Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Ảnh hưởng của biến động lạm phát lên sự phân bổ nguồn cho vay của ngân hàng bằng chứng thực nghiệm tại một số ngân hàng châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.83 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
------

NGUYỄN THỊ THUỲ NHÂN

ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG LẠM PHÁT LÊN
SỰ PHÂN BỔ NGUỒN CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG:
BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI MỘT SỐ NGÂN
HÀNG CHÂU Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
------

NGUYỄN THỊ THUỲ NHÂN

ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG LẠM PHÁT LÊN
SỰ PHÂN BỔ NGUỒN CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG:
BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI MỘT SỐ NGÂN
HÀNG CHÂU Á

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN HỮU HUY NHỰT

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của tác giả với sự hướng
dẫn của Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Nguyễn Hữu Huy Nhựt. Nội dung, kết
quả nghiên cứu của luận văn này là hoàn toàn trung thực. Tất cả các nguồn tài liệu
tham khảo đã được công bố đầy đủ.
Tp.Hồ Chí Minh, ngày…. tháng… năm….
Ký tên

Nguyễn Thị Thuỳ Nhân


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ
TÓM TẮT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................................. 1
1.1

Lý do thực hiện đề tài ........................................................................................ 1


1.2

Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 2

1.3

Câu hỏi nghiên cứu............................................................................................ 2

1.4

Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 2

1.5

Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3

1.6

Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu .................................................................. 3

1.7

Kết cấu bài nghiên cứu ...................................................................................... 3

1.8

Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ............... 5

2.1 Lạm phát ................................................................................................................. 5
2.1.1 Định nghĩa........................................................................................................ 5
2.1.2 Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động ngân hàng ........................................ 6
2.2 Tính bất ổn của lạm phát ........................................................................................ 7
2.2.1 Định nghĩa........................................................................................................ 7
2.2.2 Tác động của bất ổn lạm phát lên nền kinh tế ................................................. 7
2.2.3 Cách đo tính biến động của lạm phát............................................................... 9
2.3 Phân bổ nguồn cho vay của ngân hàng và những ảnh hưởng từ bất ổn vĩ mô: Mô
hình của Baum, Caglayan và Ozkan .......................................................................... 10
2.4 Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài ......................................... 13
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU .............................. 17


3.1 Mô hình nghiên cứu.............................................................................................. 17
3.2 Mẫu quan sát và nguồn số liệu ............................................................................. 20
3.2.2 Mô tả biến và nguồn dữ liệu .......................................................................... 21
3.2.2.1 Độ phân tán tỷ lệ cho vay........................................................................ 21
3.2.2.2 Biến động lạm phát ................................................................................. 23
3.2.2.3 Nhóm biến kiểm soát .............................................................................. 26
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................... 32
4.1 Kết quả hồi quy bằng REM .................................................................................. 32
4.2 Kết quả hồi quy bằng FEM .................................................................................. 33
4.3 Kết quả hồi quy bằng mô hình IV – GMM .......................................................... 36
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN .................................................. 39
5.1 Kết luận ................................................................................................................ 39
5.2 Một số kiến nghị để tối đa hoá nguồn lực của ngân hàng .................................... 39

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu viết tắt

Tên đầy đủ

FEM

Mô hình tác động cố định

IV – GMM

Instrumental variables - Generalized
Method of Moments approach

NHTW

Ngân hàng Trung ương

REM

Mô hình tác động ngẫu nhiên


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Mô tả thống kê tỷ lệ cho vay/tổng tài sản ...................................................... 21
Bảng 3.2: Độ trễ p, q trong mô hình ARCH/GARCH khi ước lượng độ biến động lạm
phát.......................................................................................................................... 24

Bảng 3.3: Mô tả biến, định nghĩa và nguồn dữ liệu ....................................................... 29
Bảng 3.4: Ma trận hệ số tương quan .............................................................................. 31
Bảng 4.1: Kết quả hồi quy bằng phương pháp REM ..................................................... 32
Bảng 4.2: Kết quả hồi quy bằng phương pháp............................................................... 33
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy bằng mô hình tác động cố định (tiếp theo) ......................... 34
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy bằng mô hình IV-GMM ...................................................... 36


DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 3.1: Biểu đồ phân phối biến phụ thuộc ............................................................................ 23
Hình 3.2: Biểu đồ tương quan giữa biến động lạm phát và phân tán tỷ lệ cho vay/tổng tài sản
.......................................................................................................................................... 26


TÓM TẮT
Bài nghiên cứu xem xét những ảnh hưởng của sự biến động của lạm phát đối với
việc phân bổ hiệu quả nguồn lực khan hiếm của các ngân hàng. Để tiến hành kiểm tra
mối liên hệ này, bài nghiên cứu sử dụng một bảng dữ liệu ngân hàng xuyên quốc gia
được xây dựng cho 19 quốc gia khu vực Châu Á bao gồm Bangladesh, Trung Quốc,
Hongkong, Ấn Độ, Indonesia, Israel, Jordan, Kazakhstan, Kuwait, Lào, Malaysia,
Paskita, Philippin, Singapore, Hàn Quốc, SriLanka, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam
trong giai đoạn 1988-2016.
Kết quả hồi quy cung cấp bằng chứng cho thấy sự bất ổn lạm phát có ảnh hưởng
ngược chiều đến sự phân tán tỷ lệ cho vay trên tài sản. Điều này cho thấy các nhà quản
lý ngân hàng (i) có thể dễ dàng cho vay nhiều hơn khi biến động lạm phát thấp, vì họ
có thể dự đoán được tỷ suất sinh lợi từ mỗi dự án thành công; (ii) phản ứng tương tự
trong thời kỳ biến động lạm phát cao. Hành động này ngụ ý rằng, khi sự biến động của
lạm phát cao, nguồn vốn ngân hàng khan hiếm sẽ không được phân bổ hiệu quả. Trong
thời kỳ sau khủng hoảng tài chính, việc phân bổ các khoản vay của các nước càng phụ

thuộc vào độ biến động lạm phát, phân bổ tỏ ra càng hiệu quả hơn khi lạm phát ổn định
và ngược lại.


