Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở nhật bản, hàn quốc, đài loan và bài học kinh nghiệm cho việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.98 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
—————

VŨ CHÍ HÙNG

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
Ở NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số:
9.31.01.06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội – 2018


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn KHXH Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Chu Đức Dũng
2. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hùng

Phản biện 1: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Phản biện 2: PGS.TS. Đỗ Hương Lan
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,


họp tại Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Có thể tìm luận án tại:

-

Thư viện Quốc gia;

-

Thư viện Học viện Khoa học xã hội


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
và hội nhập quốc tế với mục tiêu hình thành những ngành công nghiệp hiện đại có
năng lực cạnh tranh cao không chỉ tại thị trường trong nước mà trên thị trường thế
giới. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi rất nhiều nhân tố khác nhau, trong đó sự hình
thành và phát triển CNHT chính là chìa khóa quan trọng và quyết định. Tuy nhiên,
hệ thống luật pháp và chính sách của Việt Nam hiện nay chưa đủ mạnh để tạo điều
kiện về môi trường pháp lý, định hướng và khuyến khích đầu tư, phát triển ngành
CNHT. Hiện ngành CNHT ở nước ta còn khá non trẻ, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chủ
yếu sản xuất các linh kiện chi tiết đơn giản, giá trị gia tăng thấp, tính cạnh tranh
thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp chế tạo và lắp ráp;
dung lượng thị trường các ngành công nghiệp hạ nguồn nhỏ, chưa hấp dẫn sản xuất
CNHT; sức cạnh tranh của sản phẩm hỗ trợ thấp, do giá thành cao, chất lượng
không ổn định, thời hạn giao hàng không đảm bảo; chưa có một tổ chức đầu mối

quản lý nhà nước về CNHT để đề xuất và thực hiện chính sách khuyến khích phát
triển CNHT một cách cụ thể, sát thực; vai trò hỗ trợ trung gian của các tổ chức, các
hiệp hội, cơ quan quản lý nhà nước chưa thể hiện rõ, kể cả ở khâu hoạch định
chính sách, kế hoạch đến thực thi; các chương trình phát triển CNHT chưa thật sự
hiệu quả; doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp của các hoạt động này vẫn chưa nhận
được các hỗ trợ thích đáng và cần thiết.
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là những nền kinh tế đã chú trọng phát
triển CNHT từ sớm trên thế giới và đã đạt được nhiều thành công trong lĩnh vực
này. Đối với Nhật Bản, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
đã giúp Nhật Bản thành công trong lĩnh vực CNHT. Đối với Hàn Quốc thì chính
sách mở cửa và tự do hóa thị trường là điểm nổi bật trong thập kỷ 1990 (giai đoạn
khởi đầu phát triển CNHT của nước này), đồng thời tiến hành cải cách ngành công
nghiệp, với sự hỗ trợ các DNVVN. Đối với Đài Loan, nền kinh tế phát triển thành
công CNHT chủ yếu nhờ vào quy định về hàm lượng nội địa hóa sản phẩm. So với
các nền kinh tế trên, Việt Nam có trình độ phát triển thấp hơn rất nhiều nhưng có
nhiều điểm tương đồng. Do vậy, để phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội nói riêng, quá trình hội nhập quốc tế nói chung, phù hợp với
thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì việc tham khảo kinh nghiệm của Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là cần thiết, có ý nghĩa góp phần lựa chọn giải pháp
thiết thực để đáp ứng yêu cầu phát triển CNHT, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh
cho ngành công nghiệp Việt Nam xét trên cả tầm nhìn trung và dài hạn.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài“Phát triển công nghiệp
hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”
được đặt ra hết sức cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, là một trong
những hướng nghiên cứu cơ bản, quan trọng và chiến lược của khoa học xã hội
và nhân văn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu



2

Mục đích của luận án là phân tích, đánh giá quan điểm và giải pháp phát
triển CNHT của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nhằm rút ra bài học kinh
nghiệm để Việt Nam có thể tham khảo nhằm thúc đẩy phát triển ngành kinh tế này
trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án có nhiệm vụ:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến phát triển CNHT ở
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam.
Thứ hai, làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển CNHT (khái niệm, đặc
điểm, vai trò, tiêu chí đánh giá và các nhân tố tác động đến sự phát triển CNHT.
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm và thực tiễn phát triển CNHT ở Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan từ năm 1980 đến nay.
Thứ tư, rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong phát
triển CNHT.
Thứ năm, nêu hàm ý chính sách cho Việt Nam trong phát triển CNHT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý luận và thực tiễn nhằm phát triển
CNHT đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp, nội địa hóa sản phẩm và
tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu phát triển CNHT một cách tổng thể, trong
đó tập trung chủ yếu vào một số ngành cụ thể như: (ở Nhật Bản thì CNHT ngành ô
tô, điện tử, dệt may; ở Đài Loan thì CNHT ngành dệt may, chế tạo may, sản xuất
bán dẫn; ở Việt Nam thì CNHT ngành điện tử, dệt may).
- Phạm vi không gian: CNHT ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt
Nam.

- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu kinh nghiệm và thực tiễn ở Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan từ năm 1980 đến nay, ở Việt Nam từ khi có chủ trương phát
triển CNHT vào những năm 1990, nhất là từ sau Đại hội XI (tháng 01/2011) đến
nay. Nghiên cứu vận dụng kinh nghiệm các nước vào Việt Nam giai đoạn đến năm
2025, tầm nhìn đến năm 2035 (đáp ứng yêu cầu chiến lược ghi trong Quyết định số
879/QĐ-TTg ngày 9 tháng 6 năm 2014).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, đặc biệt là lý luận về phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất. Luận
án sử dụng một số lý thuyết và mô hình kinh tế học như liên kết kinh doanh
(business linkages), chuỗi giá trị (value chain), cụm liên kết doanh nghiệp công
nghiệp (industrial cluster) để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết
học Mác - Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương


3

pháp thu thập tài liệu, phương pháp hệ thống hóa lý luận, phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, mô hình, đồ thị và phương pháp chuyên gia.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án đã hệ thống hóa một cách toàn diện những vấn đề lý luận về phát
triển CNHT, đặc biệt làm rõ vai trò, tiêu chí và những nhân tố tác động đến việc
phát triển CNHT. Luận án đã phân tích và đánh giá thực tiễn phát triển CNHT của
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan; rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
về phát triển ngành CNHT trong bối cảnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về phát

triển CNHT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án cung cấp các luận cứ, cơ sở khoa học cho Việt Nam trong việc
hoạch định các chính sách cho phát triển CNHT; rút ra bài học kinh nghiệm phát
triển CNHT đã được thực hiện ở ba nước phát triển nhất Đông Á, bao gồm Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan để áp dụng vào Việt Nam. Thông qua việc nghiên
cứu, luận án đã gợi mở một số cách thức để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong
phát triển CNHT ở Việt Nam cho cả phía Nhà nước và doanh nghiệp, như thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nguồn nhân lực năng động, sáng tạo; tập trung
đầu tư vào các ngành CNHT mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh; đề xuất một số
kiến nghị cụ thể cho Nhà nước trong việc hỗ trợ cho các DNVVN theo kinh
nghiệm từ ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được kết cấu thành 4 chương.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến phát triển công
nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam
Chương 2. Những vấn đề lý luận về phát triển công nghệ hỗ trợ
Chương 3. Thực tiễn phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan
Chương 4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm thúc đẩy phát triển
công nghiệp hỗ trợ
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
Ở NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN VÀ VIỆT NAM
Có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở những khía
cạnh khác nhau. Nghiên cứu sinh đã tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài luận án này theo ba nhóm:
1.1. Những nghiên cứu lý luận về công nghiệp hỗ trợ và phát triển công

nghiệp hỗ trợ
1.2. Những nghiên cứu về thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ


4

1.3. Những nghiên cứu về kiến nghị, giải pháp phát triển công nghiệp hỗ
trợ
1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Kết quả của tổng quan tài liệu đã cho thấy, các nghiên cứu về phát triển
công nghiệp hỗ trợ đã cung cấp cho nghiên cứu sinh một cái nhìn toàn diện và đa
chiều về phát triển công nghiệp hỗ trợ của một số nước trên thế giới và Việt Nam.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh kế thừa những kết quả đã có, lựa chọn những vấn
đề nghiên cứu còn bỏ ngỏ làm nhiệm vụ nghiên cứu cho luận án của mình. Thông
qua tổng quan tài liệu, nghiên cứu sinh đã thể hiện rất rõ cơ sở lý thuyết, phương
pháp nghiên cứu làm kim chỉ nam trong việc thực hiện luận án.
Đánh giá tổng quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án cho
thấy: Ở Việt Nam hiện nay chưa có công trình khoa học nào ở cấp độ tiến sĩ nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về phát triển công nghiệp hỗ trợ ở
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Vì vậy, đây
chính là nội dung mà luận án sẽ tập trung xem xét, luận giải và làm sáng tỏ trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
2.1. Công nghiệp hỗ trợ và phát triển công nghiệp hỗ trợ
2.1.1. Công nghiệp hỗ trợ
2.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ
Theo tác giả, công nghiệp hỗ trợ được hiểu là “một ngành kinh tế kỹ thuật,
bao gồm các ngành sản xuất sản phẩm trung gian, cung cấp linh, phụ kiện máy

móc, thiết bị, nguyên vật liệu đã qua chế biến và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất theo
các quy trình nhất định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng”.
2.1.1.2. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ
CNHT có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển nền kinh tế nói chung
và phát triển ngành công nghiệp nói riêng. Vai trò của phát triển CNHT được thể
hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, CNHT là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công
nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và của cả nền kinh tế.
Thứ hai, CNHT đẩy mạnh quá trình chuyên môn hóa và ứng dụng công
nghệ hiện đại trong sản xuất.
Thứ ba, CNHT chính là cơ sở để thực hiện hội nhập công nghiệp toàn cầu.
Thứ tư, CNHT góp phần hạn chế nhập siêu, giúp phát triển ngành công
nghiệp nội địa.
Thứ năm, CNHT phát triển có hiệu quả tạo điều kiện thu hút được FDI và
tạo tăng trưởng bền vững.
Thứ sáu, CNHT phát triển tạo công ăn việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu lao động, khuyến khích ứng dụng, sử dụng khoa học công nghệ cao, lực lượng
lao động có cơ hội được tiếp xúc, học hỏi, nâng cao tay nghề.


