuật trong lịch sử.
1.3.4. Thi pháp kết cấu
Kết cấu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”. Tổ chức
tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài
giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật
kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm.
Bố cục là một phương diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao
gồm: tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật
trong tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của thành phần cốt
truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố bên ngoài cốt truyện… sao cho toàn
bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.
8


Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là
phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu bộc lộ chủ đề và
tư tưởng của tác phẩm; triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lí hệ
thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả và tạo ra tính toàn vẹn
của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ.
1.3.5. Thi pháp ngôn ngữ - Lời văn nghệ thuật
Lời văn nghệ thuật là dạng phát ngôn được tổ chứa một cách nghệ thuật,
tạo thành cơ sở ngôn từ của văn bản nghệ thuật, là hình thức ngôn từ nghệ thuật
của tác phẩm văn học.
Lời thơ, lời trần thuật, lời nhân vật, lời thoại trong kịch và các dạng của
chúng đều là bộ phận tạo thành lời văn nghệ thuật. Khác với lời nói hằng ngày,
lời văn nghệ thuật có tính chất cố định, tính độc lập, hoàn chỉnh trong bản thân
nó, có tính vĩnh viễn. Tính hình tượng của lời văn nghệ thuật có được do bản chất
của hình tượng tác phẩm: mọi hiện tượng, cảnh vật, con nguời trong văn học đều

muốn nói lên bằng lời văn nghệ thuật. Do đó, lời văn nghệ thuật phục tùng cấu
trúc hình tượng của tác phẩm, phục tùng đặc điểm của ý thức nghệ thuật, tư duy
nghệ thuật và có tính tổ chức rất cao.

9


CHƯƠNG 2
TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP HỌC
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao trong truyện
ngắn “Chí Phèo”
Trong sự nghiệp văn chương của Nam Cao, Chí Phèo được xem là truyện
ngắn xuất sắc viết về người nông dân trong xã hội cũ. Không chỉ có giá trị về tư
tưởng, tác phẩm còn ghi dấu sự độc đáo, mới mẻ trong nghệ thuật thể hiện. Bên
cạnh kết cấu mới mẻ, cốt truyện hấp dẫn, ngôn ngữ sống động... truyện ngắn này
cũng thể hiện sự hiện đại, sáng tạo trong quan niệm nghệ thuật về con người của
tác giả qua hình tượng Chí Phèo. Với những khám phá về con người tha hóa, con
người bi kịch, con người cô đơn, con người tự ý thức và con người với bản thể tự
nhiên, truyện ngắn Chí Phèo đã chạm tới được nghệ thuật văn xuôi hiện đại.
2.1.1. Con người tha hóa
Vũ Tuấn Anh đã từng cho rằng “Với Nam Cao, đời là một tấm áo cũ bị xé
rách tả tơi (…). Không có gì nguyên vẹn, ngay ngắn, tròn trịa, đẹp đẽ trong văn
Nam Cao”. Có lẽ, đọc văn Nam Cao, ta cảm thấy đau đớn không nguôi trước
những số phận người, những con người đang trượt dài trên con đường của sự tha
hóa nhân cách. Hướng ngòi bút vào khám phá chiều sâu cuộc sống, len vào
những ngõ hẻm đường quê để cảm thông với con người, Nam Cao đã xót xa khi
phát hiện ra sự tha hóa con người đang diễn ra khắp nơi. Kiểu con người tha hóa
đó, ta gặp trong hình ảnh của Lang Rận, của người cha trong Trẻ con không ăn
thịt chó, của bà cái Đĩ trong Một bữa no… và với Chí Phèo, nó hiện thân trong
nhân vật Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức.

Sự tha hóa của Chí Phèo bắt đầu khi hắn bước ra khỏi ngưỡng cửa nhà tù
trở về làng Vũ Đại. Thế nhưng, cái anh Chí hiền lành, chân chất ở tuổi hai mươi

10


thưở xưa đã không còn nữa. Thay vào đó là một Chí Phèo biến dạng, tha hóa về
cả nhân tính lẫn nhân hình.
Trước đây, hắn là một thằng “hiền lành như đất” và cũng ý thức rất rõ về
nhân cách, rất giàu lòng tự trọng. Nhưng khi trở về Chí Phèo trong một bộ dạng
khác: dị dạng, méo mó, trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” - nỗi khiếp sợ
của bao người. Dường như, sau bảy tám năm ở tù về, Chí Phèo đã trượt dài trên
đường ray của sự tha hóa: tha hóa nhân hình, tha hóa nhân tính, tha hóa cả những
suy nghĩ. Nhân hình của Chí không còn là nhân hình của một người bình thường
“Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! (...). Cái
ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông thầy tướng cầm
chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”.
Đó là nhân hình của một người dị dạng, không giống người. Xưa kia Chí
cũng là một anh canh điền trẻ trai, khỏe mạnh, bình thường. Thế nhưng, bây giờ
Chí là sản phẩm của sự tha hóa triệt để “Cái mặt hắn không trẻ cũng không già:
nó không còn phải là mặt người, nó là mặt của một con vật lạ, nhìn mặt những
con vật có bao giờ biết tuổi ? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio;
nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo”. Rõ ràng, Chí đã
bị cướp mất hình hài của một con người. Phải chăng, cái ngoại hình dữ tợn bị tha
hóa kia cũng là sự phản ánh cho đời sống nội tâm, cho phần nhân tính bên trong
cũng đã bị hủy hoại, tha hóa không kém gì cái hình hài bên ngoài? Nhân tính của
hắn là nhân tính của một “con quỹ dữ”. Hắn bây giờ không phải là anh canh điền
“hiền lành như đất” mà “hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại, tác quái cho bao
nhiêu dân làng.(...) hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên

vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người
lương thiện”. Cuộc đời của hắn bây giờ là triền miên trong những cơn say, triền
miên trong những cảnh ức hiếp, đâm chém, rạch mặt, ăn vạ...
11