1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Lý do thực hiện đề tài
Lạm phát là một trong những biến số kinh tế được quan sát và kiểm tra nhiều nhất
cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm. Nguyên nhân và tác động của đến các biến số kinh
tế khác và chi phí cho nền kinh tế nói chung đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập. Tuy
nhiên một khía cạnh khác của lạm phát là sự không chắc chắn của lạm phát cũng đóng
một vai trò không hề nhỏ trong cơ chế vận hành của nền kinh tế vĩ mô. Sự biến động
lạm phát làm nhiễu cơ chế giá, cản trở việc phân bổ nguồn lực hiệu quả của nền kinh
tế. Vì trong các nền kinh tế định hướng thị trường, hệ thống giá cả là cơ chế chính
thông qua đó các nguồn lực được phân bổ trên tất cả các lựa chọn thay thế tiềm năng.
Đối với hoạt động tín dụng, chừng nào mà các công ty và nhà cho vay có thể dự báo
chính xác mức giá tương đối của từng cá thể, thì các quỹ sẽ tiếp tục chảy vào các dự án
có tỷ suất sinh lợi cao nhất. Tuy nhiên, dưới sự không chắc chắn của lạm phát, phân bổ
nguồn lực tối ưu khó mà đạt được.
Sự ổn định giá cả sẽ giúp phân bổ các khoản mục có thể cho vay của ngân hàng
hiệu quả hơn. Vấn đề này trở nên quan trọng vì các ngân hàng thương mại thực hiện
chức năng trung gian tín dụng, đóng vai trò là "cầu nối" giữa người dư thừa vốn và
người có nhu cầu về vốn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm
bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất. Với các
doanh nghiệp có nhiều hạn chế có thể sẽ dựa nhiều vào các khoản vay ngân hàng do
không có khả năng hoặc hạn chế tiếp cận thị trường chứng khoán. Việc cắt giảm các
khoản vay có thể có ảnh hưởng lớn đến người đi vay phụ thuộc vào ngân hàng (ví dụ
như các doanh nghiệp nhỏ) và có thể làm giảm đáng kể chi phí đầu tư cố định hoặc
thậm chí dẫn đến phá sản (Gertler và Gilchrist, 1994, Ferri và cộng sự, năm 2014).

Trước những biến động từ môi trường vĩ mô, lạm phát tại một số thị trường mới
nổi ở châu Á luôn ở mức hai con số sau khủng hoảng và đang có xu hướng giảm trong
thời gian gần đây, sự không chắc chắn của lạm phát là một điều khó lường trước được
thì liệu rằng việc phân bổ nguồn cho vay của các ngân hàng có đạt hiệu quả tối ưu, hay
nói cách khác sự biến động lạm phát có làm nhiễu các quyết định phân bổ vốn của nhà


2

quản lý ngân hàng như các nghiên cứu thực nghiệm trước đây tại một số quốc gia khác
trên thế giới?
Xuất phát từ ý tưởng đó, bài nghiên cứu đã tiến hành kiểm định mối tương quan
của sự không chắc chắn trong lạm phát và hành động phân bổ nguồn vốn cho vay của
các nhà quản lý ngân hàng tại các quốc gia châu Á. Nghiên cứu sẽ cung cấp thêm cho
các học giả cái nhìn riêng nhất về vai trò của việc ổn định lạm phát trong việc phân bổ
hiệu quả các nguồn lực tài chính tại một số quốc gia Châu Á nói chung và Việt Nam
nói riêng.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Xuất phát từ ý tưởng nghiên cứu trên, bài viết tập trung giải quyết hai mục tiêu
sau:
(i)

Xem xét mối tương quan, tác động của sự biến động của lạm phát lên hiệu
quả phân bổ nguồn vốn cho vay của các ngân hàng và mối tương quan này
khi đặt chung với các biến động kinh tế vĩ mô khác.

(ii)

Kiểm tra sự biến động của lạm phát có thay đổi tác động sau cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu hay không.


1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết hai mục tiêu nghiên cứu đặt ra, bài viết sẽ lần lượt trả lời các câu
hỏi cụ thể sau:
(i) Biến động lạm phát có tác động lên hiệu quả phân bổ nguồn vốn cho vay của
ngân hàng hay không? Cụ thể là những biến động lạm phát có tác động lên độ
phân tán tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản chéo của các ngân hàng trong cùng một
quốc gia hay không?
(ii) Tác động của biến động lạm phát lên hiệu quả phân bổ của các ngân hàng sau
khủng hoảng tài chính toàn cầu có thay đổi hay không?
1.4 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà bài viết tập trung vào là mối quan hệ giữa biến động
lạm phát và hiệu quả phân bổ nguồn cho vay của các ngân hàng.


3

Biến động lạm phát được đo bằng phương sai có điều kiện từ hồi quy chỉ số giá
tiêu dùng CPI theo tháng bằng mô hình ARCH/GARCH.
Hiệu quả phân bổ nguồn cho vay của các ngân hàng được đo bằng độ phân tán
chéo hay phương sai của tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản của các ngân hàng trong cùng
một quốc gia.
Các biến động kinh tế vĩ mô khác được đo bằng tốc độ tăng trưởng GPD, biến
động chỉ số thị trường chứng khoán, biến động giá dầu…
1.5 Phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu tập trung vào các ngân hàng trong châu Á. Dữ liệu kiểm định thực
nghiệm được thu thập từ các ngân hàng tại 19 quốc gia Châu Á bao gồm: Bangladesh,
Trung Quốc, Hongkong, Ấn Độ, Indonesia, Israel, Jordan, Kazakhstan, Kuwait, Lào,
Malaysia, Paskita, Philippin, Singapore, Hàn Quốc, SriLanka, Đài Loan, Thái Lan và
Việt Nam. Bài nghiên cứu sử dụng thông tin cấp ngân hàng với 556 ngân hàng ở tất cả

