Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THU CÚC

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
MUA BÁN NỢ CỦA VAMC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THU CÚC

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
MUA BÁN NỢ CỦA VAMC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐOÀN THỊ PHƯƠNG DIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017



MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Câu hỏi nghiên cứu

2

3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

2

4. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4

4.1.

Mục đích nghiên cứu

4

4.2.


Đối tượng nghiên cứu

5

4.3.

Phạm vi nghiên cứu

5

5. Phương pháp nghiên cứu

5

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn

6

7. Bố cục của luận văn

6

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MUA
BÁN NỢ CỦA VAMC

8

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về việc xác định nợ xấu của các NHTM

8


1.1.1. Khái niệm nợ xấu của NHTM

8

1.1.2. Đặc điểm nợ xấu của NHTM

10

1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định nợ xấu đối với hoạt động của các NHTM

11

1.2. Khái quát chung về hoạt động xử lý nợ xấu của các NHTM bằng phương thức
mua bán nợ

12

1.2.1. Khái niệm xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ

12

1.2.2. Đặc điểm của hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ

13

1.2.3. Phân loại các phương thức mua bán nợ

15


1.2.3.1. Phân loại theo chủ thể của hoạt động mua bán nợ

15

1.2.3.2. Phân loại theo tính chất tự nguyện, thỏa thuận trong hoạt động
mua bán nợ
1.2.3.3. Theo tính chất có truy đòi trong hoạt động mua bán nợ

16
16


1.2.4. Vai trò của hoạt động xử lý nợ xấu của NHTM bằng phương thức mua
bán nợ

17

1.2.4.1. Đối với các NHTM

17

1.2.4.2. Đối với con nợ

18

1.2.4.3. Đối với nhà nước

19

KẾT LUẬN CHƯƠNG I


24

CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC

25

2.1. Quy định của pháp luật về NHTM xử lý nợ xấu bằng phương thức bán nợ cho
VAMC

25

2.1.1. Quy định về Chủ thể tham gia hoạt động mua bán nợ xấu giữa VAMC và
các NHTM

25

2.1.1.1. Về tư cách chủ thể của VAMC

25

2.1.1.2. Về tư cách chủ thể của NHTM

27

2.1.2. Các đặc điểm và quy định đối với hình thức bán nợ xấu của NHTM cho
VAMC

28


2.1.2.1. Đặc điểm chung

28

2.1.2.1.1. Đối tượng mua bán nợ

28

2.1.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của VAMC và NHTM

30

2.1.2.1.3. Biện pháp được áp dụng sau khi VAMC mua nợ

31

2.1.2.1.4. Hình thức mua bán nợ

35

2.1.2.2. Đặc điểm riêng của từng phương thức mua bán nợ

35

2.1.2.2.1. NHTM bán nợ xấu cho VAMC theo giá trị ghi sổ bằng trái
phiếu đặc biệt do VAMC phát hành

36


2.1.2.2.2. NHTM bán nợ xấu cho VAMC theo giá trị thị trường bằng
nguồn vốn không phải trái phiếu đặc biệt

42

2.2. NHTM xử lý nợ xấu bằng phương thức bán nợ cho các chủ thể kinh doanh hoạt
động mua bán nợ khác

46

2.2.1. NHTM bán nợ xấu cho AMC của chính NHTM đó

47


2.2.2. NHTM bán nợ xấu cho NHTM hoặc AMC của NHTM khác

52

2.2.3. NHTM bán nợ cho các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ
khác

56

KẾT LUẬN CHƯƠNG II

61

CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC


62

3.1. Kết quả xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ với VAMC

62

3.2. Những vướng mắc của quy định pháp luật và kiến nghị đối với pháp luật về xử
lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ

63

3.2.1. Đối với việc mua bán nợ giữa NHTM với VAMC

63

3.2.1.1. Về trách nhiệm của VAMC trong việc mua, bán các khoản nợ
xấu từ NHTM

63

3.2.1.2. Về sự cần thiết của việc VAMC mua nợ theo giá thị trường

64

3.2.1.3. Về các biện pháp hỗ trợ khách hàng vay của VAMC

69

3.2.1.4. Về các vướng mắc và kiến nghị liên quan đến các văn bản quy

phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động mua, bán nợ 72
3.2.2. Đối với việc mua bán nợ giữa NHTM với các chủ thể khác