Những suy nghĩ, những ngộ nhận của hắn cũng phản ánh nội tâm của một
con người bị tha hóa hoàn toàn. Không phải Bá Kiến xảo quyệt, không phải nhà
tù thực dân hủy hoại hắn hoàn toàn mà chính hắn cũng đang từng ngày hủy hoại
mình mà không hay không biết. Hắn vênh vang đắc chí khi nghĩ rằng “Không
vây cánh, không họ hàng thân thích; anh em không có, đến bố mẹ cũng không...
Ờ, thế mà dám độc lực chọi nhau với lý trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng
Vũ Ðại” và “hắn thấy hắn oai thêm bậc nữa”. Hắn tự đắc: "anh hùng làng này
cóc có thằng nào bằng ta!". Suy nghĩ đó của Chí phản ánh sự tha hóa đến tận
cùng về nhân cách. Bây giờ, hắn sống trong trạng thái mơ hồ, lù mờ về thời gian
và cuộc sống “Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu
lần, hắn nhớ làm sao nổi? Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu
hại người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn; cuộc
đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi”. Đối với hắn không còn khái
niệm ngày tháng nữa mà đời là một cơn say dài kéo lê từ ngày này qua ngày
khác. Hắn không còn ý thức bình thường của một con người.
Có thể thấy, nhân vật Chí Phèo là nhân vật điển hình cho mẫu con người
tha hóa trong truyện Nam Cao. Chí tha hóa nhân hình, tha hóa nhân tính, tha hóa
suy nghĩ và mơ hồ về cuộc sống... Thực tế, Chí Phèo là con người nhưng đã tha
hóa đến bên bờ vực ranh giới của cuộc sống con vật. Sự tha hóa đó của nhân vật
Nam Cao phản ánh nỗi đau của cuộc đời, của số phận con người trong xã hội cũ.
Dĩ nhiên không thể đổ lỗi hết cho hoàn cảnh bởi con người có khả năng chống lại
hoàn cảnh nhưng xã hội cũ xấu xa, độc ác, nham hiểm với những con người như
Bá Kiến đã không cho người ta sống cuộc sống như một con người. Xã hội đó đã
đẩy người ta xuống bùn đen, tha hóa hình hài, nhân cách. Thể hiện sự tha hóa của

Chí Phèo, trang văn Nam Cao đã mở ra một bức tranh hiện thực đầy rẫy bất công,
u tối. Nó phản ánh cái nhìn đầy cảm thông và thăm thẳm chiều sâu nhân văn về
người nông dân trong xã hội cũ của nhà văn.
12


2. 1.2. Con người bi kịch
Cuộc đời Chí Phèo là một chuỗi ngày dài đầy bi kịch: bi kịch trong thân
phận một đứa trẻ mồ côi đi ở đợ; bi kịch bị tha hóa nhân hình, nhân tính…Thế
nhưng, bi kịch lớn nhất và đau đớn nhất chính là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người của Chí Phèo. Khi Chí Phèo xuất hiện giữa trang văn Nam Cao với tiếng
chửi cứ kéo dài ra mãi thì cũng là lúc bi kịch cuộc đời Chí rõ ràng hiện ra trong
từng câu chữ. Cùng với quá trình tha hóa, Chí Phèo đã sống cuộc đời bi kịch bị
tước đoạt mất quyền làm người. Trở về làng Vũ Đại sau bảy tám năm ở tù, Chí
Phèo trở thành con người bị đồng loại xa lánh, chối bỏ, phải sống “bên lề cuộc
đời, ngoài rìa xã hội”. Chí Phèo đang tồn tại mà như không hề tồn tại vì hắn chỉ
là một tên lưu manh, dù sống cũng như đã chết vì “ngay đến cái thẻ có biên tuổi
hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng lưu tán, lâu
năm không về làng”. Thế là, hắn trở về trong nhân hình, nhân tính của con quỷ dữ
đã không được đồng loại chấp nhận . Cuộc đời hắn bây giờ chỉ là triền miên
những cơn say, kéo dài không dứt những tiếng chửi. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi
làng Vũ Đại, chửi người đẻ ra hắn. Nhưng bi kịch thay, hắn chửi nhưng chẳng ai
thèm chửi lại với hắn, ai cũng tự nhủ “chắc nó trừ mình ra”. Thậm chí, dù khi
hắn rạch mặt ăn vạ, kêu làng “như một người bị đâm” để gây sự chú ý ở đồng
loại thì cũng chỉ làm Thị Nở kinh ngạc còn cả làng “không ai ra điều”, đáp lại chỉ
là tiếng sủa của những con chó. Bị xã hội xa lánh, không chấp nhận quyền làm
người thì dù Chí Phèo có chửi, có khóc la, có uống rượu kêu làng, có rạch mặt ăn
vạ thì cũng chẳng ích gì. Chí Phèo đã bị xã hội chối bỏ.
Thế nhưng, bi kịch đó chỉ được ý thức sâu sắc và thấm thía nỗi đau khi
Thị Nở xuất hiện trong cuộc đời hắn. Trong cái đêm mà “trăng tỏa trên sông, và

sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng”, Chí Phèo gặp Thị đang “ngồi tênh hênh”
trong vườn chuối và hắn thấy “cái gì rộn rạo ran khắp người”, rối hắn “run run”.
Lần đầu tiên sau bao ngày dài triền miên trong vô thức, không ý niệm ngày tháng
13


và cảm xúc cuộc sống, Chí Phèo có những cảm giác con người. Việc ân ái với Thị
Nở, những cử chỉ săn sóc của Thị đã làm sống dậy trong Chí không chỉ cái bản
năng người đàn ông mà cả những cảm xúc, những ước mơ rất thật của con người.
Sau những ngày đắm mình trong những cơn say dài, Chí tỉnh dậy trong
trạng thái hoàn toàn tỉnh táo, thấy “bâng khuâng” và lòng “mơ hồ buồn”. Những
âm vọng cuộc sống thường nhật bình dị dội vào lòng hắn: “tiếng chim hót ngoài
kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái
chèo đuổi cá”, cả tiếng trò chuyện của những người đi buôn vải... Những âm
thanh giản dị. tha thiết gọi về trong hắn những cảm xúc con người. Chí Phèo nhìn
lại cuộc đời, nhớ về niềm ao ước một mái gia đình trong quá khứ, sợ sự cô độc và
khát khao mãnh liệt được làm người lương thiện. “Hắn thèm lương thiện, hắn
muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể
sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn
vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện...?”.
Nhưng chua xót thay, bà cô Thị Nở đã xuất hiện và dập tắt đi trong Chí cái
khát khao lương thiện mới vừa nhen nhóm. Ngay một người đàn bà “mả hủi”
không chồng như bà cô Thị Nở cũng không cấp nhận Chí, thì những người khác
sao có thể “mở đường” cho Chí. Ngay cả một người đàn bà “ngẩn ngơ như
những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” mà “người ta tránh thị
như tránh con vật nào rất tởm”, Chí cũng không thể kết thân sống cùng thì có xã
hội nào chấp nhận Chí? Chí cố gắng níu giữ, nhưng cái gạt tay của Thị Nở chỉ
đưa Chí rơi vào sự tuyệt vọng đau đớn.
Chí Phèo vật vã trong bi kịch tinh thần của con người sinh ra là người
nhưng không được chấp nhận làm người. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”

trong “thoang thoảng thấy hơi cháo hành” như thấm thía sâu sắc nỗi đau. Và lần
này, không như mọi lần, Chí Phèo “càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ơi
buồn”. Hắn xách dao đến nhà Bá Kiến, tìm đến nguồn gốc bi kịch cuộc đời hắn
14


với ý thức nỗi đau bằng câu nói nhức nhối “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào
cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương
thiện nữa. Biết không!”.
Chí Phèo giết Bá Kiến trả thù và tự kết liễu cuộc đời mình. Cái chết của
Chí Phèo kết thúc cho một chuỗi ngày dài trong bi kịch bị xã hội chối bỏ quyền
làm người nhưng cũng mở ra thăm thẳm những nỗi đau của bức tranh hiện thực
cuộc sống. Nó càng khoét sâu thêm sự nhức nhối trong bi kịch tinh thần của Chí
Phèo. Thèm lương thiện và thoáng thấy con đường trở về cuộc sống làm người,
nhưng Chí Phèo phải tự kết liễu cuộc đời và chết ngay trên ngưỡng cửa về với
cuộc đời. Bởi lẽ, hắn không thể về lại cuộc sống cũ, nhưng cũng không thể bước
qua ngưỡng cửa đó để hòa nhập cuộc sống con người vì không ai đưa tay ra mở
đường cho hắn.
Vì vậy, cái chết Chí Phèo như một tất yếu. Chết vì khát khao làm người mà
không thể làm người. Chí Phèo chết nhưng cái bóng ngật ngưỡng của Chí trong
những cơn say, những tiếng chửi của Chí và cái chết đau đớn của Chí cứ bám riết
tâm trí người đọc về nỗi đau của con người không được là người. Khám phá ra
bản tính tốt đẹp đằng sau hình hài quỷ dữ của Chí Phèo, phát hiện ra bi kịch bị từ
chối làm người của Chí Phèo cho thấy ngòi bút sắc lạnh của Nam Cao tuy có vẻ
lạnh lùng, tàn nhẫn nhưng đầy chan chứa yêu thương và thông cảm trước cuộc
đời người nông dân trong xã hội cũ.
2.1.3. Con người cô đơn
Bi kịch của cuộc đời bị tha hóa, bị chối bỏ làm người của nhân vật Chí
Phèo làm ta xót xa, nhưng có lẽ, nhức nhối khôn nguôi đó chính là nỗi cô đơn tận
cùng trong kiếp con người của Chí. Đó là nỗi đau lớn nhất, xa xót nhất. Chưa bao

giờ trong văn học thời bấy giờ có hình tượng con người cô đơn như vậy. Hình
tượng con người cô đơn là sự độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người
và mang tính nhân văn sâu sắc của Nam Cao.
15