các nước để tạo ra các biến phụ thuộc và kiểm soát. Dữ liệu cấp ngân hàng được trích
xuất hàng năm và kéo dài khoảng thời gian từ năm 1988 đến năm 2016.
1.6 Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Để kiểm định tác động của biến động lạm phát lên hiệu quả phân bổ nguồn cho
vay của các ngân hàng, bài viết khai thác mô hình hồi quy dữ liệu bảng và kiểm soát
các biến theo cấp độ quốc gia. Phương pháp hồi quy được lựa chọn là phương pháp hồi
quy ảnh hưởng cố định với ưu điểm vượt trội hơn, do phương pháp khắc phục được
hiện tượng ước lượng không đồng nhất và thiếu hiệu quả của mô hình hồi quy hỗn hợp
(Pooled Regression). Thêm vào đó bài viết sử dụng kết hợp phương pháp robust sai số
chuẩn để khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi.
Để tránh hiện tượng nội sinh, bài viết đưa vào thêm phương pháp ước lượng các
biến công cụ dựa trên Generalized Method of Moments approach (IV-GMM).
Sự biến động của lạm phát được đo bằng phương sai có điều kiện từ mô hình
ARCH/GARCH để giải thích sự khác biệt của chỉ số giá tiêu dùng.
1.7 Kết cấu bài nghiên cứu
Kết cấu bài viết gồm 5 chương chính, sau các chương chính là phần tài liệu tham


4

khảo và phần phụ lục.
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và các nghiên cứu liên quan
Chương 3: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
1.8 Đóng góp của đề tài
Như đã đề cập ở phần trên, lạm phát là một trong những biến số kinh tế được
quan sát và kiểm tra nhiều nhất cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm, tuy nhiên tính
không chắc chắn của lạm phát và những ảnh hưởng của nó lên hành vi phân bổ nguồn

vốn cho vay của các ngân hàng thì rất ít nghiên cứu được thực hiện tại Việt Nam cũng
như khu vực châu Á.
Do vậy có thể nói bài nghiên cứu đưa ra một cái nhìn mới về tính không chắc
chắn của lạm phát cũng như tác động của lên chủ thể quan trọng của nên kinh tế, ngân
hàng. Nghiên cứu thực nghiệm trên mẫu các ngân hàng châu Á, kết quả nghiên cứu sẽ
cho thấy rõ tầm quan trọng của sự ổn định về giá trong việc phân bổ hiệu quả các
khoản vay ngân hàng ở cả các nền kinh tế mới nổi và các nước phát triển ở khu vực
châu Á. Từ đó giúp chính phủ và NHTW thông qua các chính sách tài khoá và tiền tệ
làm ổn định nền kinh tế vĩ mô, giảm thiểu sự không chắc chắn góp phần giảm thiểu
những mất mát không đáng có do phân bổ nguồn lực không hiệu quả mang lại.


5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
2.1 Lạm phát
2.1.1 Định nghĩa
Lạm phát là một vấn đề mang tính toàn cầu và cũng là một vấn đề đang được
quan tâm ở Việt Nam. Có nhiều nhà kinh tế đã đưa ra định nghĩa cho thuật ngữ này.
Theo K. Marx, lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu thông tiền
tệ, vượt quá các nhu cầu của kinh tế thực tế làm cho tiền tệ bị mất giá và phân phối lại
thu nhập quốc dân. Như vậy, lạm phát chỉ xuất hiện khi lượng tiền giấy trong lưu thông
vượt quá nhu cầu tiền tệ của lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế.
Trường phái của Keynes lại cho rằng “việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm cho
mức giá cả tăng kéo dài với tỷ lệ cao, do vậy gây nên lạm phát”. Theo quan điểm này,
một nhân tố nào khác ngoài tiền tệ không thể gây nên lạm phát cao được. Ngược lại,
Paul A. Samuelson lại cho rằng: “lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá
chung. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ thay đổi của mức giá chung…”. Trên cơ sở đó ông đưa ra
các phương pháp cụ thể để tính tỷ lệ lạm phát, như phương pháp tính theo chỉ số giá
tiêu dùng (CPI), chỉ số giá sản xuất (PPI) và chỉ số giảm phát (GDP). Trái với quan

điểm của trường phái Keynes, ông cho rằng lạm phát có thể do nguyên nhân cầu kéo
hoặc nguyên nhân chi phí đẩy, tức là lạm phát có thể xảy ra ngoài nguyên nhân tiền tệ.
Vào những năm 70 của thế kỷ 20, Milton Friedman cho rằng “lạm phát dù lúc nào
và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ông còn nhấn mạnh: “Lạm phát ở bất cứ nơi
nào luôn là một hiện tượng tiền tệ với nghĩa là nó được và có thể được tạo ra chỉ bằng
cách tăng lượng tiền nhanh hơn so với tăng sản lượng”. Như vậy, theo ông một sự tăng
giá cả tạm thời có thể do nhiều nguyên nhân nhưng không thể xảy ra lạm phát cao mà
không có một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ nhanh được.
Từ các quan điểm trên, lạm phát có thể được hiểu là hiện tượng xảy ra khi mức
giá trong nền kinh tế tăng kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Mức giá
chung tức là mức trung bình của giá cả các hàng hoá trong nền kinh tế, thể hiện được
xu thế biến động chung của mức giá cả - biểu thị sức mua của tiền tệ đối với các hàng
hoá khác.