75

3.2.2.1. Kiến nghị liên quan đến điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán
nợ theo quy định của Nghị định 69/2016/NĐ-CP

75

3.2.2.2. Kiến nghị liên quan đến đối tượng của hoạt động mua, bán nợ 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG III

80

KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TCTD

: Tổ chức tín dụng

VAMC


: Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam

AMC

: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản

DATC

: Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp

BCBS

: Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng

NHNN

: Ngân hàng nhà nước

NHTM

: Ngân hàng thương mại

TTDS

: Tố tụng dân sự

BLDS

: Bộ luật dân sự


TSBĐ

: Tài sản bảo đảm


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Cho đến cuối năm 2017, yêu cầu giải quyết ngay bài toán nợ xấu của các tổ

chức tín dụng không còn cấp bách như giai đoạn từ 2010 – 2015. Tuy nhiên việc
giải quyết nợ xấu vẫn luôn là một trong các nội dung ưu tiên hàng đầu trong chính
sách kinh tế. Xử lý nợ xấu của các Tổ chức tín dụng (TCTD) không chỉ tạo điều
kiện cho TCTD mở rộng tín dụng với lãi suất hợp lý, góp phần tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô mà
còn cải thiện thanh khoản và nâng cao sự an toàn, lành mạnh, hiệu quả hoạt động
của các TCTD, thị trường tiền tệ.
Ngoài các biện pháp xử lý nợ xấu như: tăng cường trích lập dự phòng, cơ cấu
lại nợ, xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ), hoán đổi nợ thành vốn góp,… thì hoạt động
mua bán nợ cũng là một biện pháp xử lý nợ xấu đã được triển khai và dần đi vào
quỹ đạo hoạt động. Trong hoạt động mua bán nợ, đặc biệt là “nợ xấu” thì việc mua
bán nợ xấu giữa các TCTD với VAMC là kênh xử lý nợ được NHNN và các TCTD
chú trọng quan tâm.
Để triển khai thực hiện hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ,
sau khi có Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành

lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam”, hành lang pháp lý
cho việc thành lập và hoạt động của VAMC cũng như hoạt động mua bán nợ giữa
các TCTD và VAMC được tích cực triển khai, ban hành. Việc sửa đổi, bổ sung các
quy định liên quan cũng được triển khai nhanh chóng nhằm phù hợp với tình hình
thực tế cũng như tháo gỡ những bất cập được đúc rút sau quãng thời gian thực hiện.
Cho đến nay, pháp luật về hoạt động mua mua bán nợ đã không chỉ hình thành
được khung pháp lý chung mà các quy định đã cụ thể, chi tiết hơn về điều kiện,
phương thức thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế triển khai vẫn còn bộc lộ nhiều bất
cập. Hệ thống các quy định hướng dẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, đồng bộ và còn


2

mâu thuẫn, điều này làm ảnh hưởng đến tính khả thi của một số quy định khi triển
khai trên thực tế. Bên cạnh đó, với các cơ chế pháp luật hiện nay, bản thân tác giả
còn đặt ra nhiều câu hỏi và ý kiến về tính hiệu quả, triệt để và thực chất trong việc
xử lý nợ thông qua phương thức mua bán nợ giữa TCTD với VAMC.
Như vậy, việc hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan đến mua bán nợ
của các TCTD, đánh giá thực tiễn hoạt động mua bán nợ và tính khả thi của các quy
định so với điều kiện thực tế nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống quy định pháp luật
về mua bán nợ là vấn đề cần thiết hiện nay, đặc biệt là việc nâng cao hiệu quả xử lý
nợ thông qua mua bán nợ với VAMC.
Xuất phát từ tình hình thực tế của pháp luật hiện hành cũng như từ thực tiễn
mà bản thân tác giả đúc rút được trong quá trình công tác tại TCTD, tác giả quyết
định lựa chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC” để làm đề
tài luận văn Thạc sĩ Luật học - Chuyên ngành Luật Kinh tế với mong muốn không
chỉ để hoàn thành chương trình học hiện tại mà còn hỗ trợ thêm cho công việc tại
đơn vị đang công tác và đề xuất một vài giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu trong thời gian tới.
2.


Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu:
Phương thức mua, bán nợ có vị trí như thế nào trong việc xử lý nợ xấu của các

NHTM?
Các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ với VAMC có đáp
ứng nhu cầu xử lý nợ xấu của các NHTM hay không?
Cần hoàn thiện những nội dung nào trong pháp luật về mua bán nợ với VAMC
để góp phần thúc đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu tại các NHTM?
3.

Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM là một hoạt động đòi hỏi phải có sức bền và

sự chia sẻ, hỗ trợ tích cực của nhiều chủ thể, trong đó vai trò của hành lang pháp lý
được kiến tạo và hoàn thiện bởi các nhà hoạch định chính sách. Pháp luật luôn giữ
vị trí cầm cương trong sứ mệnh giải tỏa “cục máu đông” đang tiềm ẩn nhiều nguy


3

cơ phá hủy sự an toàn của hệ thống tín dụng. Trước khi lựa chọn đề tài cũng như
trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tác giả được biết vấn đề xử lý nợ xấu của các
NHTM đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu luật học, có thể
kể đến như một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
Bài viết “Thị trường mua bán nợ - Góc nhìn từ lý thuyết cung cầu” của nhóm
tác giả Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Thị Hương Thanh, đăng trên Tạp chí ngân
hàng số 4 tháng 2/2014, đã có những đánh giá tổng quan về thị trường mua bán nợ,
vai trò của thị trường mua bán nợ, thực trạng và hạn chế của thị trường mua bán nợ

tại Việt Nam đồng thời bài viết đã đưa ra được các giải pháp nhằm phát triển thị
trường mua bán nợ cho Việt Nam;
Bài viết “Hoạt động mua bán nợ của VAMC thời gian qua – Thực trạng và
kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thu, Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Ngọc
Linh, đăng trên Tạp chí ngân hàng số 18 tháng 9/2014, đánh giá thực trạng hoạt
động mua bán nợ của VAMC, trong đó có nêu rõ những hạn chế về mặt hoạt động
và cơ chế mua bán nợ của VAMC đồng thời đưa ra các kiến nghị cụ thể nhằm khắc
phục những hạn chế này.
Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng”, của tác giả Nguyễn Thị Bích
Mai, được hoàn thành năm 2010 tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Công trình nghiên cứu này đã đặt ra nhiều vấn đề đáng ghi nhận về sự cần thiết phải
điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các NHTM. Sự trăn trở
của tác giả đã phản ánh một cách rõ nét sự thiếu hụt của các quy định liên quan
trong bối cảnh nền kinh tế đất nước vừa trải qua thời kỳ khủng hoảng tài chính, tiền
tệ chưa lâu lại phải đối mặt với tình trạng nợ xấu tràn lan khắp các NHTM.
Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về mua bán nợ xấu của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Tú, được hoàn thành năm 2013 tại
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài có phạm vi nghiên cứu về hoạt động mua
bán nợ xấu nói chung tại các NHTM, chú trọng vào những vướng mắc và kiến nghị
các phương án giải quyết các tranh chấp trong hoạt động mua bán nợ xấu. Xuất phát


4

từ thời điểm thực hiện nghiên cứu, đề tài đã chưa thể tiếp cận phương thức mua bán
nợ xấu của NHTM thông qua VAMC.
Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ
chức tín dụng ở Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ, được hoàn thành năm 2014 tại
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình này nghiên cứu những vấn đề cơ bản

của hoạt động mua bán nợ, tiếp cận hợp đồng mua bán nợ dưới hình thức mua đứt
bán đoạn và chuyển nhượng một phần khoản nợ hình thức mua bán nợ theo cách
phân loại mua bán nợ một phần hay mua bán toàn bộ khoản nợ, đề xuất hoàn thiện
pháp luật về mua bán nợ.
Các công trình nghiên cứu vừa nêu đã trình bày một cách tổng thể bức tranh
về thị trường mua bán nợ xấu của các NHTM dưới phương diện kinh tế và pháp lý.
Chính vì vậy, các dữ liệu được ghi nhận trong các tài liệu này đã cung cấp nhiều
luận điểm khoa học, bổ sung các thông tin cần thiết cho quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài Luận văn của tác giả.
Bằng công trình nghiên cứu này, tác giả hi vọng rằng, hướng tiếp cận của đề
tài mà tác giả thực hiện có thể bổ sung vào kho tàng các công trình nghiên cứu một
cách nhìn mới, giải quyết tốt hơn những vướng mắc đặt ra trong quá trình thực thi
các chính sách pháp lý về hoạt động xử lý nợ xấu của các NHTM bằng phương thức
mua bán nợ.
4.

Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn trước hết là nhằm khái quát hóa
những vấn đề lý luận cơ bản về xử lý nợ xấu thông qua phương thức mua bán
nợ của các NHTM với VAMC. Đồng thời, công trình còn đánh giá thực trạng
pháp luật điều chỉnh hoạt động này và việc áp dụng các quy định vào thực
tiễn. Từ đó, luận văn làm sáng tỏ một số vướng mắc, bất cập về mặt pháp lý
làm ảnh hưởng tới tính khả thi, hiệu quả của hoạt động mua bán nợ, từ đó đề
xuất các kiến nghị hoàn thiện cơ chế và pháp luật tăng cường tính hiệu quả của
hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ.


5


4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các quy định của pháp luật Việt
Nam về bán nợ cho VAMC.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật
Việt Nam về hoạt động mua bán nợ với VAMC. Luận văn không nghiên cứu
về các phương thức xử lý nợ khác của NHTM như trích lập dự phòng, cơ cấu
lại nợ, thu nợ và xử lý TSBĐ, hoán đổi nợ thành vốn…; khoản nợ được xử lý
thông qua phương thức mua bán ở đây là “nợ xấu”; Chủ thể bán nợ các
NHTM hoặc các AMC trực thuộc NHTM; Chủ thể mua nợ là các NHTM, các
AMC trực thuộc NHTM hoặc VAMC.
Về phạm vi không gian nghiên cứu : luận văn khảo sát thực tiễn, các tình
huống, trường hợp được khảo sát là các tình huống, trường hợp đã xảy ra tại
các NHTM đang hoạt động tại Việt Nam mà không chỉ giới hạn tại một địa
phương cụ thể.
Về phạm vi thời gian: số liệu, vụ việc, thông tin thực tiễn phục vụ cho
việc nghiên cứu luận văn này được thu thập trong khoản thời gian từ sau khi
có Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” cho đến thời
điểm kết thúc việc nghiên cứu. Các kiến nghị được xây dựng với tầm nhìn cho
đến năm 2030.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Công trình nghiên cứu được tác giả kết hợp, vận dụng nhiều phương pháp

nghiên cứu khác nhau: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử,
phương pháp phân tích hiệu quả áp dụng pháp luật, v.v. Các phương pháp sẽ được
vận dụng phù hợp với nội dung đặc thù của từng chương, cụ thể:



6

Chương I, Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp
và phương pháp lịch sử nhằm hệ thống hóa vấn đề lý luận về nợ xấu của NHTM và
xử lý nợ xấu bằng phương thức bán nợ cho VAMC.
Chương II, Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống hóa pháp luật, phân tích
luật viết, so sánh pháp luật, đánh giá tác động pháp luật để làm rõ của các quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về xử lý nợ xấu của NHTM bằng phương thức
bán nợ cho VAMC.
Chương III, Luận văn sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn, khảo sát tài
liệu thứ cấp, quan sát, để làm rõ thực tiễn xử lý nợ xấu của NHTM bằng phương
thức mua bán nợ, phát hiện các bất cập, hạn chế trong khung pháp lý về xử lý nợ
xấu của NHTM bằng phương thức mua bán nợ. Cũng trong chương này, luận văn
sử dụng phương pháp tổng hợp, khái quát hóa, để đề xuất các kiến nghị hoàn thiện
khung pháp lý nhằm tăng cường hiệu quả của việc xử lý nợ xấu tại các NHTM bằng
phương thức bán nợ xấu cho VAMC.
6.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn
Thứ nhất, luận văn đã khái quát các vấn đề lý luận về hoạt động mua bán nợ

của các NHTM, trong đó chú trọng làm sáng tỏ bản chất pháp lý hoạt động mua bán
nợ giữa VAMC với các NHTM.
Thứ hai, luận văn đã hệ thống hóa các quy định pháp luật Việt Nam về hoạt
động mua bán nợ của NHTM, trong đó tập trung vào các phương thức mua bán nợ
giữa VAMC với các NHTM.
Thứ ba, luận văn đã phân tích, đánh giá các quy định và thực trạng áp dụng
các quy định hiện hành về hoạt động mua bán nợ giữa VAMC với các NHTM. Từ

thực trạng triển khai và hiệu quả của hoạt động mua bán nợ, luận văn đã có các kiến
nghị chi tiết nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc của các quy định pháp luật
điều chỉnh hoạt động mua bán nợ hiện hành.
7.

Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội

dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:


7

Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động mua bán nợ của VAMC.
Chương II: Các quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành về hoạt động
mua bán nợ của VAMC.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam
về hoạt động mua bán nợ của VAMC.


8

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MUA
BÁN NỢ CỦA VAMC
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về việc xác định nợ xấu của các NHTM
1.1.1. Khái niệm nợ xấu của NHTM
Nợ xấu là một thuật ngữ được đề cập rất nhiều trên các phương tiện
thông tin đại chúng gần đây trong quá trình cơ cấu lại hệ thống tín dụng. Trong
tiếng Anh, có khá nhiều thuật ngữ, được sử dụng tương tự như khái niệm nợ
xấu trong tiếng Việt, như “bad debt”, “non-performing loan”,


“doubtful

debt”1. Xét trong hoạt động nghiệp vụ của NHTM, nợ xấu thường được hiểu là
các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn
khả năng thu hồi vốn của chủ nợ2.
Quy chuẩn pháp lý của các quốc gia khác nhau sẽ dẫn tới sự khác nhau
về cách thức phân loại nợ cũng như tiêu chuẩn xác định nợ xấu. Điều này được
lý giải bởi sự không đồng nhất về trình độ phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ
quốc gia và trình độ nhận thức của các chủ thể trong nền kinh tế. Do vậy, nợ
xấu cũng như các hiện tượng kinh tế pháp lý khác, bao giờ cũng là một biểu
hiện mang tính quốc nội. Tuy nhiên, đề cập như vậy không có nghĩa rằng khái
niệm nợ xấu không mang lại giá trị tham khảo, hợp tác quốc tế trong việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý của các quốc gia trên thế giới. Bản chất
của nợ xấu vẫn được khoanh vùng, định hình trong một khung tham chiếu nhất
định, có thể đề cập tới một số khái niệm nợ xấu như sau:
Trong Hướng dẫn để tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các
quốc gia (FSIs), Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) đưa ra định nghĩa về nợ xấu tại
Đoạn 4.84-4.85: “một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán
gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày
1

Đinh Thị Thanh Vân (2012), So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Việt
Nam và thông lệ quốc tế, Tạp chí ngân hàng, số 10/2012, trang 5, xem tại
ngày truy cập gần nhất: 02/04/2017.
2

Đỗ Phú Thọ (2014), Nợ xấu không quá xấu, Báo Quân đội Nhân Dân, xem tại ngày truy cập gần nhất: 12/04/2017.



9

hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các
khoản thanh toán đến hạn 90 ngày nhưng có thể nhận thấy các dấu hiệu rõ
ràng cho thấy người vay sẽ không thể hoàn trả nợ đầy đủ. Sau khi khoản vay
được xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng
nên được xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi
được lãi và gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế”3.
Như vậy, khi xem xét khái niệm nợ xấu được đề cập dưới quan điểm của IMF
cần chú ý, nợ xấu khi đã được liệt vào “danh sách đen” của IMF sẽ không
được ghi nhận là “nợ tốt” kể cả trong trường hợp đã được thay thế bằng một
khoản nợ mới.
Đối với Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS), tuy không đưa ra
định nghĩa về nợ xấu, tuy nhiên, trong các hướng dẫn chung cho các quốc gia
về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS đã xác định việc khoản nợ bị coi là không có
khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: (i) ngân
hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa
thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi ví dụ như giải chấp chứng khoán
đang nắm giữ; (ii) người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày4.
Như vậy, khi đề cập đến khái niệm nợ xấu, cần phải nhận thức một cách
đúng đắn về mặt bản chất của khái niệm này bởi lẽ nợ xấu theo thông lệ quốc
tế là một biểu hiện được xác định cả về mặt định lượng và yếu tố định tính.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy, việc xem xét khả năng trả nợ của người vay, đặc
biệt không chỉ giới hạn bởi sự đánh giá khả năng không thu hồi được nợ mà
còn phải xét tới những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai trong quá trình
nhận diện nợ xấu sẽ được chú trọng hơn cả. Định nghĩa về nợ xấu của pháp
luật Việt Nam ở giai đoạn hiện tại tương đối gần với thông lệ quốc tế về mặt
định lượng, còn yếu tố định tính mặc dù đã được vận dụng tích cực hơn giai
3