Ngòi bút tinh tế của Nam Cao đã khám phá sâu thẳm vào những ngõ ngách
tâm lí của con người và ngầm ẩn cảm thông cho cuộc đời cô đơn của Chí Phèo.
Có thế, tác giả mới thấu hiểu và để cho Chí Phèo tự nghiệm ra “cô độc, cái này
còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo sống “ngật ngưỡng” trong văn
Nam Cao một kiếp sống cô độc: cô độc từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi, cô độc
trong thời gian cho đến không gian sống, cô độc trong mọi mối quan hệ người.
Xuất hiện trên cõi đời, Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, dù qua tay bao người nuôi
nhưng cuối cùng cũng không có nổi một mái ấm gia đình và khi bác phó cối chết,
Chí lại sống cuộc đời mồ côi bơ vơ. Lớn lên, cuộc đời Chí cũng chẳng có gì sáng
sủa. Chí chưa từng có một mối quan hệ người nào đúng nghĩa. Cuộc sống gia
đình có “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải” đó chỉ là mơ ước.
Trong các mối quan hệ còn lại: với bá Kiến, với bà Ba, với Thị Nở, bà cô
Thị Nở và với dân làng Vũ Đại, Chí hoàn toàn cô độc vì hắn không được yêu
thương, không được nhìn nhận như một con người. Với Bá Kiến, Chí Phèo chỉ là
công cụ đâm thuê, chém mướn. Với bà Ba, Chí là công cụ thỏa mãn bản năng phi
nhân tính. Với bà cô Thị Nở, Chí không phải là người. Với cả làng Vũ đại, Chí là
“con quỷ dữ”. Chỉ có trong quan hệ Thị Nở, Chí được năm ngày sống như một
con người, có người yêu thương nhưng quãng thời gian ngắn ngủi đó chỉ làm Chí
càng ý thức rõ hơn về sự cô độc, về nỗi đau của chính mình. Vì vậy, có thể nói
cuộc đời Chí Phèo là một chuỗi dài ngày tháng cô đơn.
Sống trong xã hội của con người, Chí không được chấp nhận làm người
nên cuộc đời hắn thật cô độc. Khi đã bước vào con đường lưu manh hóa, Chí chỉ
biết đập mặt ăn vạ, giết người, cướp của… Còn ngoài ra, cuộc sống hắn hoàn
toàn cô độc. Vì vậy, Chí triền miên trong những cơn say từ ngày này qua ngày

khác, triền miên trong những tiếng chửi trời, chứi đời, chửi làng Vũ Đại, chửi
người sinh ra hắn. Phải chăng, những tiếng chửi kia là khát khao được đối thoại?
Phải chăng, những cơn say kia là Chí đang trốn mình tìm quên đi nỗi cô đơn cùng
16


cực? Còn gì đau đớn hơn, cô đơn hơn khi là người nhưng không được làm người;
là người nhưng không một ai trò chuyện, không một ai yêu thương. Cuộc đời con
người đáng sợ nhất là sự cô đơn.
Có một nhà văn đã từng viết “Cô đơn là cho đi mà không người nhận,
muốn nhận mà không có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ chẳng bao
giờ đến. Như hai bờ sống nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng xa cách bởi dòng sông,
nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt không gian mà
cách biệt của cõi lòng”. Chí Phèo sống một cuộc đời cô đơn như thế mà cả cô
đơn hơn thế. Bởi có người cô đơn trong lòng khi họ vẫn được trò chuyện với mọi
người, vẫn sống trong mái gia đình. Còn Chí Phèo cô đơn ngay ở không gian
sống cách biệt không người lại qua, “bãi dâu bên sông”. Không người trò
chuyện, Chí đã chọn cách đối thoại dễ chạm lòng người, dễ được đối thoại nhất là
tiếng chửi, chỉ để mong được chửi lại. Nhưng không có người trực tiếp để chửi
nên Chí chửi vu vơ: chửi trời, chửi đời, chửi người. Tiếng chửi của Chí Phèo chỉ
được đáp trả bằng sự im lặng của mọi người và tiếng sủa của những con chó:
“hắn kêu làng thì không ai cần động dạng, họ lạu bạu chửi rồi lại ngủ, hắn kêu
làng cũng như người khác buồn, hát ngao. Đáp lại hắn chỉ có lũ chó cắn xao lên
trong xóm”. Khi hắn rạch mặt ăn vạ thì cũng chỉ có “ba con chó dữ với một thằng
say rượụ”. Những tín hiệu đối thoại thấp hèn nhất của Chí Phèo không được đáp
trả, hắn chỉ càng thêm cô độc trong kiếp làm người không giống người.
Khi Thị Nở đến, tình yêu và sự chăm sóc của thị như những tia nắng sưởi
ấm cõi lòng giá băng, cô độc của Chí. Thế nhưng vừa thắp lên đã vội tắt. Nó làm
Chí càng ý thức rõ và đau đớn hơn nỗi cô đơn trong kiếp làm người của mình.
Người ta càng cô đơn hơn khi ý thức sâu sắc về nó. Chí tìm đến Bá Kiến trong sự

tuyệt vọng, trả thù và kết liễu đời mình. Và ngay cả khi chết, Chí vẫn cô đơn.
Làng Vũ Đại vốn không xem Chí là người thì dửng dưng bàn tán. Vì vậy, lúc còn
sống hay cả khi chết đi rồi, Chí Phèo hoàn toàn cô đơn. Cuộc đời cô đơn của Chí
17