5

Thứ bảy, CNHT góp phần quan trọng trong sự ổn định kinh tế, xã hội, đẩy
mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Thứ tám, CNHT phát triển tạo tiền đề cho phát triển bền vững.
2.1.2. Phát triển công nghiệp hỗ trợ
2.1.2.1. Khái niệm phát triển công nghiệp hỗ trợ
Phát triển CNHT là sự gia tăng về quy mô, số lượng và chất lượng đóng góp
của công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung
gắn với việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng tiến bộ, hợp lý.

2.1.2.2. Đặc điểm phát triển công nghiệp hỗ trợ
Thứ nhất, về tính liên kết hệ thống.
CNHT mang tính liên kết hệ thống theo quy trình sản xuất và tạo nên chuỗi
giá trị. Trong sản xuất công nghiệp, sản phẩm đầu ra, quá trình sản xuất của ngành
này lại là sản phẩm hỗ trợ hay sản phẩm đầu vào, quá trình sản xuất cho ngành
khác. Một sản phẩm hoàn chỉnh sau khi trải qua sự đan xen, tác động lẫn nhau, và
có thể được sản xuất ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trên nhiều địa bàn, khu vực, địa
lý khác nhau. Do các sản phẩm của CNHT nằm ở các vị trí khác nhau trong chuỗi
giá trị sản xuất ra sản phẩm cuối cùng nên vị trí các nhà cung cấp cũng được phân
loại theo cấp độ, hệ thống; tính đa cấp của CNHT kéo theo sự phân chia khá rõ
ràng trong các thành phần tham gia CNHT và xuất hiện nhà cung cấp lớp I, lớp II,
lớp III..., trên cùng là nhà lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Nhà lắp ráp có thể có nhiều
đối tượng hợp tác chuyên sản xuất cung ứng các sản phẩm hỗ trợ, dẫn đến các nhà
cung cấp ở các cấp hay vị trí khác nhau sẽ có đặc điểm, vai trò, quy mô vốn, công
nghệ và tính chất hỗ trợ khác nhau.
Thứ hai, về công nghệ.
Để có một sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh trước khi đưa ra thị trường, trong
quá trình sản xuất luôn đòi hỏi sự đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ.
Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển mạnh, đòi hỏi chất lượng sản phẩm
của các doanh nghiệp hỗ trợ sẽ ngày càng khắt khe hơn.
Thứ ba, về nguồn nhân lực.
CNHT là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao. Lao động trong
ngành CNHT phần lớn là các nhà vận hành máy móc, những kiểm soát viên về
chất lượng sản phẩm, các kỹ thuật viên và các kỹ sư có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, được đào tạo theo tiểu chuẩn, trình độ lành nghề, chuyên môn sâu.
Ngành CNHT ở các nước đang phát triển có xu hướng kém tính cạnh tranh hơn do
không có khả năng tài chính và lao động trình độ cao để tận dụng và vận hành tốt
các thiết bị. Các chuyên gia Nhật Bản cho biết, nếu đơn thuần dựa vào máy móc
dây chuyền thì không tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì các quốc gia đều có thể
sở hữu chúng.

Thứ tư, về đối tượng tham gia.
Với đặc thù sản xuất ra các linh phụ kiện phục vụ nhiều ngành công nghiệp
lắp ráp dựa trên cơ sở phân công lao động, đã thu hút số lượng lớn doanh nghiệp
với quy mô khác nhau tham gia; trong đó doanh nghiệp lớn thuộc nhóm đối tượng
lớp I, các lớp khác chủ yếu là DNNVV. Do tính chất đa cấp và phát triển theo hình
tháp, việc đòi hỏi số lượng doanh nghiệp ở cấp thấp rất lớn, đa phần doanh nghiệp


6

ở cấp này là DNNVV. Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng và là tiền đề cho các
doanh nghiệp nội địa tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế nói chung,
hệ thống sản xuất của các công ty đa quốc gia nói riêng để tiếp nhận công nghệ,
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đem lại giá trị gia tăng cao. Phát triển
CNHT không chỉ là phương thức tối ưu thu hút đầu tư nước ngoài mà còn là cơ sở
tạo lập nền công nghiệp trong nước phát triển bền vững với một hệ thống các
doanh nghiệp tham gia.
2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của công nghiệp hỗ trợ
2.2.1. Số lượng và quy mô doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ
trợ
Số lượng doanh nghiệp CNHT cùng mối quan hệ giữa các doanh nghiệp này
với số lượng doanh nghiệp công nghiệp lắp ráp cho thấy sự phát triển của CNHT.
Số lượng doanh nghiệp CNHT cao thể hiện sự tham gia của các doanh nghiệp vào
lĩnh vực này cao, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp
chính phát triển. CNHT phát triển khi tỷ lệ doanh nghiệp CNHT trên số doanh
nghiệp lắp ráp ngày càng gia tăng. Mức độ phát triển của CNHT được thể hiện ở
ba yếu tố cơ bản: số lao động trung bình, số vốn trung bình, doanh thu trung bình
của doanh nghiệp CNHT.
2.2.2. Thị phần và mức độ nội địa hóa sản phẩm
Trong xu thế toàn cầu hóa, mỗi doanh nghiệp, quốc gia không tự mình sản

xuất mọi loại sản phẩm, linh kiện song nếu tỷ lệ nhập khẩu cao, đồng nghĩa với sự
yếu kém của lĩnh vực CNHT. Ba hình thức của nội địa hoá: (i) Sản xuất nội bộ của
các công ty lắp ráp; (ii) Thu mua từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) tại nước sở tại; (iii) Thu mua từ các doanh nghiệp nội địa. Nếu chỉ tiêu
(i) cao thể hiện doanh nghiệp lắp ráp có năng lực sản xuất, nhưng nếu quá cao,
nghĩa là ít doanh nghiệp ở các lớp cung ứng, hàm ý về sự thiếu chuyên môn hóa ở
mức độ cao của doanh nghiệp. Chỉ tiêu (ii) cao lại thể hiện sự phụ thuộc vào FDI
của lĩnh vực CNHT, chỉ khi có sự tác động giữa (ii) và (iii) tiến tới nâng cao năng
lực của các doanh nghiệp trong nước, giảm tỷ trọng mua từ doanh nghiệp FDI và
tăng tỷ trọng mua của các doanh nghiệp trong nước, thì lĩnh vực CNHT được coi là
phát triển.
2.2.3. Tốc độ tăng trưởng và giá trị gia tăng sản phẩm công nghiệp hỗ
trợ
Mỗi sản phẩm có thể chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn gồm các
công đoạn nghiên cứu - triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận linh kiện chính;
trung nguồn là công đoạn lắp ráp, gia công; hạ nguồn là thương hiệu, tiếp thị, xây
dựng mạng lưới lưu thông, khai thác và tiếp cận thị trường. Các giai đoạn thượng
nguồn và các hạ nguồn là khu vực tạo ra giá trị gia tăng cao. Đây chính là công
đoạn của các ngành CNHT. Trong khi trung nguồn với các hoạt động lắp ráp, gia
công là khu vực ít tạo ra giá trị gia tăng nhất. Như vậy, một quốc gia có thể tạo ra
giá trị gia tăng của các sản phẩm công nghiệp khi khu vực thượng nguồn với
nguyên phụ liệu, cụm linh kiện được cung ứng ngay trong nội địa. Phát triển
CNHT, vì vậy, góp phần hiệu quả trong việc khai thác các nguồn lực trong nước,


7

giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu, hạn chế xuất khẩu tài nguyên và các sản phẩm
chế biến thô.
2.2.4. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ

Hiện nay, thông tin, kiến thức, khối lượng nhân viên có kỹ năng, chuyên
môn, nền văn hoá công nghiệp mới là nguồn lực thực sự đem lại sức cạnh tranh.
Do đó, một trong những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của CNHT là xem xét
năng lực cạnh tranh của sản phẩm CNHT, nghĩa là sản lượng, doanh thu, chất
lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu,
quảng cáo, điều kiện mua bán, khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối
thủ cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị phần của sản phẩm hỗ trợ đó trên thị
trường để tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững cho doanh nghiệp sản xuất ra
sản phẩm đó. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh, áp dụng thành tựu KH - CN
trong ngành CNHT có tính chất dẫn dắt sự phát triển khu vực hạ nguồn, góp phần
thay đổi căn bản trong thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn.
2.2.5. Chất lượng và giá cả sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi ngày càng cao về tiêu chuẩn chất lượng; đưa chất
lượng sản phẩm vào nội dung quản lý. Sản phẩm CNHT có vai trò quan trọng
trong chất lượng của mỗi sản phẩm, nó quyết định giá thành sản phẩm và nâng cao
sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Sự chênh lệch về tiêu chuẩn chất lượng sản
phẩm giữa nhà cung cấp nội địa và các doanh nghiệp lắp ráp cũng là một nhân tố
ảnh hưởng tới sự phát triển của CNHT.
2.2.6. Trình độ nguồn nhân lực
CNHT là khu vực chuyển giao và tiếp nhận nhanh công nghệ mới, đòi hỏi
trình độ người lao động phải biến đổi theo cho phù hợp; mặt khác, CNHT cũng là
khu vực thúc đẩy người lao động có tính sáng tạo trong sản xuất, thành thạo nghề
nghiệp, cạnh tranh, chen chân vào chuỗi cung ứng cho các nhà lắp ráp. Vì vậy, khi
phân tích sự phát triển toàn diện và bền vững của CNHT, cần phân tích tỷ lệ lao
động trình độ cao trong doanh nghiệp, chỉ số về trình độ được đào tạo, khả năng
quản lý, sử dụng máy móc, thiết bị kỹ thuật; khả năng sử dụng công nghệ vào sản
xuất sản phẩm hỗ trợ và kỹ năng lao động. Đây là những tiêu chí cơ bản đánh giá
tiềm năng và lợi thế trong phát triển CNHT nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và
chiếm lĩnh thị phần của sản phẩm CNHT. CNHT là một ngành công nghiệp sử

dụng nhiều lao động tay nghề cao, sản phẩm của các nhà máy CNHT là những sản
phẩm mang tính đặc thù cao, theo quy chuẩn và yêu cầu thiết kế khắt khe của đơn
vị đặt hàng.
2.3. Các nhân tố tác động đến phát triển công nghiệp hỗ trợ
2.3.1. Môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách của Nhà nước
Môi trường kinh tế vĩ mô của một quốc gia (tốc độ tăng trưởng, sự ổn định của
nền kinh tế, giá cả, tiền tệ, lạm phát, tỷ giá hối đoái..), tác động rất lớn đến hoạt động của
ngành công nghiệp nói chung và ngành CNHT nói riêng. Nó ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp, nhất là doanh nghiệp CNHT.