Đinh Thị Thanh Vân (2012), So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Việt
Nam và thông lệ quốc tế, Tạp chí ngân hàng, số 10/2012, trang 6.
4
Đinh Thị Thanh Vân (2012), So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Việt
Nam và thông lệ quốc tế, Tạp chí ngân hàng, số 10/2012, trang 5.


10

đoạn trước nhưng vẫn chưa triệt để, nên định nghĩa và thực tiễn xác định nợ
xấu tại các NHTM, của Việt Nam vẫn còn khá xa lạ với thông lệ quốc tế5.
1.1.2. Đặc điểm nợ xấu của NHTM
Việc phân loại nợ và xác định nợ xấu là một khâu rất quan trọng trong
công cuộc xử lý nợ xấu của các NHTM, hoạt động này đòi hỏi tính thận trọng,
khách quan và tầm nhìn của đội ngũ cán bộ tín dụng. Theo đó, việc nhận thức
đúng đắn về các đặc trưng, bản chất của nợ xấu là một điều kiện tiên quyết đối
với nghiệp vụ tín dụng ngân hàng.
Thứ nhất, nợ xấu của NHTM phát sinh trong hoạt động cấp tín dụng và
thường có giá trị rất lớn.
Trong các hoạt động cấp tín dụng, NHTM là một định chế tài chính trao
quyền sử dụng vốn cho một chủ thể khác trong nền kinh tế dưới hình thức hợp
đồng, thỏa thuận cho vay để tạo ra lợi nhuận, đồng thời nhân danh chính mình
gánh chịu các rủi ro phát sinh. Khác với các giao dịch dân sự thông thường,
đặc biệt là những khoản cấp tín dụng bằng nghiệp vụ cho vay của các NHTM
thường có giá trị rất lớn. Bởi lẽ, chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng là cho
vay, ứng vốn cho các chủ thể của nền kinh tế, đặc biệt, đối với các dự án đầu
tư lớn sẽ không thể triển khai nếu không có sự tham gia hỗ trợ của các ngân
hàng.
Thứ hai, nợ xấu của các NHTM là những khoản cho vay khó có khả
năng thu hồi được vốn vay và lãi.

Theo thông lệ quốc tế và quy định cụ thể trong pháp luật của các quốc
gia, nợ xấu được nhận diện trên cả hai phương diện: định mức thời gian quá
hạn của khoản nợ và dự báo về khả năng thu hồi nợ. Việc đặt để yếu tố nào
quan trọng hơn tại mỗi quốc gia được cân nhắc dựa trên trình độ phát triển của
thị trường tiền tệ cũng như truyền thống pháp luật của quốc gia đó. Tuy nhiên,
dù được xem xét dưới góc độ nào, thì nợ xấu cũng được thống nhất nhận định
5

Xem Điều 10 Thông tư 02/2013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích
lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.


11

trên cơ sở khả năng trả nợ của chủ thể vay. Theo đó, nợ xấu là những khoản nợ
đã quá hạn trong một khoảng thời gian xác định hoặc và có dấu hiệu chứng
minh người vay không có khả năng hoàn trả nợ đầy đủ (ví dụ khi người vay
phá sản, người vay đang trong tình trạng giảm sút về hiệu quả kinh doanh, thu
nhập trả nợ). Nói cách khác, nợ xấu là những khoản nợ bị suy giảm khả năng
thu hồi hoặc mất khả năng thu hồi.
Thứ ba, nợ xấu của các NHTM được xác định theo tiêu chuẩn cụ thể và
quy trình phức tạp.
NHTM là chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ - một hoạt động
kinh doanh đặc thù và được kiểm soát chặt chẽ nhất trong hệ thống ngành
nghề kinh doanh có điều kiện. Do đó, việc đánh giá và xác định nợ xấu phải
dựa trên các quy định cụ thể của pháp luật, tuân thủ các chỉ tiêu về đảm bảo an
toàn hoạt động. Trước khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, các NHTM phải xây
dựng quy chế nội bộ về phân loại nợ và tiêu chuẩn xác định nợ xấu cụ thể, cập
nhật và tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật.