Phèo nhức nhối trong trang văn Nam Cao làm ta càng xót xa thêm về số phận
người nông dân trong xã hội cũ.
2.1.4. Con người tự ý thức
Kiểu con người tự ý thức xuất hiện đậm đặc trong văn Nam Cao ở mảng đề
tài trí thức với nhân vật Hộ trong “Đời thừa”, Điền trong “Giăng sáng”… Thế
nhưng, đọc truyện ngắn “Chí Phèo”, ta vẫn thấy thấp thoáng bóng dáng kiểu con
người này ở nhân vật Chí Phèo.
Nhân vật của Nam Cao khi chênh vênh trên ranh giới thiện - ác, người vật, vô thức – ý thức, thường tự ý thức để khẳng định vẻ đẹp nhân cách của mình.
Ý thức là cái giúp phân biệt con người với loài vật. Tự ý thức là trình độ cao của
ý thức, thể hiện khi con người tự suy ngẫm, nhìn vào cõi lòng mình để hướng tới
sự hoàn thiện. Nhân vật Chí Phèo sống cuộc đời dằng dặc trong vô thức với bản
năng của con quỷ dữ nhưng cũng có những khoảng lặng ý thức tự ngẫm về cuộc
đời mình.
Lần đầu tiên Chí Phèo ý thức được về cuộc đời mình là khi Thị Nở xuất
hiện trong cuộc đời hắn. Trước đó, trong những cơn say, Chí buông tiếng chửi thì
dường như hắn cũng có ý thức, cũng biết tức vì không ai chửi lại nhưng đó chỉ là
ý thức mơ hồ. Khi Thị Nở đến cùng tình yêu, sự chăm sóc thì những cảm xúc,
những ước mơ khao khát, những suy ngẫm về cuộc đời rất rõ ràng xuất hiện
trong đầu Chí. Đó là ý thức rất người của Chí Phèo, ý thức hoàn toàn tỉnh táo.
Nghĩ về mơ ước quá khứ xa xôi, hắn “nao nao buồn”; nghĩ về hiện tại ốm đau,
hắn cảm thấy cô độc. Những âm thanh bình dị cuộc sống như tiếng chim hót,
tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng trò chuyện của người đi chợ... dội vào lòng Chí
Phèo, bật lên thành tiếng thở dài “Chao ôi là buồn!”. Cảm nhận sâu sắc nỗi buồn
đó vì Chí Phèo đã ý thức được quãng đời tăm tối trong lốt con quỷ dữ của mình,

ý thức được sự cô đơn và nỗi buồn bị đồng loại xa lánh. Chưa bao giờ, hắn ý thức
giá trị con người như thế. Ý thức được là người thì phải được sống trong những
18


mối quan hệ con người. Vì vậy, hắn khát khao lương thiện, hắn muốn làm hòa với
mọi người thông qua Thị Nở. Lần ý thức này mở ra trong Chí hi vọng, mơ ước,
khát khao về những điều tốt đẹp.
Thế nhưng, càng hi vọng bao nhiêu thì nỗi đau đớn tuyệt vọng khi không
đạt được càng thẳm sâu bấy nhiêu. Khi sự can ngăn của bà cô Thị Nở buông ra,
Thị Nở bỏ mặc hắn níu kéo, thì nẻo về cuộc đời lương thiện của Chí Phèo hoàn
toàn bị cắt đứt. Lần này là lần thứ hai Chí Phèo ý thức được nỗi đau, ý thức được
bi kịch cuộc đời. Ý thức thẳm sâu về kẻ thù đã gây nên bi kịch cuộc đời mình đã
đưa chân Chí Phèo đến nhà Bá Kiến. Sự tự ý thức đó thể hiện rõ trong câu nói
đầy đau đớn “Ai cho tao lương thiện?”. Một người tưởng đã mất hết tính người
đã ý thức được sâu sắc bi kịch không được làm người của mình. Và giết chết kẻ
thù, tự kết liễu đời mình cũng chính là Chí Phèo ý thức được hắn không thể làm
người lương thiện được và cũng không thể sống như trước nữa.
Chính trong sự tự ý thức đầy đau đớn đó, nhân vật Nam Cao tỏa sáng vẻ
đẹp nhân cách. Nam Cao đã phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn lương thiện còn sót lại ở
Chí Phèo như một sự khẳng định vẻ đẹp con người với tấm lòng nhân đạo sâu
sắc. Sự tự ý thức đã khơi nguồn trong ta những cái nhìn mới đầy tính nhân văn về
con người. Con người dù tha hóa đến mất nhân tính nhân hình như Chí Phèo thì
vẫn có những phút lóe sáng vẻ đẹp nhân cách. Nam Cao không hề đánh mất niềm
tin vào con người. Chính trên bờ vực của sự tha hóa, sự tự ý thức đã kéo nhân vật
đứng vững, không tăm tối mãi trong cuộc sống như thú vật. Cái nhìn mang vẻ
đẹp đầy nhân bản của Nam Cao làm ta thêm yêu mến những trang văn sống động,
chân thật như những trang đời.