6

2.1.2 Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động ngân hàng
Trong điều kiện lạm phát tăng cao, Ngân hàng Trung ương (NHTW) thực hiện
một loạt các biện pháp thắt chặt tiền tệ như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất,
phát hành tín phiếu bắt buộc… là một nhân tố làm giảm khả năng thanh khoản của hệ
thống ngân hàng. Biểu hiện rõ nét nhất cho tình trạng này là lãi suất huy động vốn các
kỳ hạn ngắn lại cao hơn lãi suất huy động các kỳ hạn dài, các Ngân hàng chỉ tập trung
huy động vốn hạn ngắn. Xét về bản chất thì hiện tượng này phản ánh việc hệ thống
Ngân hàng đang thiếu thanh khoản, mục đích huy động vốn của các Ngân hàng lúc này
chủ yếu là nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản chứ không phải vì mục tiêu sinh lời.
Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng đã không còn thuận lợi như trước do
lạm phát bởi tâm lý lo sợ trước tình hình lạm phát tăng cao, đồng tiền mất giá nên
người dân có xu hướng tìm đến các kênh đầu tư an toàn hơn như mua vàng và ngoại tệ,
thay vì gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng như trước đây, từ đó làm giảm khả năng huy

động vốn của các ngân hàng. Giá cả các mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và tiêu dùng
tăng cao làm cho người dân và các doanh nghiệp sẽ phải chi tiêu nhiều hơn, dẫn đến
nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và doanh nghiệp giảm đi, trong điều kiện đó, các ngân
hàng khó có thể gia tăng được nguồn tiền huy động. Khi lạm phát tăng cao, mặc dù mặt
bằng lãi suất huy động của các ngân hàng cũng đã tăng theo nhưng nếu vẫn chưa thể
ngang bằng với tốc độ trượt giá, thì người gửi tiền vào ngân hàng phải chịu thiệt hại do
lãi suất thực âm, từ đó không khuyến khích các dòng vốn chảy vào ngân hàng.
Hoạt động tín dụng cũng bị kiềm chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tín dụng tăng
trưởng nóng là một nguyên nhân dẫn đến lạm phát và khi tình trạng lạm phát trở nên
quá đà sẽ dẫn đến trạng thái bất ổn của thị trường tiền tệ và tín dụng. Lạm phát làm cho
cả lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng tăng cao, ảnh hưởng xấu đến hoạt
động kinh doanh của chính các Ngân hàng, làm cho nguy cơ nợ xấu gia tăng, chất
lượng tín dụng bị suy giảm. Nguyên nhân của tình trạng này là khi xảy ra lạm phát, giá
cả vật tư, hàng hoá và các chi phí đầu vào của doanh nghiệp bị đẩy lên, kèm theo đó là
lãi suất tiền vay ngân hàng cao đã làm giảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp
vay vốn, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ tiền vay của doanh nghiệp đối


7

với các ngân hàng. Khi lạm phát xảy ra, chính sách tiền tệ được thắt chặt thì quy mô và
cơ cấu của hoạt động tín dụng sẽ có nhiều biến động
Lợi nhuận cũng từ đó mà giảm sút, dưới tác động của lạm phát và các giải pháp
điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt của NHTW, lợi nhuận của các ngân hàng không
thể tránh khỏi xu hướng sụt giảm bởi quy mô hoạt động tín dụng bị kiềm chế, dẫn tới
khả năng thu nhập bị giảm sút. Lãi suất huy động tăng cao trong khi lãi suất và các
khoản phí dịch vụ trong hoạt động cho vay bị khống chế làm cho hoạt động tín dụng
không có hiệu quả. NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc để
giảm lượng tiền cung ứng sẽ làm cho chi phí vốn của các ngân hàng tăng lên, từ đó làm
giảm lợi nhuận. Chất lượng tín dụng suy giảm làm tăng chi phí trích lập dự phòng rủi

ro và làm giảm lợi nhuận
Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm trong bài nghiên cứu này là tính bất ổn của
lạm phát và những tác động của nó lên hiệu quả phân bổ nguồn cho vay của các ngân
hàng.
2.2 Tính bất ổn của lạm phát
2.2.1 Định nghĩa
Lạm phát có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trong số đó, sự không
chắc chắn, bất ổn, biến động về lạm phát được coi là một trong những hậu quả quan
trọng nhất. Nó ảnh hưởng đến người tiêu dùng và người đưa ra những quyết định về
tiết kiệm và đầu tư trong tương lai một cách tiêu cực dẫn đến sự mất mát kinh tế
(Golob, 1994). Nếu không có bất ổn, họ có thể lên kế hoạch tốt hơn cho tương lai.
Sự không chắc chắn về lạm phát được định nghĩa là "tình hình trong đó giá cả
trong tương lai không thể đoán trước được và công chúng nói chung không biết lạm
phát sẽ tăng hay giảm trong tương lai" (Asghar và cộng sự, 2011).
2.2.2 Tác động của bất ổn lạm phát lên nền kinh tế
Theo Golob (1994), sự không chắc chắn về lạm phát làm cho các chủ thể kinh tế,
đưa ra các quyết định khác với những gì họ làm. Đây là những ảnh hưởng được gọi ảnh
hưởng trước khi ra quyết định, bởi vì các quyết định dự đoán lạm phát xảy ra trong


8

tương lai. Loại thứ hai của các ảnh hưởng diễn ra sau khi các quyết định đã được thực
hiện.
Các ảnh hưởng trước khi ra quyết định đề cập đến tình hình mà chủ thể đưa ra các
quyết định kinh tế khác với quyết định của họ trong trường hợp không có sự không
chắc chắn về lạm phát. Có ba kênh chính, thông qua đó các tác động truyền dẫn vào
nền kinh tế. Thứ nhất, sự không chắc chắn về lạm phát làm cho lãi suất dài hạn tăng lên
trên thị trường tài chính. Trên thực tế, một yếu tố quyết định quan trọng của lãi suất dài
hạn là tỷ suất sinh lợi yêu cầu của các nhà đầu tư. Nếu lạm phát là không chắc chắn, lãi