8

2.3.2. Các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập
đoàn đa quốc gia
Quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và các ngành sản xuất công nghiệp không thể
chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia, mà cần được thực hiện trong phạm vi khu
vực và toàn cầu. Xu hướng liên kết, hợp tác trong sản xuất cũng như phân công lao
động quốc tế đang trở thành xu thế chủ đạo trên thế giới. Với nguồn lực to lớn về
tài chính, các tập đoàn đa quốc gia có mạng lưới sản xuất và phân phối rộng với
chiến lược phát triển thống nhất. Các bộ phận trong mạng lưới được chuyên môn
hoá hợp lý, khai thác lợi thế ở mỗi quốc gia và mỗi khu vực, với những chi nhánh
chuyên sản xuất một số loại chi tiết, bộ phận nhất định cung cấp cho các chi nhánh
khác ở phạm vi khu vực, thậm chí toàn cầu.
2.3.3. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc phát triển CNHT một
cách bài bản, góp phần thúc kinh tế phát triển là vấn đề tiên quyết đối với các quốc
gia. Đây là một xu thế tất yếu của thế giới, bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc
tế tạo ra cho các nước. Các doanh nghiệp khi sản xuất các linh kiện, phụ tùng
không chỉ dựa vào nhu cầu của những nhà lắp ráp nội địa, mà cần chủ động, nắm

bắt nhu cầu của các công ty lắp ráp nước ngoài, tham gia vào mạng lưới sản xuất
của các công ty đó.
2.3.4. Các ngành công nghiệp cơ bản và khu vực hạ nguồn
Khi phát triển CNHT, các ngành công nghiệp cơ bản của quốc gia cần được
phát triển theo hướng bền vững. Một quốc gia, có các ngành công nghiệp cơ bản,
có tiềm năng phát triển công nghệ như dập, rèn, gia công chính xác, cơ khí chế tạo
máy, thiết bị điện tử, cơ điện tử... sẽ cung ứng được linh kiện, phụ tùng, nguyên vật
liệu tại chỗ, đáp ứng được yêu cầu sản xuất trong nước, thu hút đầu tư của các nhà
chế tạo và các quốc gia công nghiệp. Đồng thời, thúc đẩy các ngành khác phát
triển, đặc biệt là các ngành CNHT phát triển về quy mô, công nghệ, chất lượng sản
phẩm, giảm nhập siêu... phục vụ nhu cầu CNH, HĐH đất nước.
2.3.5. Dung lượng thị trường
Thị trường là nơi gặp gỡ của tổng cung và tổng cầu. Nó gắn liền với sản
xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất thì ở đó có thị trường. Để tham gia vào thị
trường, ngành CNHT đòi hỏi phải có một lượng đặt hàng tối thiểu tương đối lớn; vì
vậy, dung lượng thị trường lớn đóng vai trò quan trọng đối với CNHT và là lý do
để các nhà sản xuất linh phụ kiện cần được đảm bảo trước khi quyết định đầu tư.
Khi dung lượng thị trường còn nhỏ, việc áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi
trực tiếp cho các doanh nghiệp ngành CNHT khó thực hiện được. Trong trường
hợp dung lượng thị trường trong nước hạn hẹp, nhưng lại có thể tìm kiếm được thị
trường xuất khẩu, thì CNHT vẫn có thể phát triển.
2.3.6. Tiến bộ khoa học công nghệ và năng lực nội địa hóa
Kỹ thuật - công nghệ, là nhân tố ảnh hưởng mạnh, trực tiếp đến doanh
nghiệp. Các yếu tố kỹ thuật, công nghệ thường biểu hiện qua các phương pháp sản
xuất mới, kỹ thuật mới, vật liệu mới, thiết bị, dây chuyền, công nghệ sản xuất, các
bí quyết, các phát minh, phần mềm ứng dụng... Khi công nghệ phát triển, các
doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu của công nghệ để tạo ra sản


9


phẩm có chất lượng cao hơn nhằm phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh
tranh. Việc áp dụng thành tựu mới của KH - CN trong các ngành hỗ trợ, ảnh hưởng
có tính chất “dẫn dắt” phát triển sản xuất công nghiệp, nhờ tạo ra những chi tiết, bộ
phận hoặc vật liệu mới góp phần tạo ra sự thay đổi căn bản trong thiết kế và chế
tạo sản phẩm.
2.3.7. Nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực
Nguồn lực tài chính là nhân tố không thể thiếu khi mở rộng và phát triển bất
cứ ngành công nghiệp nào, nhất là đối với ngành CNHT. Khi tiềm lực tài chính eo
hẹp, sẽ hạn chế ngành CNHT phát triển; các doanh nghiệp không đầu tư mở rộng
sản xuất hay đào tạo nguồn nhân lực... Các yếu tố này rất cần thiết cho phát triển
CNHT.
2.3.8. Cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin
Thông tin có những ảnh hưởng nhất định đến phát triển CNHT. Khi có một
hệ thống thống kê công nghiệp tốt, một cơ sở dữ liệu đầy đủ, cơ chế công bố và
chia sẻ thông tin hiệu quả sẽ giúp cho các ngành CNHT phát huy được tác dụng.
Thông tin giúp doanh nghiệp hỗ trợ biết các nhà lắp ráp đang có nhu cầu gì, số
lượng, chất lượng sản phẩm như thế nào và các doanh nghiệp lắp ráp biết được
doanh nghiệp cung cấp có thể hợp tác ở đâu. Giúp cho các doanh nghiệp ngành
CNHT, nắm được tổng quan tình hình phát triển của CNHT, các chính sách ưu đãi,
khuyến khích đầu tư, định hướng phát triển của Chính phủ; các thông tin về doanh
nghiệp CNHT đang hoạt động.
Chương 3
THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
Ở NHẬT BẢN, HÀN QUỐC VÀ ĐÀI LOAN
3.1. Thực tiễn phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản
3.1.1. Bối cảnh phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản
Sau chiến tranh thế giới thứ hai mang theo những tổn thất nặng nề về cả con
người và kinh tế, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra những chính sách đúng đắn, toàn
diện giúp đất nước Nhật Bản thoát khỏi những di chứng từ cơn đau chiến tranh và

vươn trở thành một cường quốc công nghiệp hàng đầu thế giới. Người ta vẫn
thường gọi, nó là một vòng khôi phục kỳ diệu của Nhật Bản. Sự hình thành và phát
triển của công nghiệp hỗ trợ Nhật Bản cùng với quá trình công nghiệp hóa và biến
đổi theo thời gian. Ban đầu người ta không dùng khái niệm “công nghiệp hỗ trợ”
mà sử dụng khái niệm “thầu phụ” để thay thế. Khái niệm thầu phụ để chỉ các
doanh nghiệp, các nhà cung cấp nhỏ hơn, hoạt động theo các hợp đồng nhỏ để giúp
hoàn thành các sản phẩm của các công ty lớn.
3.1.2. Quan điểm, mục tiêu phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản
Mục tiêu của chính sách công nghiệp trong thời kỳ này gồm hai phần: thay
thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Các ngành như sợi tổng hợp, hóa dầu,
máy móc, phụ tùng, điện tử được xác định là các khu vực ưu tiên và được hưởng
các ưu đãi của Chính phủ về miễn giảm thuế kinh doanh về thuế xuất khẩu, cho
vay lãi suất thấp, cho phép nhập khẩu công nghệ nước ngoài, và miễn phải chịu


10

luật chống độc quyền. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng chủ ý thay đổi về
thể chế để khuyến khích xuất khẩu.
Mục tiêu chính sách công nghiệp những năm 60 thế kỷ XX được bổ sung
thêm nội dung bảo vệ các ngành công nghiệp trước những tác động của tự do hoá.
Nếu như việc bảo vệ các ngành công nghiệp này vẫn sử dụng những công cụ chính
sách như thời kỳ trước đây thì sẽ không có sự chuyển hướng của chính sách công
nghiệp. Thay vào đó, các công cụ chính sách theo chiều ngang được thực hiện để
tăng cường sức cạnh tranh cho công nghiệp Nhật Bản. Mục tiêu nâng cao sức cạnh
tranh của công nghiệp Nhật Bản được thông qua việc Chính phủ khuyến khích việc
phối hợp giữa các ngành công nghiệp, tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa
khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước.
3.1.3. Nội dung chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản
3.1.3.1. Chính sách cho giai đoạn phục hồi sau chiến tranh