2.1.5. Con người với bản thể tự nhiên


19


Bàn về nhân vật Chí Phèo, Nguyễn Quang Trung cho rằng chỗ tuyệt bút
của Nam Cao là ông đã xây dựng nhân vật Chí Phèo với “sự lưỡng hóa về tính
cách”. Sự lưỡng hóa tính cách giữa đôi bờ say tỉnh của vô thức và ý thức, giữa
thiện và ác đó cũng chính là bản thể tự nhiên của con người. Đó cũng là một phát
hiện độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao.
Con người sinh ra trên đời không ai tốt hay xấu hoàn toàn. Thiện hay ác do
chủ quan cá nhân cùng với sự tác động hoàn cảnh tạo nên. Nhân vật Chí Phèo của
Nam Cao là sự đan xen bản tính thiện ác theo từng giai đoạn. Từ một anh canh
điền lương thiện, Chí đánh mất nhân tính, biến dạng nhân hình thành con quỷ dữ
của làng Vũ Đại; từ kẻ tha hóa, Chí mơ ước được làm người lương thiện. Dù
phần ác đó chiếm phần nhiều và che khuất đi bản tính hiền lành tự nhiên của con
người Chí Phèo nhưng có thể thấy, Chí Phèo có tính cách hoàn toàn hợp tự nhiên.
Chí Phèo hung dữ, tưởng không còn là người cũng có những phút run run khi
thấy Thị Nở, cũng biết làm tình, biết nũng nịu như trẻ con. Trước Chí Phèo, Nam
Cao đã phát hiện ra rằng “Ôi sao mà hắn hiền! Ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo
vẫn đập đầu, rạch mặt và đâm chém người? Ðó là cái bản tính của hắn, ngày
thường bị lấp đi”. Sự đan xen thiện - ác, phần người và phần thú trong con người
Chí cũng hiện hữu trong tất cả chúng ta - những ai tồn tại với hai tiếng “con
người”. Chỉ có điều, sự nổi lên của phần người hay phần thú đó là do tác động
hoàn cảnh và khả năng mỗi người. Phát hiện ra bản thể tự nhiên trong con người
Chí Phèo thể hiện sự mới mẻ, giàu ý nghĩa trong quan niệm nghệ thuật về con
người của Nam Cao so với văn học thời bấy giờ. Nó cũng giúp chúng ta nhìn lại
mình và nhân đạo hơn trong việc đánh giá một con người.
Sự sáng tạo và ý nghĩa nhân văn trong quan niệm nghệ thuật về con người
của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo. Nam Cao đã từng khẳng định “Một
tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác

phẩm chung cho cả loài người”. Truyện ngắn Chí Phèo của ông đã làm được điều
20


đó, hoàn toàn xứng đáng được xem là một tác phẩm giá trị về nội dung lẫn nghệ
thuật. Bên cạnh sự thành công ở những bình diện khác của thi pháp như ngôn
ngữ, giọng điệu, xây dựng nhân vật… quan niệm nghệ thuật về con người của
Nam Cao thể hiện qua nhân vật Chí Phèo đã phần nào cho thấy sự đổi mới đầy
sáng tạo trong nghệ thuật thể hiện cũng như chiều sâu nhân văn trong cách nhìn
con người. Cùng với những quan niệm về con người như đã nói, Nam Cao đã
không dẫm lên lối mòn cũ của những nhà văn hiện thực đi trước trong cách khám
phá hiện thực và con người. Ông đã tự khai thông cho mình một con đường riêng
tuy vất vả, khó khăn nhưng đầy dấu ấn sáng tạo. Nếu như Ngô Tất Tố, Nguyên
Hồng, Nguyễn Công Hoan... khám phá hiện thực chủ yếu trên những xung đột xã
hội, giai cấp trực tiếp, thì Nam Cao đi sâu vào những xung đột tâm lí nhân vật.
Viết về người nông dân, văn học hiện thực thời bấy giờ chỉ quen nhìn con người
trong con người nguyên phiến, thuần nhất về tính cách. Văn học thể hiện nỗi khổ
con người chủ yếu để bộc lộ sự thông cảm và ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của nhân
vật. Chị Dậu, anh Pha dù bị dồn đẩy, bức ép của hoàn cảnh xã hội đen tối nhưng
luôn giữ vững nhân cách. Thế nhưng, ở con người Chí Phèo, Nam Cao không chỉ
phát hiện ra nỗi bi kịch, sự tha hóa mà còn thấy những khoảng lặng cô đơn, sự tự
ý thức đầy đau đớn và cả con người mang bản tính thiện - ác tự nhiên. Đó là một
cách nhìn con người hoàn toàn mới mẻ và sáng tạo của Nam Cao.
2.2. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo
Trong truyện ngắn Chí Phèo có thể thấy tác giả đã tạo ra hai không gian
mang tính chất đối lập rõ ràng, chúng vừa đan xen vào nhau vừa tách biệt nhau
nhằm thể hiện ý đồ tư tưởng của nhà văn. Đó là không gian làng Vũ Đại và
không gian “năm sào vườn ở bãi sông” của Chí Phèo.
2.2.1. Không gian làng Vũ Đại