suất danh nghĩa của các khoản nợ dài hạn sẽ rủi ro hơn. Kết quả là các nhà đầu tư sẽ
đưa ra tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn, hàm ý mức lãi suất dài hạn cao hơn. Cuối
cùng, lãi suất cao hơn sẽ hàm ý các nhà sản xuất đầu tư vào nhà máy và thiết bị ít hơn
người tiêu dùng đầu tư vào nhà ở và hàng hoá lâu bền khác. Thứ hai, sự không chắc
chắn về lạm phát làm cho các biến số kinh tế khác có ý nghĩa quan trọng đối với các
quyết định của doanh nghiệp trở nên không chắc chắn, cản trở khả năng của người tiêu
dùng và doanh nghiệp để đưa ra quyết định tối ưu và có thể làm giảm hiệu quả kinh tế.
Ví dụ khi các khoản thanh toán đến hạn trong hợp đồng không đề cập đến yếu tố lạm
phát, sự không chắc chắn về lạm phát làm cho giá trị thực của các khoản thanh toán
trong tương lai không được xác định. Cuối cùng, sự không chắc chắn về lạm phát khiến
cho các doanh nghiệp chi tiêu các nguồn lực để tránh nguy cơ lạm phát trong tương lai.
Ví dụ, khi sự không chắc chắn về lạm phát trong tương lai là cao, các doanh nghiệp có
thể dành nhiều nguồn lực để đưa ra dự báo lạm phát chính xác hơn. Hơn nữa, một số
doanh nghiệp có thể cố gắng phòng ngừa lạm phát bất ngờ bằng cách sử dụng các công
cụ tài chính phái sinh.
Các phản ứng sau khi xảy ra lạm phát trong thực tế khác với lạm phát dự kiến. Do
đó, biến động lạm phát gây ra sự chuyển đổi của cải giữa các bên khác nhau khi họ sử
dụng đồng tiền danh nghĩa để thanh toán các khoản thanh toán trong hợp đồng. Đặc
biệt, nếu lạm phát tăng cao hơn mức dự đoán, các khoản thanh toán theo hợp đồng sẽ
thấp hơn dự kiến theo giá trị thực của chúng. Do đó, một bên phải chịu tổn thất do lạm
phát.


9

Tất cả những lập luận này chỉ ra rằng sự không chắc chắn về lạm phát trong
tương lai có thể gây ra những hậu quả kinh tế bất lợi. Mặc dù sự không chắc chắn
không thể được loại bỏ hoàn toàn, có thể trường hợp việc thông qua một chính sách cụ
thể có thể giảm thiểu sự không chắc chắn của lạm phát và giảm thiểu các chi phí do nó
gây ra. Đặc biệt, vì một số mô hình lý thuyết dự đoán rằng sự không chắc chắn về lạm

phát sẽ tăng theo mức độ lạm phát, theo đuổi một chính sách ổn định mức giá có thể
giảm thiểu chi phí của sự không chắc chắn về lạm phát.
Friedman (1977) đề xuất một khung lý thuyết cho mối quan hệ giữa lạm phát và
sự không chắc chắn của lạm phát. Ông đưa ra hai tác động thực sự của lạm phát. Trong
phần thứ nhất, khi lạm phát tăng, sẽ có áp lực chính trị từ phía công chúng và các cử tri
buộc các nhà hoạch định chính sách phải giảm lạm phát. Tuy nhiên, các nhà hoạch
định chính sách có thể không thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để giảm lạm phát vì
sợ các tác động suy thoái. Do đó, chính sách tiền tệ trong tương lai là không thể đoán
trước được, dẫn đến sự không chắc chắn về lạm phát tăng lên trong tương lai. Trong
phần thứ hai, Friedman lập luận rằng sự bất ổn về lạm phát ngày càng tăng ảnh hưởng
tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
2.2.3 Cách đo tính biến động của lạm phát
Mặc dù có thể có một số cách để ước tính sự biến động của lạm. Tuy nhiên, phổ
biến nhất là ước tính biến động lạm phát bằng cách áp dụng phương pháp
ARCH/GARCH đề xuất bởi Engle (1983), Bollerslev (1986). Dựa trên phương pháp
ước lượng GARCH của Bollerslev (1986), một số nghiên cứu mô phỏng sự biến động
của lạm phát thông qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chẳng hạn như Brunner và Hess
(1993) áp dụng tại Mỹ, Joyce (1995) và Kontonikas (2004) cho Vương quốc Anh,
Della Mea và Perna (1996) cho Uruguay…. Tất cả những nghiên cứu này đều mô hình
hoá biến động lạm phát thông qua mô hình GARCH.
Fountas và Karanasos (2007) và Bordes và Maveyraud (2008) đo sự biến động
của lạm phát bằng cách sử dụng GJR-GARCH (TGARCH) của Glosten, Jagannathan,
và Runkle (1993) và Zakoian (1994) và mô hình GARCH mũ (EGARCH) của Nelson
(1991).


10

Hầu hết các nghiên cứu sử dụng mô hình chuẩn GARCH (1,1) để ước tính độ
biến động của lạm phát. Tuy nhiên, mô hình này làm hạn chế các giả định về hành vi