3.1.3.2. Chính sách cho giai đoạn thiết lập
3.1.3.3. Chính sách cho giai đoạn tăng trưởng cao (1961 đến năm 1972)
3.1.3.4. Chính sách phát triển công nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng dầu
(1973 đến 1982)
3.1.3.5. Chính sách trong giai đoạn mất cân bằng thương mại (1983
đến2000)
3.1.3.6. Các chính sách phát triển của Nhật Bản sau năm 2000
3.1.4. Đánh giá chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản
Thứ nhất, nhìn nhận về chính sách phát triển công nghiệp của Nhật Bản có
thể thấy, Chính phủ nước này luôn luôn đưa ra những chính sách bám sát với từng
giai đoạn, từng điều kiện hoàn cảnh của ngành kinh tế để làm sao ngành công
nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi nhất để phát triển, đồng thời đẩy lùi những khó
khăn, thách thức trong từng giai đoạn phát triển. Về ưu điểm, nền công nghiệp nói
chung và công nghiệp hỗ trợ nói riêng của Nhật Bản phát triển toàn diện trong điều
kiện phát triển khoa học công nghệ, kỹ thuật và đẩy mạnh những nghiên cứu, phát
triển.
Thứ hai, Nhật Bản cũng cũng chú trọng thực hiện các chính sách hỗ trợ để
bảo vệ và giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ yên tâm hoạt động, bảo vệ các
doanh nghiệp khỏi những tác động của nền kinh tế thế giới và những biến động của
thị trường. Các chính sách ưu đãi về thuế, sáp nhập doanh nghiệp, hỗ trợ vay vốn
thành lập quỹ bảo vệ và hỗ trợ hoạt động cho doanh nghiệp đã được đề cập ở mục
3.1.3.2.
Thứ ba, Nhật Bản thực hiện chính sách phát triển các ngành công nghiệp
mũi nhọn của quốc gia mình nhằm tăng cường lợi thế cạnh tranh quốc gia. Trong
đó các ngành công nghiệp được chú trọng là: ô tô, điện tử, hàng may mặc, hóa
chất,.. Cùng với đó, hội nhập, mở cửa là những yếu tố không thể thiếu trong phát
triển công nghiệp nhằm mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh.
Quá trình phát triển của Nhật Bản trong tất cả các lĩnh không thể thiếu vai
trò đóng góp vô cùng lớn của nguồn nhân lực tri thức cao của nước này. Chính phủ
đầu tư cho hệ thống giáo dục về cơ sở vật chất, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề,

chuẩn bị một lực lượng lao động có tay nghề vững chắc, sẵn sàng làm việc. Các


11

trường dạy nghề tư nhân chiếm tỷ lệ 80%-90% trong tổng số trường dạy nghề trên
cả nước, trong đó ngành công nghệ thông tin chiếm đa số. Ở các thành phố lớn có
các trung tâm đào tạo công nghệ thông tin và kỹ thuật hoạt động độc lập. Các trung
tâm này có chức năng đào tạo giáo viên giảng dạy, hoàn thiện tài liệu giảng dạy và
nghiên cứu phương pháp giảng dạy.
Những thành tựu và những chính sách của Nhật Bản dù thành công hay thất
bại cũng là những bài học quý giá cho Việt Nam trên con đường phát triển công
nghiệp.
3.2. Thực tiễn phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Hàn Quốc
3.2.1. Bối cảnh phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Hàn Quốc
Lịch sử của Hàn Quốc có khá nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Trước
những năm 1945, Hàn Quốc cũng là một nước thuộc địa, sau đó cũng phải trải qua
chiến tranh Nam - Bắc Hàn. Nhờ sự viện trợ của Mỹ, nước đồng minh của Hàn mà
nền kinh tế nước nước này đã được vực dậy nhanh chóng. Chỉ trong vòng vài thập
kỷ, Hàn quốc nổi lên là một trong những con rồng của châu Á, như một điều kì
diệu, người ta gọi đó là “kỳ tích sông Hàn”.
Là nền kinh tế lớn, đứng thứ 13 trên thế giới, Hàn Quốc nổi lên là một quốc
gia thành công nhất theo nhiều góc độ. Tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc được
duy trì bởi các ngành công nghiệp chủ chốt vốn đã được thừa nhận trên phạm vi
toàn cầu. Sản xuất công nghiệp có vai trò quan trọng, đóng góp tỷ lệ đứng thứ hai
trong cơ cấu GDP của Hàn Quốc, trung bình khoảng 40% mỗi năm. Các ngành
công nghiệp của Hàn Quốc bao gồm: ngành dệt và thép; đóng tàu; sản xuất ô tô và
điện tử, đặc biệt là chất bán dẫn. Hàn Quốc là quốc gia đóng tàu lớn nhất thế giới;
hơn nữa, Hàn Quốc còn đứng đầu về chất bán dẫn và màn hình hiển thị. Ngoài ra,
Hàn Quốc đứng thứ hai trên thế giới về điện thoại di động và thứ năm về thép.

Trong phần khái quát về tình hình phát triển công nghiệp hỗ trợ của Hàn Quốc, tác
giả tìm hiểu một số ngành tiêu biểu trong công nghiệp hỗ trợ của Hàn Quốc bao
gồm: Ngành đóng tàu, ngành công nghiệp đei, ngành công nghiệp ô tô.
3.2.2. Quan điểm, mục tiêu phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Hàn Quốc
Những thành tựu rực rỡ mà nền công nghiệp hỗ trợ Hàn Quốc có được là
nhờ những quan điểm, mục tiêu phát triển đúng đắn, rõ ràng, mở cơ hội cho các
doanh nghiệp sản xuất nhỏ ở các nước này. Nhìn lại thì định hướng chính sách
công nghiệp của Hàn Quốc thay đổi đáng kể trong mỗi thập kỷ hoặc hơn, giúp đưa
nền kinh tế hướng tới một tương lai sáng sủa và thịnh vượng hơn. Kể từ những
năm 1960, Hàn Quốc bắt đầu thúc đẩy xuất khẩu bằng cách ban hành những đạo
luật và quy định có liên quan, xây dựng kế hoạch phát triển định hướng xuất khẩu.
Trong thập niên 1970, công nghiệp hóa chất nặng là trọng tâm của chính sách công
nghiệp quốc gia. Trong những năm 1980, diễn ra quá trình tái cấu trúc nền công
nghiệp. Việc tái cấu trúc này nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mở cửa
và tự do hóa thị trường là điểm nổi bật trong thập kỷ 1990. Khi cuộc khủng hoảng
tài chính châu Á xảy ra năm 1997, Hàn Quốc quyết định thực hiện những cải tổ táo
bạo nhằm phục hồi nhanh chóng. Các doanh nghiệp Hàn Quốc đi đầu trong việc
tăng cường tính minh bạch và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, trong khi các chính sách


12

khuyến khích kinh doanh bắt đầu được thực thi. Kể từ năm 2000, cải cách chiếm vị
trí hàng đầu trong Chương trình Nghị sự Quốc gia.
Để lồng ghép nhiều cải cách vào ngành công nghiệp hơn nữa, Hàn Quốc đẩy
mạnh thực hiện các chính sách thân thiện với doanh nghiệp, cũng như thúc đẩy hợp
tác giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hàn Quốc đặc biệt nhấn
mạnh vào việc khơi gợi những động lực tăng trưởng và nâng cấp cấu trúc nền công
nghiệp. Để làm được điều đó, Hàn Quốc đặt mục tiêu phát triển hơn nữa ngành sản
xuất linh kiện và vật liệu, và ngành dịch vụ tri thức.

Hàn Quốc đã có những bước đi hết sức thận trọng, đặt mục tiêu cụ thể cho
từng giai đoạn với những chính sách thay đổi cho phù hợp với tình trạng thực tế.
Tuy nhiên, dù trong bất cứ giai đoạn nào thì Hàn Quốc luôn coi nguyên liệu và linh
kiện là nền tảng quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp.
3.2.3. Nội dung chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Hàn Quốc
3.2.3.1. Chính sách đầu tư phát triển, hỗ trợ tài chính
3.2.3.2. Chính sách phát triển khoa học công nghệ
3.2.3.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
3.2.4. Đánh giá chính sách phát triển công nghiệp ở Hàn Quốc
Khi nhận định về công nghiệp hỗ trợ của Hàn Quốc, người ta có thể nhận
thấy có một số ưu điểm nổi bật.
Trước hết, đó là một nền công nghiệp được xây dựng một cách đồng bộ
vàhoạt động hiệu quả: Ngay trong quá trình công nghiệp hóa Hàn Quốc đã thấy
được vai trò và tầm quan trọng của công nghiệp hỗ trợ đối với sự phát triển của
công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, từ đó Hàn Quốc đã có những
đường lối, chủ trưưng, chính sách về pháp luật, những hỗ trợ về tài chính, đầu tư,
kỹ thuật đúng đắn, nhất quán và linh hoạt cho mảng công nghiệp này từ đó tạo
dựng và phát triển một nền công nghiệp hỗ trợ vững chắc tạo đà cho phát triển các
ngành công nghiệp chính.
Thứ hai, CNHT của Hàn Quốc là một nền CNHT trên công nghệ khoa học,
kỹ thuật tiên tiến và hiện đại: Hoạt động nghiên cứu và triển khai trong công
nghiệp hỗ trợ của Hàn Quốc là một hoạt động thường xuyên, liên tục. Nó đã trở
thành một phần gắn bó không thể tách rời khỏi hoạt động của các doanh nghiệp hỗ
trợ. Nhờ biết quan tâm đầu tư đúng cho hoạt động nghiên cứu và phát triển này,
Hàn Quốc đã trở thành một trong những nước luôn tiên phong đi đầu, và có nhiều
thành tựu trong hoạt động nghiên cứu phát triển. Các doanh nghiệp hỗ trợ Hàn
Quốc sản xuất sản phẩm trên những dây chuyền tiên tiến, sản xuất ra các sản phẩm
có yêu cầu về độ chính xác cao và tinh tế phục vụ được những nhu cầu chuyên
biệt, cá biệt hóa sản phẩm, nâng cao giá trị thị trường của sản phẩm.
Thứ ba, yếu tố con người được quan tâm, coi trọng. Con người ở đây được

hiểu là gồm cả những người quản lý và đội ngũ nhân công. Chất lượng nguồn nhân
lực luôn là vấn đề được các doanh nghiệp hỗ trợ Hàn Quốc đề cao vì nó là một
trong các yếu tố quan trọng cấu thành nên giá trị sản phẩm và là nhân tố quan trọng
quyết định tới quá trình đổi mới không ngừng các sản phẩm hỗ trợ cũng như công
nghệ, dây truyền sản xuất nên các sản phẩm này.
3.3. Thực tiễn phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Đài Loan