21


Không gian làng Vũ Đại chính là một bức tranh xã hội thu nhỏ, nơi ngự trị
của những bè cánh, âm mưu toan tính bóc lột dân nghèo của bọn cường hào ác
bá, nơi “xa phủ xa tỉnh”, “quần ngư tranh thực”, nơi người lao động bị bóc lột
cùng kiệt đến độ phải bỏ làng mà đi hoặc “è cổ nuôi bọn lý hào”. Nơi ấy nhan
nhản những bộ mặt nhan hiểm như Bá Kiến, Đội Tảo, Tư Đạm, Bát Tùng…
chúng là những kẻ chuyên đục khoét, ức hiếp dân thành nghề. Đó là một vùng
nông thôn có cái vắng lặng, hoang vu của một vùng quê xơ xác vì nghèo đói và
những người dân đang vật lộn từng ngày với cuộc sống, ở đó những người dân
thấp cổ bé họng như Chí Phèo, Thị Nở…muốn thoát ra khỏi đó nhưng đành bất
lực bởi không gian cư trú như sợi dây vô hình trói buộc họ, buộc họ phải chấp
nhận thực tại của mình.
Không gian ấy quá nặng nề đè lên đôi vai nhân vật, các nhân vật muốn
thoát khỏi không gian ngột ngạt ấy để đi tìm đến một nơi nào đó rộng lớn, tự do
hơn nhưng đành bất lực. Trên nền cuộc sống ao tù, trầm lặng đó dường như chỉ
có hình ảnh Chí Phèo bước chênh vênh trên con đường về mà thôi. Chính tại
không gian của xã hội thu nhỏ đó, Nam Cao đã phản ánh được hiện thực cuộc
sống của xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Trong suốt thiên truyện, rất nhiều lần Nam Cao nhắc đến và lặp lại không
gian nhà Bá Kiến, đó là nơi Chí rạch mặt ăn vạ và cũng là nơi dập tắt chút ánh
sáng vừa loé lên trong cuộc đời Chí, Chí giết Bá Kiến đồng thời kết thúc cuộc đời
mình cũng tại đây. Đó phải chăng chỉ là sự tình cờ?
Đây chính là dụng ý của tác giả, chính qua việc liên tiếp lặp lại hình tượng
không gian này đã giúp khắc họa rõ nét cuộc sống quẩn quanh, ngột ngạt, không
lối thoát của Chí, khẳng định không gian nhà Bá Kiến chính là nơi dung túng,
gián tiếp đưa Chí dấn sâu vào con đường tội lỗi. Qua đó, tác giả cũng muốn nhấn
mạnh, khẳng định rằng: Không ai khác, chính giai cấp phong kiến là kẻ thù của
người nông dân là nguyên nhân chính gây ra những cảnh đời bi thảm như Chí.

22


Khác với một số tác phẩm cùng thời, không gian trong Chí Phèo là không
gian được xác định cụ thể, nó được gọi dưới cái tên làng Vũ Đại. Phải chăng qua
đây Nam Cao muốn khẳng định với độc giả tấn bi kịch của Chí Phèo là một hiện
tượng có thật và điển hình trong xã hội đương thời. Nó sảy ra tại chính làng Vũ
Đại, một không gian thực tế rất rõ ràng chứ không hề chung chung khái quát ở
một địa danh mơ hồ nào cả.
2.2.2. Không gian “lò gạch cũ” và “năm sào vườn ở bãi sông”
Bên cạnh không gian của làng Vũ đại còn có không gian riêng tư, không
gian sinh hoạt của Chí phèo. Trước hết là không gian ở cái lò gạch cũ: “một anh
đi thả lươn, một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong
một cái váy đẹp đẽ bên cái lò gạch bỏ không”.
Đó như là không gian định mệnh của Chí, và phải chăng cũng là điềm báo
trước của Nam Cao về một cuộc đời cô độc cay đắng của Chí về sau. Chí bị bỏ
rơi bị cự tuyệt ngay khi vừa mới chào đời. Với không gian này tự nó đã mang
một sức mạnh tố cáo sâu sắc.
Tiếp nữa, là không gian ở túp lều ven sông và không gian ở vườn chuối.
Đó là nơi ở của Chí, một miếng đất nhỏ chông như chính kiếp sống của Chí Phèo,
Bá kiến cho Chí mảnh đất đó cũng đã bao hàm một sự ruồng bỏ. Không gian của
túp lều tranh là một không gian thật nhỏ nhoi so với cái không gian của làng Vũ
Đại. Thế mà, cái nhỏ nhoi của không gian ấy lại là nơi nảy nở tình yêu, tình
người, là nơi mà Chí đón nhận bát cháo hành của Thị Nở - bát cháo đánh thức
bản tính “Người” trong Chí.
Chính việc xây dựng thành công hai hình tượng không gian đối lập đó đã
tạo nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc nâng tác phẩm lên một tầng cao mới.
2.3. Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo
2.3.1. Thời gian đa chiều
23