của sự không chắc chắn về lạm phát không tương xứng với quan niệm không chắc chắn
của Friedman. Những vấn đề sau đây được đưa ra là khả năng liên kết này có thể phụ
thuộc vào mức độ lạm phát, chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế, tất cả đều khác
nhau giữa các nước và theo thời gian.
2.3 Phân bổ nguồn cho vay của ngân hàng và những ảnh hưởng từ bất ổn vĩ mô:
Mô hình của Baum, Caglayan và Ozkan
Beaudry và cộng sự (2001), Baum và cộng sự (2005) đã đề xuất một mô hình để
mô tả cách thiết lập danh mục đầu tư tối ưu. Trong nghiên cứu của họ, các nhà quản lý
ngân hàng hoạt động trong một môi trường rủi ro và trong từng thời kỳ có thể đầu tư
tiền gửi vào hai tài sản khác nhau: cho vay và đầu tư trái phiếu. Việc đầu tư vào trái
phiếu là giả định đơn giản cho sự đầu tư không có rủi ro phá sản, nhưng nó mang rủi ro
thị trường vì giá trị của chứng khoán có thể thay đổi do điều kiện thị trường thay đổi.
Tuy nhiên, rủi ro này có thể dự đoán được và quan trọng hơn nó có thể được quản lý và
phòng ngừa. Tỷ suất sinh lợi của khoản đầu tư này bằng với lãi suất phi rủi ro (rf).
Mặt khác, các khoản cho vay đối với khách hàng bao gồm hai loại rủi ro khác
nhau: rủi ro thị trường và rủi ro vỡ nợ. Rủi ro vỡ nợ là kết quả của một kết hợp xác suất
khách hàng không trả được nợ trong tương lai và các yếu tố hệ thống, tương quan tình
trạng của nền kinh tế. Trên thực tế, trong những thời điểm kinh tế vĩ mô đi xuống, rủi
ro của danh mục đầu tư ngân hàng càng có xu hướng gia tăng.
Đối với ngân hàng i vào thời điểm t, việc đầu tư vào các khoản cho vay rủi ro
mang lại lãi suất (ri) bằng lãi suất phi rủi ro cộng với phần bù rủi ro (rpi), bằng với tất
cả các khoản cho vay, giả định là đồng nhất và không phụ thuộc vào rủi ro của người
vay nhất định:
ri = rf + rpi
Giá trị kỳ vọng và phương sai của phần bù rủi ro lần lượt là (
Var(rpi) =

(1)
)=


và Var(rpi) =

. Tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của khoản vay có thể được viết lại là:
ri = rf +

+

(2)


11

trong đó

là một thành phần ngẫu nhiên có phân phối chuẩn N (0,

). Baum và cộng

sự cũng giả định rằng mỗi ngân hàng có một danh mục đầu tư cụ thể với cấu trúc rủi ro
khác nhau và do đó các thành phần ngẫu nhiên của tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng
không tương quan với nhau



= 0.

Trong khuôn khổ này, các nhà quản lý ngân hàng giải quyết vấn đề tối ưu hóa danh
mục đầu tư. Họ cân bằng lại thành phần của tài sản để có được sự kết hợp tối ưu giữa
rủi ro và tỷ suất sinh lợi kỳ vọng. Theo nguyên tắc tối đa hoá hữu dụng, họ phải chọn
cổ phần


và (1 -

) tài sản tương ứng để đầu tư vào các khoản vay và trái phiếu. Tuy

nhiên, trước khi ra quyết định, các ngân hàng không quan tâm đến phần bù rủi ro thực
tế cũng như yếu tố ngẫu nhiên

, họ chỉ quan tâm đến tín hiệu nhiễu của chúng:
=

trong đó

+

(3)

là một biến ngẫu nhiên độc lập với

có phân phối chuẩn N (0,

).

Giả định, yếu tố nhiễu ( ) của các tín hiệu ngân hàng nhận được giống hệt nhau, trong
khi các tín hiệu chung còn lại

vẫn khác nhau. Trên thực tế, mặc dù tất cả các ngân

hàng đều có khả năng không đối mặt với vấn đề bất cân xứng thông tin, nhưng vẫn tồn
tại các thông tin riêng khác biệt. Về nguyên tắc,


có thể được quan sát và sự không

chắc chắn có thể được loại bỏ nếu tất cả các ngân hàng chia sẻ thông tin riêng của họ.
Tuy nhiên, chia sẻ thông tin dường như là điều không thể trên thị trường tín dụng cạnh
tranh.
Yếu tố nhiễu

có thể được hiểu là mức độ không chắc chắn về các điều kiện

kinh tế vĩ mô trong tương lai. Tác động của nó lên các ngân hàng là đồng nhất, bất kể
khả năng dự đoán của các nhà quản lý về thành phần ngẫu nhiên

của tỷ suất sinh lợi

khoản cho vay. Khi sự bất định của kinh tế vĩ mô tăng thì phương sai của

cũng tăng

làm cho các ước tính về tỷ suất sinh lợi của các khoản vay không chính xác. Giả thiết
về sự độc lập giữa

và bây giờ rõ ràng hơn, thực tế là cú sốc kinh tế vĩ mô tổng thể

không tương quan với thành phần của tỷ suất sinh lợi từ khoản cho vay.
Để xác định tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của khoản vay, các nhà quản lý ngân hàng
phải dự đoán giá trị của

. Khi không có tín hiệu nhiễu, dự báo của ngân hàng (không



12

điều kiện)

sẽ là giá trị trung bình trong phân phối của nó, bằng không. Tuy nhiên,

các ngân hàng quan sát tín hiệu và có thể dự đoán thêm thông tin từ nó. Giá trị kỳ vọng
của tỷ suất sinh lợi thu được từ các khoản vay dựa trên điều kiện
định là một hằng số ( ) của tín hiệu, trong đó
tính của

trên

, E [ | ] được giả

đại diện cho một hệ số hồi quy tuyến

:
E [ | ] =

( + ),trong đó

=

=

(4)




của danh mục đầu tư E [ | ] của ngân hàng i

Tỷ suất sinh lợi kỳ vọng có điều kiện
là:
E [ | ] =
=

(

+

+ [ | ] + (1 − α)

+

+

( + ) + (1 − α)

(5)

và phương sai có điều kiện Var[ | ] =

(6)

Các ngân hàng e ngại rủi ro giả định có mức hữu dụng như sau:
E [ | ] = E [ | ] -

Var[ | ]


(7)

Hữu dụng gia tăng khi tỷ suất sinh lợi kỳ vọng tăng và sự biến động tỷ suất sinh lợi
giảm ( là hệ số e ngại rủi ro).
Sử dụng phương trình trung bình và phương sai của danh mục đầu tư, để đạt được tỷ lệ
cho vay trên tài sản tối ưu ( ) đối với ngân hàng i và độ phân tán chéo là:

=
Var( ) =

(8)
σ2E

(9)

ω2 σ4v

Phương sai của của tỷ lệ cho vay trên tài sản có mối tương quan âm với mức độ bất ổn
về kinh tế vĩ mô σ2v . Thật vậy, lấy đạo hàm của phương sai của
( )
2
=