13

3.3.1. Bối cảnh phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Đài Loan
Đài Loan được thế giới biết đến bởi sự phát triển kinh tế vượt bậc vào cuối
thế kỷ XX với danh tiếng “Con rồng nhỏ của Châu Á”. Những thành tựu kinh tế
tuyệt vời này chắc chắn phải có những nền tảng lịch sử của nó. Đảng cầm quyền
Quốc dân đảng (KMT) với chế độ độc tài của mình từ năm 1945 đã tái tổ chức xã
hội một cách toàn diện. Chính sách kinh tế trong những năm 1950 là thay thế nhập
khẩu, nhưng kể từ những năm 1960 chính sách này đã thay đổi thành thúc đẩy xuất
khẩu.
Đài Loan thường được xem là một thần kỳ kinh tế bởi sự tăng trưởng nhanh
chóng của nó trong suốt những thập niên cuối của thế kỷ XX. Thực vậy, những con
số đạt được quả là ấn tượng. Chẳng hạn, tổng sản phẩm quốc dân hàng năm tăng
trung bình 8,7% từ năm 1953 đến năm 1982. Trong suốt giai đoạn đỉnh cao từ năm
1963 đến năm 1972, GNP của Đài Loan tăng trung bình 10,8%/năm. Thường
xuyên có thặng dư thương mại từ năm 1970 và dự trữ ngoại hối đạt tới 7 tỷ USD
vào năm 1980, 15,7 tỷ USD vào cuối tháng 8 năm 1984, gần 76 tỷ USD năm 1988
và 72 tỷ USD tháng 2 năm 1991.
Những ngành công nghiệp được khuyến khích phát triển trong thập niên
1950 và 1960 là những ngành sản xuất chế tạo sử dụng nhiều lao động do lực
lượng lao động giá rẻ sẵn có. Chiến lược này đã dần thay đổi bởi lệnh cấm vận dầu
mỏ đầu thập niên 1970, khiến Đài Loan lâm vào khủng hoảng kinh tế, không chỉ

bởi Đài Loan nhập khẩu hầu hết năng lượng cho nhu cầu nội địa, mà còn bởi kinh
tế Đài Loan phụ thuộc nặng nề vào thương mại quốc tế. Chính phủ đã cố gắng đầu
tư vào các ngành công nghiệp nặng và cơ sở hạ tầng nhằm khôi phục lại nền kinh
tế vào thập kỷ 1970. Những ví dụ nổi tiếng đó là “Mười dự án phát triển trọng
điểm”. Trong số dự án này, có 6 dự án dành cho khu vực giao thông vận tải, 3 dự
án dành cho phát triển ngành công nghiệp nặng và hoá dầu, một dự án là nhà máy
điện hạt nhân để phát triển các nguồn cung cấp năng lượng mới. Kèm theo các biện
pháp tài chính và tiền tệ thận trọng, chính phủ cũng đã thành công trong việc cản
trở tác động của cú sốc kinh tế từ bên ngoài do khối OPEC gây ra. Kết quả là, Đài
Loan đã chứng kiến một chu kỳ tăng trưởng cực kỳ nhanh nữa vào cuối thập niên
1970.
Hiện nay, Đài Loan đã trở thành một trung tâm sản xuất đẳng cấp thế giới và
có thị phần dẫn đầu thế giới trong nhiều sản phẩm.
3.3.2. Quan điểm, mục tiêu phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Đài Loan
Trong kế hoạch phát triển công nghiệp của Đài Loan, MOEA lấy nền tảng là
khái niệm “liên kết với tương lai, liên kết với nền kinh tế toàn cầu, và liên kết với
các cộng đồng địa phương” và tập trung vào việc thúc đẩy sự phát triển của năm
hướng đổi mới ngành công nghiệp công nghệ sinh học và dược phẩm, năng lượng
xanh và bảo vệ quốc gia - ngoài các vật liệu mới và “nền kinh tế tròn”, nhằm mục
đích hỗ trợ chuyển đổi và nâng cấp công nghiệp toàn diện.
Chính phủ sẽ làm việc để giúp xây dựng Đài Loan thành một địa điểm lý
tưởng để đổi mới công nghệ và khởi sự doanh nghiệp mới, nhằm mục đích để nhận
ra tầm nhìn Đài Loan trở thành “một quốc đảo công nghệ số, một đảo thông minh”.
Kế hoạch đang được tiến hành để sử dụng Internet of Things (I0T), điện toán đám


14

mây, dữ liệu lớn và các công nghệ chủ chốt khác để thúc đẩy sự phát triển của
“Thung lũng Silicon châu Á”.

Đài Loan sẽ xây dựng mối liên kết với các nhà cung cấp vốn liên doanh quốc
tế và sẽ tìm cách thu hút các doanh nghiệp mới thành lập ở Đài Loan; khuyến khích
sẽ được cung cấp cho ngành công nghiệp chéo, khởi nghiệp kinh doanh thế hệ tiếp
theo.
Chính phủ sẽ thúc đẩy sự phát triển của các vật liệu “xanh” sáng tạo sẽ đóng
vai trò là tài liệu chính cho các ngành công nghiệp sáng tạo mới; khái niệm về “nền
kinh tế tròn” sẽ được lồng ghép vào sự phát triển của các ngành công nghiệp mới
này, phù hợp với các mục tiêu của việc thực hiện phát triển công nghiệp bền vững
và tái chế các nguồn năng lượng, để đạt được tình huống “cả hai bên cùng có lợi”
cho cả bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế.
Ở Đài Loan, các ngành sản xuất là những động lực chính đằng sau sự phát
triển kinh tế của nền kinh tế này. Trong hơn 50 năm qua, chính quyền và khu vực
tư nhân ở Đài Loan đã cùng nhau hợp tác để tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh
công nghiệp và đạt được tăng trưởng kinh tế ổn định. Kết quả của nỗ lực này là Đài
Loan đã trở thành trung tâm toàn cầu của các sản phẩm màn hình phẳng, hay được
ví như là một cỗ máy sản xuất nhiều sản phẩm công nghệ cao. Sau nhiều năm thúc
đẩy quốc tế hóa và tự do hóa, thì cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, nguồn nhân lực,
năng lực công nghệ và hệ thống thuế của Đài Loan ngang tầm với các nước công
nghiệp lớn.
3.3.3. Nội dung chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Đài Loan
3.3.3.1. Chính sách hỗ trợ tài chính và phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ
3.3.3.2. Chính sách thu hút nguồn vốn nước ngoài
3.3.3.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
3.3.3.4. Chính sách phát triển khoa học và công nghệ
3.3.3.5. Quy định về tỷ lệ nội địa hóa
3.3.4. Đánh giá chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Đài Loan
Thứ nhất, nền công nghiệp Đài Loan là nên công nghiệp tập trung mũi
nhọn.Ngay trong quan điểm phát triển của mình, Đài Loan cũng đã chỉ rõ cần tập
trung vào phát triển những lợi thế cạnh tranh sẵn có của quốc gia. Phát triển kinh tế

thịnh vượng và bền vững là mục tiêu quan trọng nhất của MOEA. Chính phủ đã
xem xét lại những chiến lược phát triển của kinh tế Đài Loan và có những thay đổi
đáp ứng lại. Cách duy nhất để giành chiến thắng trong tự do thương mại là thông
qua phát triển, điều đó chỉ có được khi nền kinh tế được củng cố, tăng cường và
đổi mới liên tục.
Thứ hai, cũng giống như công nghiệp hỗtrợcủa Hàn Quốc, Đài Loan có
mộtnền công nghiệp hỗ trợ dựa trên công nghệ khoa học, kỹ thuật tiên tiến và hiện
đại. Những công nghệ kĩ thuật tiên tiến được áp dụng là sản phẩm của quá trình
đầu tư vào nghiên cứu và phát triển. Năm 2004, chính phủ Đài Loan dành 4% GPD
để dành cho nghiên cứu phát triển nằm đưa nước này thành một nước phát triển.
Dựa trên vị trí chiến lược kinh tế và lợi thế của nó trong nghiên cứu phát triển,
chính phủ đang tích cực khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước thành


15

lập các trung tâm nghiên cứu phát triển ở Đài Loan. Với những lợi thế trong ngành
công nghiệp công nghệ cao, Đài Loan đang thể hiện về tài năng trong R&D, công
nghệ, tài nguyên và hệ thống ở nước ngoài, mong muốn tạo ra một thị trường thích
hợp hơn.
Thứ ba, nền công nghiệp hỗ trợ có sự quan tâm của chính phủ. Có thể nói
đểphát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của mình, chính phủ Đài Loan đã
đề ra rất nhiều chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm bảo hoạt
động của các doanh nghiệp này. Ví dụ như chính sách ưu đãi về vốn vay đầu tư,
giảm các loại thuế, hỗ trợ đầu tư vật chất, cơ sở hạ tầng,..
Thứ tư, yếu tố con người luôn luôn được chú trọng trong phát triển công
nghiệp. Mặc dù Đài Loan phải đối mặt với những khó khăn về già hóa dân số, gây
nên những bất lợi trong phát triển công nghiệp. Đài Loan có những chính sách để
phát triển con người một cách toàn diện. Giữa việc tham gia học ở các trường và
bắt tay vào thực hiện một công việc thực tế luôn có những khoảng trống nhất định,