Chí Phèo - con quỷ dữ của cả làng Vũ Đại, một kẻ cùng hơn cả những
người bần cùng xuất hiện ngay thiên truyện với bộ dạng say khướt và tiếng chửi
rủa. Trong tác phẩm Nam Cao đã sử dụng thời gian đa chiều khác với thời gian
hiện thực. Quá khứ, tương lai và hiện tại đan xen lẫn nhau, soi chiếu cho nhau,
Theo giáo sư tiến sĩ Đào Duy Hiệp, đó là bút pháp “đơn trước”, “ngoái lại”.
Mở đầu câu chuyện là thời gian hiện tại của Chí Phèo, một hiện thực thảm
khốc: Chí giờ đây là một con quỷ, là một kẻ nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ, bị
tha hóa cả về ngoại hình lẫn nhân phẩm, thậm chí hắn không được thừa nhận là
con người. Do đâu lại như vậy? Để giải đáp thắc mắc này Nam Cao đã đưa người
đọc trở về quá khứ của Chí, khi anh vẫn còn là một người trai lực điền hai mươi
tuổi, khỏe mạnh, tháo vác ôm ấp giấc mơ giản dị là có một gia đình nhỏ “chồng
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Tuy rằng nghèo đói nhưng anh sống lương thiện
hiền lành vậy mà chỉ vì một chút ghen tuông Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù, biến Chí
từ một anh nông dân hiền lành chất phác thành một con sâu rượu, một kẻ côn đồ,
nỗi sợ hãi của cả làng Vũ Đại. Nếu như hiện tại là nơi số phận nghèo khổ, cay
đắng của nhân vật đang diễn ra thì quá khứ hiện lên vừa đối lập vừa mang nỗi
buồn, sự hối tiếc. Còn tương lai lại là khoảng thời gian chứa đựng sự cùng quẩn,
bế tắc nhưng cũng qua đó gửi gắm nhiều mong ước. Việc đảo lộn trật tự thời gian
như vậy khiến cho câu chuyện tiến triển một cách bất ngờ, hấp dẫn, thôi thúc độc
giả đi tìm và lý giải nguyên do bi kịch của Chí Phèo. Qua đó ý nghĩa tố cáo xã
hội càng mạnh mẽ hơn. Mỗi chiều thời gian đều là một sự cố ý của nhà văn muốn
cho người đọc cảm nhận được sự tương phản, sự khác biệt giữa những khoảng
thời gian đó, đồng thời gắn liền với nó là sự thay đổi số phận nhân vật.

2.3.2. Thời gian mang tính nhịp điệu

24



Bên cạnh chiều hướng thời gian, Nam Cao cũng rất chú ý đến nhịp điệu, sự
vận động của thời gian trong tác phẩm. Khi nghiên cứu về vấn đề này thì Giáo sư
tiến sĩ Đào Duy Hiệp đã dùng hai khái niệm “thời sai” và “khoảng ngưng”.
Những câu chuyện rạch mặt ăn vạ, say, chửi… nói chung là những nhịp
điệu “làm trò” hóa ra không còn quan trọng mà phần những nhịp “thức tỉnh” mới
đáng lưu tâm. Nhịp điệu thời gian là sự tổ chức các yếu tố thời gian, đó là việc xử
lý mối liên hệ giữa thời gian thực tế và thời gian nghệ thuật. Thời gian thực tế
diễn ra theo tuyến tính, theo trình tự, liên tục, đều đặn. Thời gian nghệ thuật có
chỗ đảo trình tự, đứt đoạn, trình bày song song, lúc nhanh lúc chậm, có lúc dừng
lại, đi vào một mạch rẽ nào đó. Nhịp điệu thời gian trong Chí Phèo cũng vậy! Sự
gối đầu chồng chéo các sự kiện, tạo nên một nhịp điệu gấp khúc đầy đau đớn, xót
xa. Chí bị đẩy vào tù, khi ra tù thì trở thành tay sai cho bá Kiến, rồi may mắn Chí
gặp được Thị Nở - kim chỉ nam cho Chí trở về cuộc sống con người. Nhưng ngay
sau đó Chí đã bị xã hội cự tuyệt, dẫn đến hành động cầm giao giết Bá Kiến.
Những bi kịch biến cố đó liên tục nối tiếp nhau trong cuộc đời Chí Phèo đã góp
phần phơi bày hiện thực, tố cáo xã hội đương thời.
2.3.3. Thời gian tâm tưởng
Phối xen với nhịp điệu gấp gáp mang tính định mệnh ấy, còn có những
đoạn tả chân dung, tả cảnh, tả tình chậm rãi như những khoảng thư giãn, hứa hẹn
những đổi thay mới. Hay nói cách khác, đó chính là thời gian tâm tưởng của nhân
vật.
Chẳng hạn như đoạn miêu tả ánh trăng và gió nơi vườn chuối của Chí Phèo
thật sự rất lãng mạn! Nam Cao đã dành ra một khoảng lặng để cho Chí cảm nhận
về cuộc sống tươi đẹp bên ngoài mà trước kia Chí không nhận ra: “Tiếng chim
hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài
gõ mái chèo đuổi cá”. Khoảng lặng này đã khiến Chí Phèo có dịp nhìn lại cuộc
đời mình sau chuỗi dài những tháng ngày chìm đắm trong men rượu, thức tỉnh
25



×