σ2v

đối với σ2v :

< 0(10)


Điều này có hàm ý rằng phương của tỷ lệ cho vay trên tài sản thu hẹp do sự bất định về
kinh tế vĩ mô gia tăng.
Phương sai của

tăng khi phương sai của thành phần ngẫu nhiên tăng lên:


13

( )
=
σ2ε

1

> 0(11)

Dựa trên công thức xây dựng, họ đưa ra giả thiết:
Giả thuyết: Khi sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô tăng lên, các ngân hàng có
khuynh hướng phân bổ tài sản trong danh mục đầu tư của họ một cách đồng nhất hơn
(phương sai của tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản chéo giảm);
Lạm phát là một trong những vấn đề quan trọng trong kinh tế vĩ mô và biến động
lạm phát làm môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn. Cụ thể hơn khi sự không chắc chắn lạm
phát tăng lên làm bóp méo sự phân bổ tối ưu nguồn lực ngân hàng. Một sự tăng lên
trong bất ổn lạm phát làm độ phân tán của tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản giảm xuống,
hàm ý các nhà quản lý ngân hàng hành xử theo một cách đồng nhất hơn do hệ thống
giá cả bị nhiễu quá mức, các nhà quản lý ngân hàng sẽ hành động thận trọng hơn trong
việc phát hành các khoản vay mới vì họ không thể đánh giá chính xác mức tỷ suất sinh
lợi mong đợi từ khoản cho vay. Ngược lại, chất lượng thông tin tốt hơn sẽ dẫn đến sự

phân bổ các khoản vay không đồng đều giữa các ngân hàng vì các nhà quản lý khác
nhau có thể tận dụng dự đoán chính xác hơn của mình về các cơ hội cho vay khác
nhau.
2.4 Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Một trong những vấn đề chính trong kinh tế là việc phân bổ nguồn lực khan hiếm
để sử dụng hiệu quả nhất. Mặc dù hệ thống giá cả sẽ dẫn đến việc phân bổ nguồn lực
hiệu quả, nhưng trong điều không chắc chắn, điều này khó có thể thực hiện được.
Các nhà nghiên cứu trước đây đã dành nhiều nỗ lực để chứng minh rằng sự không
chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu tư cố định của các doanh nghiệp. Ví dụ, dưới
tác động hoàn toàn hoặc một phần, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự gia tăng
chêch lệch về tỷ suất sinh lợi trong tương lai từ dự án đầu tư sẽ làm tăng giá trị thời
gian và gây ra sự trì hoãn trong chi tiêu đầu tư cố định (Bernanke, 1983). Hartman
(1972) và Abel (1983) dự đoán mối quan hệ giữa sự không chắc chắn và đầu tư, một sự
gia tăng bất ổn về giá trong tương lai làm tăng tỷ suất sinh lợi dự kiến trong tương lai
trên một đơn vị vốn cận biên làm tăng tính hấp dẫn của đầu tư.


14

Một số nhà nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng sự không chắc chắn có tác
động ngược chiều đến mức chi phí đầu tư cố định của một công ty, trong khi một số
nghiên cứu khác lại cho thấy một mối quan hệ cùng chiều hoặc không tuyến tính giữa
sự không chắc chắn và đầu tư. Beaudry và cộng sự (2001) dựa trên nền tảng nghiên
cứu của Lucas (1973), nhấn mạnh những hàm ý của sự không chắc chắn về chi phí đầu
tư cố định của các doanh nghiệp. Dựa trên mô hình phân tích của họ, họ cho rằng
những thay đổi trong sự không chắc chắn về lạm phát sẽ bóp méo sự phân bổ hiệu quả
nguồn lực khan hiếm của các công ty. Bài nghiên cứu sử dụng một bảng dữ liệu các
doanh nghiệp sản xuất ở Anh trong giai đoạn từ năm 1970 đến năm 1990 và mô hình
của họ ngụ ý rằng sự không chắc chắn cao sẽ dẫn đến sự phân bố tỷ lệ đầu tư cố định
hẹp hơn do các nhà quản lý doanh nghiệp sử dụng ít kiến thức chính xác hơn về các cơ

hội đầu tư khác nhau.
Ngược lại khi sự bất ổn thấp sẽ dẫn đến sự phân bố tỷ lệ đầu tư cố định nới rộng
do các nhà quản lý có nhiều thông tin chính xác hơn về các cơ hội đầu tư của họ.
Caglayan và Xu (2014) sử dụng bảng dữ liệu của các công ty sản xuất Nhật Bản, họ
cũng kết luận rằng sự không chắc chắn bóp méo sự phân bổ hiệu quả chi phí đầu tư cố
định của các công ty.
Baum và cộng sự (2009) là nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu tác động của sự
không chắc chắn đến sự phân bổ nguồn lực khan hiếm của các ngân hàng. Khác với
Beaudry và cộng sự (2001), họ nhấn mạnh tầm quan trọng của sự ổn định về kinh tế vĩ
mô đối với việc phân bổ các khoản cho vay của các ngân hàng và cho rằng sự ổn định
của môi trường kinh tế vĩ mô sẽ giúp phân bổ tài sản cho vay hiệu quả hơn. Để chứng
minh các giải thiết của họ, họ đã sử dụng một bảng dữ liệu lớn các ngân hàng Mỹ và
cho thấy sự bất định về kinh tế vĩ mô (đo lường bởi sự biến động của tăng trưởng GDP
hoặc lạm phát) có tương quan âm với độ phân tán của tổng tỷ lệ cho vay đến tài sản.
Sau đó, Baum và cộng sự (2009), Quagliariello (2009) và Calmès and Théoret
(2014) đã kiểm tra vai trò của sự không chắc chắn về kinh tế vĩ mô đối với sự phân tán
các nguồn tài chính của ngân hàng cụ thể. Nghiên cứu đầu tiên đã kiểm tra vai trò của
sự ổn định về kinh tế vĩ mô đối với hiệu quả phân bổ các khoản cho vay của ngân hàng