để lấp đầu những khoảng trống này, bộ Công nghiệp Đài Loan đã thực hiện các
chương trình kết nối giữa các doang nghiệp với các viện đào tạo để đào tạo thêm kĩ
năng chuyên môn cho người học. Trong đó, tập trung đào tạo các ngành máy móc,
dệt may, điều trị... thông qua hợp tác giữa ngành công nghiệp và học viện, sinh
viên khuyến khích tham gia vào công nghiệp thực thực hành và đào tạo chuyên
nghiệp để tăng kinh nghiệm thực tế của họ. Để đảm bảo nguồn nhân lực cho ngành
công nghiệp, Đài Loan cũng chú trọng tuyển dụng lao động nước ngoài.
3.4. Đánh giá chung về phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan
3.4.1. Ưu điểm
Khi nhận định về phát triển CNHT ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan,
chúng ta có thể nhận thấy có một số ưu điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất, đó là một nền công nghiệp được xây dựng một cách đồng bộ và
hoạt động hiệu quả.
Ngay trong quá trình công nghiệp hóa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã
thấy được vai trò và tầm quan trọng của CNHT đối với sự phát triển của công
nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, từ đó Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan
đã có những đường lối, chủ trương, chính sách về phát luật, những hỗ trợ về tài
chính, đầu tư, kỹ thuật đúng đắn, nhất quán và linh hoạt cho mảng công nghiệp này
từ đó tạo dựng và phát triển một nền CNHT vững chắc tạo đà cho việc phát triển
các ngành công nghiệp chính.
Thứ hai, CNHT của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là một nền CNHT
dựa trên công nghệ khoa học, kỹ thuật tiên tiến và hiện đại.
Hoạt động nghiên cứu và triển khai trong CNHT của Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan là một hoạt động thường xuyên, liên tục. Nó đã trở thành một phần
gắn bó không thể tách rời khỏi hoạt động của các doanh nghiệp hỗ trợ. Nhờ biết
quan tâm đầu tư đúng cho hoạt động nghiên cứu và phát triển này, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan đã trở thành một trong những nước luôn tiên phong đi đầu, và
có nhiều thành tựu trong hoạt động nghiên cứu phát triển. Các doanh nghiệp hỗ trợ
của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan sản xuất sản phẩm trên những dây chuyền



16

tiên tiến, sản xuất ra các sản phẩm có yêu cầu về độ chính xác cao và tinh tế phục
vụ được những nhu cầu chuyên biệt, cá biệt hóa sản phẩm, nâng cao giá trị thị
trường của sản phẩm.
Thứ ba, yếu tố con người được quan tâm, coi trọng. Con người ở đây được
hiểu là gồm cả những người quản lý và đội ngũ nhân công. Chất lượng nguồn nhân
lực luôn là vấn đề được các doanh nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan đề cao vì nó là một trong các yếu tố quan trọng cấu thành nên giá trị sản
phẩm và là nhân tố quan trọng quyết định tới quá trình đổi mới không ngừng các
sản phẩm hỗ trợ cũng như công nghệ, dây truyền sản xuất ra các sản phẩm này.
3.4.2. Hạn chế
Tuy có nền CNHT phát triển nhưng nền CNHT của Nhật Bản, Hàn Quốc và
Đài Loan cũng không tránh khỏi một số tồn tại cần được khắc phục, đó là:
Thứ nhất, trong ngành CNHT của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, lực
lượng chủ yếu là các DNNVV trong đó có rất nhiều các doanh nghiệp có quy mô
rất nhỏ, do vậy các doanh nghiệp nhỏ này thường rất dễ chịu tác động từ những
ảnh hưởng của môi trường, ví dụ như một động thái nhỏ trong việc giá xăng dầu
thế giới tăng, khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn tới sự khó khăn trong môi trường
kinh doanh của các doanh nghiệp, nền kinh tế khó khăn khiến việc tiếp cận các
nguồn vốn để đổi mới, cải tiến sản xuất nhằm thích nghi với tình hình mới, quá
trình toàn cầu hóa diễn ra một cách nhanh chóng, các nền kinh tế mới nổi hoạt
động sôi nổi và đầy cạnh tranh với các sản phẩm có chất lượng và giá cả cạnh tranh
hơn... Tất cả những yếu tố này tác động lên hoạt động của doanh nghiệp và những
doanh nghiệp nhỏ phải chịu nhiều áp lực, nếu không linh hoạt để thích nghi, doanh
nghiệp đó sẽ không thể tồn tại. Do vậy trong những năm gần đây, số lượng các
DNNVV của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan phá sản hay tuyên bố phá sản đã
tăng lên, những mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp

chính cũng dần thay đổi dưới tác động của toàn cầu hóa, nhiều doanh nghiệp hỗ trợ
sau khi sản xuất phải tự tìm đầu ra cho sản phẩm của mình và không ít doanh
nghiệp không thể thích nghi.
Thứ hai, con người là yếu tố thành công trong CNHT của Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan nhưng cũng chính con người cũng là yếu tố hiện đang gây trở
ngại cho quá trình phát triển CNHT của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Cơ cấu
dân số của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đang biến chuyển theo chiều hướng
xấu, lượng người già tăng lên đồng nghĩa với việc những nhân công có tay nghề
trong các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp hỗ trợ đang già đi, trong khi
lượng lao động trẻ tham gia vào hoạt động CNHT có xu hướng giảm xuống do
thanh niên thời nay thích hướng vào các ngành nghề, lĩnh vực mới như du lịch,
dịch vụ... Nhiều thanh niên Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan không muốn tiếp tục
sự nghiệp gia đình trong các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ nhỏ mà thích đi làm
thuê cho những doanh nghiệp lớn với thu nhập cao và ổn định, trong tương lai điều
này sẽ ngày càng gây khó khăn cho việc duy trì và phát triển CNHT của Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan.


17

Chương 4
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM NHẰM
THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
4.1. Khái quát tình hình phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
4.1.1. Bối cảnh phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á trong số 11 quốc gia
Đông Nam Á; lớn thứ 48 trên thế giới xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh
nghĩa năm 2013 và đứng thứ 128 xét theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình
quân. Tổng thu nhập nội địa GDP năm 2015 là 198,8 tỷ USD. Trong những năm
qua, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng. Mặt hàng xuất khẩu chủ

yếu đứng đầu là máy móc, thiết bị, phụ tùng, hàng may mặc và các sản phẩm nông
sản. Bốn thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản và Hàn Quốc. Các sản phẩm xuất khẩu của ngành công nghiệp như than, dầu
mỏ, khí đốt chủ yếu dưới dạng thô. Năm tháng đầu năm 2017, Hoa Kỳ vẫn là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 16 tỷ USD, tăng 9,9%
so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là EU đạt 14,6 tỷ USD, tăng 9,5%; Trung Quốc
đạt 10,5 tỷ USD, tăng 40,3%; ASEAN đạt 8,6 tỷ USD, tăng 26%; Nhật Bản đạt 6,4
tỷ USD, tăng 16,6%; Hàn Quốc đạt 5,7 tỷ USD, tăng 34,4%.
4.1.2. Quan điểm, mục tiêu phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Chủ trương về phát triển CNHT được chính thức đề cập trong Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006): Khuyến khích phát triển công nghiệp bổ
trợ có lợi thế cạnh tranh; Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất
lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và
thu hút nhiều lao động, như công nghiệp bổ trợ. Năm 2006, trong Quy hoạch tổng
thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo vùng lãnh thổ đến năm 2010,
tầm nhìn đến 2020 (theo Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ) đã đề cập đến một số nội dung và chỉ rõ các ngành
cần tập trung phát triển CNHT. Năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công
thương) ban hành Quyết định số 34 ngày 31 tháng 7 năm 2007 về Phê duyệt Quy
hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, trong đó nêu rõ:
“CNHT là hệ thống các cơ sở sản xuất và công nghệ sản xuất các sản phẩm đầu vào là
nguyên vật liệu, linh phụ kiện, phụ tùng… phục vụ cho khâu lắp ráp các sản phẩm
công nghiệp cuối cùng”.
4.1.3. Nội dung chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
CNHT có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của ngành công nghiệp
chính cũng như tới mối liên kết công nghiệp trong nền kinh tế. Do dó, việc hoạch
định chính sách phát triển CNHT phải được xem xét sao cho đồng bộ với chiến
lược phát triển công nghiệp, hướng tới một nền công nghiệp toàn diện cho Việt
Nam. Đặc biệt, chính sách phát triển CNHT cần phải đi liền với chính sách phát
triển các ngành công nghiệp sản xuất và lắp ráp, sao cho CNHT và ngành công

nghiệp chính có thể tương hỗ cho nhau cùng phát triển.
Hiện nay, với mục tiêu sớm trở thành một nước công nghiệp, trong những
năm vừa qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển
ngành CNHT. Theo đó, để xây dựng ngành CNHT, từ năm 2007, Bộ Công nghiệp


18

(nay là Bộ Công thương) đã ban hành Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN phê duyệt
Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Tiếp theo Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về Chính sách
khuyến khích phát triển một số ngành CNHT; Quyết định 418/QĐ-TTg Phê duyệt
Chiến lược phát triển KH - CN giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số 1556/QĐTTg về trợ giúp phát triển DNNVV trong lĩnh vực CNHT; Quyết định số 879/QĐTTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm
nhìn đến năm 2035; Quyết định số 880/QĐ-TTg về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030; Quyết định số 68/QĐ-TTg về Chương trình phát triển CNHT từ năm 2016
đến năm 2025.
Ngày 8 tháng 10 năm 2014, Bộ Công thương ban hành Quyết định số
9028/QĐ-BCT về Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030. Ngày 3 tháng 11 năm 2015 Chính phủ ban hành Nghị định số
111/2015/NĐ-CP về Phát triển CNHT.
Có thể nói, về mặt định hướng, chính sách, luật pháp liên quan đến phát
triển CNHT đã tương đối đầy đủ, tuy những ưu đãi chưa được tập trung, thống nhất
trong một văn bản nhưng nó đã được thể hiện khá rõ trong quá trình tham mưu
chính sách phát triển công nghiệp nói chung, CNHT nói riêng.
* Ngành công nghiệp điện tử
* Ngành dệt may
4.1.4. Đánh giá chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
* Ngành công nghiệp điện tử
* Ngành dệt may

4.1.5. Lý giải sự thành công/ không thành công
Thứ nhất, về quy mô doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp CNHT của
ngành dệt may ở Việt Nam còn ít, trình độ chỉ ở mức trung bình, thậm chí còn thấp
và lạc hậu so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, trình độ công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa còn thấp.
Thứ ba, năng lực cạnh tranh của sản phẩm CNHT của ngành dệt may Việt
Nam thấp.
Thứ tư, mức độ đáp ứng yêu cầu của ngành công nghiệp hạ nguồn. Dung
lượng thị trường các ngành công nghiệp hạ nguồn hiện nay ở Việt Nam nhỏ, chưa
hấp dẫn sản xuất CNHT
Thứ năm, trình độ nguồn nhân lực. Đội ngũ lao động của ngành dệt may qua
đào tạo hiện nay thấp, thiếu tính thực tiễn
Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân
chính sau:
Thứ nhất, việc hoạch định cơ chế, chính sách ở Việt Nam mới chỉ thuộc phạm
vi của Chính phủ, ít có sự tham gia của các nhà tài trợ, các chuyên gia, các nhà khoa
học.
Thứ hai, một nguyên nhân nữa là độ tin cậy của nhà cung cấp chưa cao, về
chất lượng, giá cả, lẫn sự phong phú chủng loại sản phẩm của Việt Nam.


19

Thứ ba, số lượng, thiết bị máy công nghiệp còn hạn chế, công nghệ cũ, lạc
hậu; trình độ tự động hóa thấp.
Thứ tư, các kênh thông tin giữa các doanh nghiệp FDI; các công ty nội địa,
các tập đoàn lớn bên ngoài đặc biệt là các tập đoàn của Nhật Bản còn thiếu.
Thứ năm, tính hợp tác - liên kết giữa các doanh nghiệp hỗ trợ với các doanh
nghiệp sản xuất, giữa các nhà sản xuất hỗ trợ với nhau còn yếu.

Thứ sáu, Việt Nam chú trọng nhiều đến việc giảm bớt thủ tục để thuận lợi
cho nhà đầu tư, mà chưa chú ý đến khâu hậu kiểm xem họ làm gì, làm như thế nào,
đúng với cam kết không.
4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về phát triển công nghiệp hỗ trợ
4.2.1. Bài học về phát triển công nghiệp hỗ trợ
4.2.1.1. Bài học về chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ
Việc xây dựng một chính sách phát triển CNHT phù hợp với chiến lược phát
triển công nghiệp toàn diện là hết sức cần thiết cho Việt Nam, tạo định hướng cụ
thể cho công cuộc phát triển CNHT tại Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu này, việc
đầu tiên cần làm là phải làm rõ định nghĩa mang tính pháp lý về các ngành CNHT điều mà hiện nay Việt Nam chưa làm được. Ngoài việc đưa ra định nghĩa cụ thể,
Chính phủ cũng cần nêu rõ cả quy mô, phạm vi của ngành CNHT trong hoàn cảnh
đất nước hiện nay, tầm quan trọng của ngành trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
4.2.1.2. Bài học về chính sách quy định về tỷ lệ nội địa hóa
Chính phủ cần có những chính sách để khuyến khích việc sản xuất của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng cách giảm các loại thuế, hỗ trợ các khoản vay cho
doanh nghiệp với mức ưu đãi thấp, phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, việc liên
kết để tạo tiếng nói chung giữa các doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Bởi, rút
kinh nghiệm từ Đài Loan, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp quá gay gắt có
thể dẫn đến kinh doanh giảm sút và làm giảm sức hoạt động của các doanh nghiệp
và dẫn đến giảm tỷ lệ nội địa hóa. Hơn nữa, các doanh nghiệp của Việt Nam còn rất
non trẻ, trình độ còn nhiều hạn chế, việc chuyển giao công nghệ giữa là điều rất cần
thiết.
4.2.1.3. Bài học về thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất công nghiệp hỗ
trợ
Với tình hình phát triển chậm chạp của CNHT tại Việt Nam, việc thu hút
FDI vào CNHT là một biện pháp hiệu quả, giúp tăng sức cạnh tranh cho ngành, tạo
“cú huých” về vốn và công nghệ giúp phát triển CNHT một cách nhanh chóng.
Việc hấp thụ một lượng vốn FDI cho sản xuất linh kiện và phụ tùng sẽ trực tiếp mở
rộng các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt nam và gián tiếp giúp các doanh
nghiệp trong nước liên kết lại. Để thu hút họ, việc tạo ra một môi trường kinh

doanh tự do và mở, một khuôn khổ chính sách ổn định, nâng cao chất lượng lao
động, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đưa ra những ưu đãi về thuế và tài chính hấp dẫn.
Các doanh nghiệp của Việt Nam phải nỗ lực rất nhiều trong việc cải thiện
năng lực của mình để trở thành nhà cung cấp cho các nhà sản xuất có vốn đầu tư
nước ngoài hoặc khách hàng nước ngoài. Chính phủ Việt Nam cần hỗ trợ những nỗ
lực đó bằng các chính sách cụ thể, hữu hiệu. Khoảng cách giữa chính sách và việc
thực hiện chính sách là bài học mà Việt Nam nên rút ra từ Nhật Bản. Để mất niềm


20

tin với các nhà đầu tư nước ngoài mặc dù vẫn đang có các lợi thế cạnh tranh, các
quốc gia này vẫn khó mà hạn chế được dòng chuyển dịch đầu tư sang các nước
mới nổi lên trong khu vực. Ngày càng có nhiều các nước đi sau rút được các bài
học quý, do vậy Việt Nam không nên để mất thêm nhiều thời gian trong việc hoàn
thiện chính sách trên lý thuyết mà cần tập trung mạnh vào cơ chế thực hiện chính
sách.
Cần khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành CNHT,
trong đó đặc biệt thu hút đầu tư nước ngoài từ các tập đoàn đa quốc gia là biện
pháp quan trọng nhất để phát triển CNHT Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài
với tiềm lực tài chính mạnh một mặt sẽ cung cấp công nghệ và mở ra thị trường
mới cho xuất khẩu, mặt khác có thể trợ giúp CNHT Việt Nam cơ cấu lại sản xuất,
chuyển đổi cơ cấu sản phẩm. Trước hết cần chú trọng đến các dự án đầu tư sản
xuất các sản phẩm mới, công nghệ cao, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất linh kiện
điện tử và máy tính. Chú trọng đến các nhà sản xuất hàng đầu ở các quốc gia có
nền công nghiệp hỗ trợ tiên tiến như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản… Bên cạnh
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đóng vai trò quyết định đối với việc phát triển ngành
CNHT Việt Nam trong giai đoạn tới, nguồn vốn đầu tư trong nước, dù còn rất hạn
hẹp, nhưng cũng có vai trò quan trọng trong từng bước phát triển, tạo tiền đề cho
sự phát triển của CNHT Việt Nam ở những giai đoạn sau.

Việc giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác động tích cực: nó làm tăng khả năng
canh tranh về chi phí của các nhà lắp ráp giúp giảm giá thành sản phẩm từ đó tăng
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tiếp đó, việc tự do hóa nhập khẩu linh
kiện làm gia tăng trao đổi thương mại về các linh kiện trong ngành, khuyến khích
Việt Nam chuyên môn hóa sản xuất một số linh kiện nhất định và xuất khẩu ra toàn
thế giới. Cùng với việc giảm thuế nhập khẩu linh kiện cũng phải giảm thuế nhập
khẩu cho nguyên liệu thô, giải quyết hài hòa giữa việc bảo hộ một số nhà cung cấp
nguyên liệu thô với thúc đẩy các nhà sản xuất linh kiện nhập khẩu nguyên liệu
công nghiệp cao cấp mà hiện trong nước chưa sản xuất để phát triển CNHT. Ngoài
ra cũng cần giảm thuế nhập khẩu cho việc mua sắm thiết bị cho R&D vào những
mục đích tương tự nhằm phát triển ngành CNHT.
Các chính sách tài chính ưu đãi đầu tư bao gồm: ưu đãi tín dụng, ưu đãi
nhập khẩu thiết bị, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp… Chính phủ chỉ đưa ra
chính sách ưu đãi đặc biệt và chỉ áp dụng có thời hạn (khoảng 3 - 5 năm). Đồng
thời cũng cần phải đa dạng hóa các nguồn đầu tư vào phát triển CNHT, trong đó
phải coi đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài là các nguồn đầu tư chủ yếu. Dồn hết
mọi khả năng để kêu gọi đầu tư FDI vào việc sản xuất trong ngành CNHT. Chính
phủ có thể chỉ định một số khu công nghiệp để ưu tiên giải quyết ngay và triệt để
các mặt về hạ tầng, về thủ tục hành chính, về cung cấp nguồn nhân lực cần thiết…
và đặt ra các đội chuyên trách thường xuyên theo dõi hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp nước ngoài để phát hiện ngay các vướng mắc, từ đó sẽ giải quyết ngay.
Thứ nhất, cải thiện môi trường đầu tư.
Thứ hai, tạo điều kiện tốt cho hiệu ứng lan tỏa tích cực của FDI và tăng khả
năng hấp thụ của các doanh nghiệp trong nước.