15

cho một nhóm lớn các ngân hàng ở Ý và nghiên cứu sau đã kiểm tra 6 ngân hàng hàng
đầu của Canada và 20 ngân hàng hàng đầu của Mỹ. Cả hai nghiên cứu đều đưa ra
những kết luận tương tự. Các ngân hàng có khuynh hướng ứng xử đồng nhất hơn trong
những thời điểm bất ổn kinh tế vĩ mô cao. Cả ba nghiên cứu đều sử dụng dữ liệu hàng
quý và kiểm tra từng quốc gia.
Một số nhà nghiên cứu cũng xem xét tầm quan trọng của tình trạng nền kinh tế
đối với cho vay ngân hàng trong chu kỳ kinh tế. Ví dụ như Gambacorta và MarquesIbanez (2011), Brei và Schclarek (2013), Brei và cộng sự (2013) đã tìm thấy bằng
chứng cho thấy các ngân hàng nhà nước tăng mức cho vay trong giai đoạn khủng

hoảng, các ngân hàng tư nhân lại giảm mức cho vay. Bài nghiên cứu hàm ý Chính phủ
đóng vai trò tương phản trong chu kỳ của hệ thống ngân hàng.
Một khía cạnh khác của các nghiên cứu trước đây đã khảo sát vai trò của rủi ro
đối với các khoản vay ngân hàng. Ví dụ, Altunbas và cộng sự (2010) nhận thấy rằng
các ngân hàng với xác suất vỡ nợ thấp hơn có thể cung cấp một khoản tín dụng lớn hơn
để bảo vệ nguồn cấp vốn của họ khỏi những thay đổi về chính sách tiền tệ. Tiếp đến,
Kosak và cộng sự (2015) đã sử dụng bảng dữ liệu ngân hàng nước ngoài và thấy rằng
sự sẵn có của các quỹ chất lượng cao (vốn cấp 1 và tiền gửi cá nhân) và hỗ trợ của
chính phủ là rất quan trọng trong việc cho vay liên tục của ngân hàng trong giai đoạn
khủng hoảng. Một nghiên cứu tương tự, Delis và cộng sự (2014) cho thấy khi người
tiêu dùng và các nhà phân tích thận trọng, nguồn cung của tổng số khoản vay ngân
hàng ở Mỹ sụt giảm. Caglayan và Xu (2016) nhận thấy rằng những thay đổi vĩ mô có
ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng tín dụng ngân hàng. Họ cũng nhấn mạnh rằng các
ngân hàng tiếp tục giảm mức tăng trưởng tín dụng của họ khi mức độ biến động đạt
quá mức.
Giống như Beaudry và cộng sự (2001), Caglayan và Xu (2016) tập trung chú ý
vào những ảnh hưởng của sự biến động của lạm phát đối với việc phân bổ khoản cho
vay của các ngân hàng. Điều này khác với Baum và cộng sự (2009) đã kiểm tra xem sự
ổn định kinh tế vĩ mô có giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn hay không. Tuy nhiên,
điểm khác so với các nghiên cứu thực nghiệm trước đây là bài nghiên cứu sử dụng bộ


16

dữ liệu từ các ngân hàng từ 15 quốc gia, áp dụng các phương pháp dữ liệu bảng để đưa
ra một cái nhìn rộng hơn về mối liên hệ giữa sự biến động về tỷ lệ lạm phát và vấn đề
phân bổ nguồn lực của các ngân hàng so với các nghiên cứu trước đây. Ngoài ra, bài
nghiên cứu còn đưa ra so sánh và tương phản ảnh hưởng của sự không chắc chắn đến
các khoản vay ngân hàng giữa EU và các nhóm nước ngoài của EU và cuối cùng là
điều tra mối tương quan này có thay đổi sau cuộc khủng hoảng tài chính hay không.

Nhìn chung các nghiên cứu thực nghiệm trước đây dù sử dụng bảng dữ liệu với
nhiều doanh nghiệp, ngân hàng trong nước hay dữ liệu bảng các ngân hàng từ nhiều
nước để kiểm tra những tác động của sự không chắc chắn, bất ổn, biến động kinh tế vĩ
mô hay cụ thể hơn là lạm phát đều cho thấy kết tương tự. Sự không chắc chắn trong
kinh tế vĩ mô làm hệ thống giá không phát huy tác dụng trong việc phân bổ nguồn lực.
Một sự biến động làm bóp méo hiệu quả phân bổ nguồn lực tối ưu. Cụ thể đối với sự
phân bổ khoản cho vay của ngân hàng, khi sự biến động càng lớn thì độ phân tán của tỷ
lệ cho vay trên tài sản càng nhỏ và ngược lại sự ổn định, biến động thấp giúp các ngân
hàng phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả hơn.
Khi môi trường vĩ mô ổn định, ít biến động, các nhà quản lý ngân hàng sẽ có thể
dự đoán lợi nhuận từ mỗi dự án tiềm năng một cách dễ dàng hơn và tài trợ cho các dự
án có tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn. Ngược lại, khi môi trường kinh tế đang bất ổn,
khả năng dự đoán của các nhà quản lý ngân hàng sẽ không còn chính xác nữa, điều này
sẽ gây trở ngại, giải thích hành vi cho vay khá bảo thủ ở tất cả các ngân hàng. Lập luận
này hàm ý rằng trong thời gian kinh tế vĩ mô biến động mạnh, các ngân hàng sẽ hành
xử đồng nhất hơn, làm cho tỷ lệ cho vay trên tài sản của các ngân hàng giảm. Trong
những khoảng thời gian ổn định hơn, các ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội hành xử theo
cách riêng, họ tận dụng được thông tin riêng, dẫn đến việc mở rộng hệ số phân bổ của
các khoản cho vay đối với tài sản của các ngân hàng. Theo quan điểm này, sự ổn định
của môi trường kinh tế vĩ mô sẽ giúp phân bổ các khoản vay có hiệu quả hơn.


×