21

Thứ ba, thực hiện các biện pháp để thu hút các tập đoàn đa quốc gia lớn với
khả năng công nghệ, thu hút các hoạt động R&D của các công ty nước ngoài tại

Việt Nam.
Tóm lại, FDI là một xu hướng đầu tư hiệu quả, và phổ biến trên trường quốc
tế hiện nay. Đối với ngành CNHT của Việt Nam, muốn phát triển lớn mạnh để đẩy
mạnh những ngành công nghiệp mũi nhọn trong nước cần ưu tiên nắm vững dòng
vốn FDI trên con đường CNH, HĐH đất nước.
4.2.2. Bài học về phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp
điện tử và dệt may
4.2.2.1. Về quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử và dệt
may
Quy hoạch là một trong những vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển
CNHT ngành dệt may Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, như phân tích ở trên, thể chế
phát triển CNHT còn nhiều hạn chế, chưa có quan điểm rõ ràng về CNHT để xác
định các chủ thể tham gia vào phát triển CNHT; cơ chế vận hành chưa đầy đủ, chủ
yếu là mệnh lệnh hành chính từ trên xuống, không bám sát nhu cầu thị trường.
Quy hoạch phát triển CNHT tầm nhìn năm 2020, cách thức đặt vấn đề phát
triển CNHT của Việt Nam hiện nay là trên cơ sở các ngành công nghiệp hạ nguồn.
Trong đó, phát triển CNHT được hoạch định: mỗi ngành công nghiệp hạ nguồn
(thuộc 5 ngành ưu tiên) có một ngành CNHT tương ứng. Như vậy, bản chất của quy
hoạch là tập hợp của 5 quy hoạch ngành, với sự tập trung hơn vào phần chuỗi cung
ứng trong mỗi ngành. Do đó, cần xác định rõ, không phải ngành công nghiệp nào
cũng có thể phát triển CNHT như phát triển công nghiệp nói chung.
4.2.2.2. Về vốn, công nghệ trong phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện
tử và dệt may
Vốn và công nghệ là hai yếu tố rất cần thiết cho quá trình phát triển CNHT
trong ngành điện tử và dệt may, là nâng cao chất lượng sản phẩm ngành CNHT và
tính cạnh tranh cho các sản phẩm công nghiệp chính. Trình độ KH - CN, khả năng
tiếp cận, đổi mới công nghệ và chi phí cho nghiên cứu, phát triển là những yếu tố
quyết định hàng đầu về chất lượng, tính năng của sản phẩm CNHT. Việt Nam, với
điều kiện vị trí địa lý thuận lợi, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư lớn, các công ty
xuyên quốc gia, giúp Việt Nam gia tăng quá trình tích luỹ vốn, tiếp thu công nghệ

nhanh chóng, thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước liên kết với các công ty
nước ngoài cùng phát triển ngành CNHT
Việt Nam có thể sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi để xây dựng một quỹ tài
chính đảm bảo cho việc phát triển CNHT của những ngành đã được chỉ định. Việc
chỉ định các ngành cần phát triển là việc chỉ rõ các phạm vi ưu tiên để có nguồn
ngân sách cụ thể, minh bạch. Minh bạch được khâu này cũng sẽ giúp các doanh
nghiệp thu hút đầu tư. Riêng với yếu tố công nghệ, vai trò của Chính phủ Việt Nam
trong việc vấn đề này là yếu tố quan trọng. Để có được công nghệ hàng đầu thế
giới như Nhật Bản đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải đặt ra mục tiêu, ngân sách để
phát triển CNHT cho từng ngành.
4.2.2.3. Về nhân lực trong phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử và dệt
may


22

Nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề quan trọng được đặt lên hàng đầu
trong phát triển CNHT nói chung, ngành công nghiệp điện tử và dệt may nói riêng.
Thứ nhất, sớm hình thành một quỹ hỗ trợ đào tạo nhân lực cho công nghiệp
hỗ trợ, quỹ này một phần được tài trợ của ngân sách đầu tư phát triển ngành và từ
sự đóng góp của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, thực hiện chế độ đào tạo thường xuyên để người lao động tiếp cận
với những tri thức mới. Có thể thực hiện đào tạo tại chỗ theo định kỳ hàng năm để
nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý doanh nghiệpvà đội ngũ lao động kỹ
thuật. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu của các doanh nghiệp điện tử hàng đầu
Nhật Bản, nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực nội địa.
Thứ ba, nâng cao việc xã hội hoá đào tạo để có thể đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao hơn về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn hoá sâu trong các lĩnh
vực của nền công nghiệp quốc gia. Các cải cách về đào tạo nhân lực cần tập trung
vào việc kết hợp đào tạo lý thuyết với thực tiễn, giữa nhà trường và hệ thống doanh

nghiệp. Xúc tiến các chương trình hợp tác đào tạo, các chương trình nghiên cứu và
phát triển. Các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học Việt Nam có tiềm năng khá
lớn, hơn nữa chi phí đào tạo và nghiên cứu ở Việt Nam đang rất thấp, nên cần có
sự phối hợp giữa các cơ quan khoa học và các doanh nghiệp trong đào tạo và
nghiên cứu. Cách làm này vừa phát huy được nội lực, vừa có chi phí thấp và là cơ
sở của sự phát triển lâu dài cho Việt Nam.
Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu và các đối tác
nước ngoài thực hiện các chương trình trao đổi kỹ thuật, trao đổi chương trình
nghiên cứu và phát triển. Để nâng cao trình độ công nghệ và quản lý nhằm phát
triển ổn định, các ngành công nghiệp hỗ trợ cần xây dựng và duy trì các mối quan
hệ hợp tác với các đối tác nước ngoài và trao đổi những tri thức, kinh nghiệm cần
thiết một cách thường xuyên.
Thứ năm, một vấn đề thường xuyên được nhắc đến tuy nhiên vẫn chưa có
các chính sách triệt để ở tầm vĩ mô, là khả năng ngoại ngữ của nguồn nhân lực ảnh
hưởng rất lớn đến thu hút đầu tư. Chính phủ Việt Nam cần cân nhắc để cải tiến hệ
thống giáo dục gắn chặt với phát triển ngoại ngữ.
4.2.2.4. Về tái cấu trúc ngành công nghiệp sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu
Việc phát triển CNHT hướng tới một nền công nghiệp bền vững với các tiêu
chí cơ bản như: tỷ trọng giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp cao, tiêu hao ít tài
nguyên, chuyển giao công nghệ nhanh và hiệu quả, thu hút và đào tạo lao động, ít
gây ô nhiễm môi trường. Việc tái cấu trúc các định chế trong doanh nghiệp công
nghiệp phải được thực hiện khoa học, đúng luật. Chỉ rõ lĩnh vực kinh doanh chủ
đạo, thậm chí chỉ rõ sản phẩm chính, bộ phận chính mà doanh nghiệp sẽ chế tạo.
Xác định hệ thống các doanh nghiệp CNHT phù hợp. Đây là việc làm hết sức quan
trọng vì nếu xác định đúng sẽ đảm bảo các doanh nghiệp CNHT có một định chế
gọn nhẹ, dễ liên kết và hiệu quả. Chính hệ thống CNHT sẽ là cơ sở để tái cấu trúc
lại nền công nghiệp với ý nghĩa là tái cơ cấu các ngành, cơ cấu quy mô, tái cơ cấu
bản thân doanh nghiệp, đặc biệt là một quan hệ kinh doanh mới theo “nguyên tắc
hợp đồng” sẽ dần hoàn thiện.



23

4.2.3. Bài học về phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành
công nghiệp hỗ trợ
Các DNNVV sẽ là một trong những nhân tố quan trọng trong việc đưa nền
CNHT đi lên, do đó cần có những chính sách và biện pháp thích hợp nhằm khuyến
khích các DNNVV trong lĩnh vực này.
4.2.3.1. Các biện pháp hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
ngành công nghiệp hỗ trợ
Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV có thể dễ dàng tiếp cận được với
nguồn vốn vay dài hạn cho đầu tư phát triển. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các
DNNVV có thể dễ dàng tiếp cận được các nguồn vốn vay dài hạn cho đầu tư phát
triển là hết sức cần thiết. Nếu cần thiết, các tổ chức tài chính nhằm hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách có hiệu quả phải được thành lập với sự hỗ trợ
từ Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (với các khoản vay hai giai đoạn) và IFS
(với Cơ quan phát triển khu vực tư nhân Mekong).
Sử dụng nguồn viện trợ ODA để hỗ trợ đào tạo lao động, xây dựng thể chế
pháp lý và các chương trình phát triển CNHT, công nghiệp vừa và nhỏ, chương
trình hợp tác với các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp vào Việt Nam cũng là
một giải pháp để có thể phát triển ngành công nghiệp còn đang yếu của Việt Nam.
4.2.3.2. Các biện pháp hỗ trợ về công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa trong ngành công nghiệp hỗ trợ
Hỗ trợ công nghệ có thể được thực hiện dưới các hình thức sau: Lập chế độ
tư vấn kỹ thuật và quản lý để mời các chuyên gia nước ngoài vào giúp thay đổi
công nghệ và cơ chế quản lý tại Việt Nam
Việt Nam có thể tận dụng nguồn lực quốc tế này để nhanh chóng tăng sức
cạnh tranh vào các ngành CNHT. Mặt khác chúng ta cũng phải hỗ trợ hoạt động
R&D nhằm giúp các doanh nghiệp hỗ trợ sản xuất những sản phẩm tốt, đáp ứng đủ

yêu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp. Hiện nay, có 3 Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật
(Technical Assitance Center) tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đã đi
vào hoạt động với mục tiêu hỗ trợ SMEs trong hoạt động tư vấn và là đầu mối tư
vấn hỗ trợ công nghệ và chuyển giao công nghệ, cải tiến trang thiết bị và lắp đặt
thiết bị… đồng thời tiến hành nghiên cứu và phối hợp nghiên cứu phát triển công
nghệ, trang thiết bị, sản phẩm mới để chuyển giao cho SMES.
4.2.3.3. Các biện pháp giải quyết khó khăn về mặt bằng xây dựng nhà
xưởng sản xuất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành công nghiệp hỗ trợ
Về vấn đề này, Chính phủ có thể thực hiện đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện
các cơ sở giao thông, vận tải như các bến cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ, giao
thông đô thị; hình thành các kho tàng, điểm tập trung hàng hóa ở các vùng kinh tế
trọng điểm để gia tăng điều kiện phát triển công nghiệp; tâp trung xây dựng một số
khu, cụm CNHT có trang thiết bị, công nghệ tiên tiến gắn với các vùng có các
ngành công nghiệp chính phát triển… Ngoài ra, Chính phủ có thể tiến hành xây
dựng các cụm, khu công nghiệp trọng điểm có đầu tư trang thiết bị hiện đại, có khả
năng cạnh trannh quốc tế... nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu vực này.


×