1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định nợ xấu đối với hoạt động của các NHTM
Có thể nói, trong rủi ro của tín dụng ngân hàng sự hiện diện của nợ xấu
là một vấn đề tất yếu mà các NHTM phải nghiêm túc đối mặt và có kế hoạch
kiểm soát, xử lý hiệu quả. Việc phân loại nợ và xác định nợ xấu có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với sự an toàn về mặt hoạt động của các NHTM.
Xử lý nợ xấu hiệu quả mang lại rất nhiều cơ hội đầu tư, kinh doanh cho
các NHTM, quá trình này đòi hỏi các ngân NHTM phải nghiêm túc và trung
thực trong việc phân loại nợ, xác định nợ xấu, tiến hành trích lập dự phòng rủi
ro và tích cực trong việc xử lý triệt để nợ xấu.
Một trong những lý do làm gia tăng nợ xấu tại các NHTM xuất phát từ
việc thiếu cẩn trọng trong việc thẩm định các khoản vay. Vì vậy, việc xác định
nợ xấu còn giúp các NHTM sàng lọc các khoản cấp tín dụng, hạn chế sự gia
tăng của nợ xấu cho hoạt động tín dụng trong tương lai.


12

Xác định nợ xấu và xử lý nợ xấu tạo ra động lực cho các NHTM tự mình
nhìn nhận những khiếm khuyết trong bộ máy quản lý, cơ chế vận hành của
hoạt động tín dụng ngân hàng. Từ đó, sự chủ động, quyết liệt trong việc xử lý
các vi phạm về mặt nghiệp vụ cũng như thiết lập các quy định, quy trình nội
bộ hoàn chỉnh và hiệu quả hơn trong cơ chế hoạt động sẽ được chú trọng; cải
tổ khâu quản lý tín dụng cũng là một nhu cầu cấp thiết để đảm bảo an toàn
hoạt động cho các NHTM.
1.2. Khái quát chung về hoạt động xử lý nợ xấu của các NHTM bằng phương
thức mua bán nợ
1.2.1.Khái niệm xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ
Lịch sử phát triển thị trường tài chính tiền tệ đã chứng kiến thời kỳ tỷ lệ
nợ xấu của các quốc gia tăng cao với nhiều nguyên nhân khác nhau. Tham
khảo tại một số quốc gia Châu Á, nhóm các nước như Hàn Quốc, Thái Lan,

Malaysia,… đã phải đối mặt với tỷ lệ xấu tăng cao sau khủng hoảng tài chính
châu Á năm 1997. Cuối năm 1997, tỷ lệ nợ xấu tại Thái Lan đạt mức cao kỷ
lục 46% trên tổng dư nợ tín dụng, tại Hàn Quốc tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là
7,4% và tăng lên 8,3% trong năm 19986, tại Đài Loan là 4,18% trong năm
1997 và lên tới 8,16% vào cuối năm 20017.
Khác với các quốc gia Châu Á khác khi nợ xấu là kết quả của những vụ
sụp đổ thị trường tài chính và bong bóng tài sản, thì nguyên nhân gây ra nợ
xấu của Trung Quốc chính là cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi hoạt
động của các NHTM Nhà nước chỉ như những cơ quan hành chính, có nhiệm

6

Trung tâm thông tin tư liệu – Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương (2013), Giải quyết nợ xấu –
vấn đề mấu chốt trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tr. 6 và tr. 11.
7

Văn Thanh (2013), “Kinh nghiệm về xử lý nợ và tái cơ cấu các tổ chức tài chính của Đài Loan”, xem tại:

/>r=false&showHeader=false&dDocName=CNTHWEBAP01162511400&rightWidth=0%25¢erWidth=8
0%25&_afrLoop=1957856597646626#%40%3F_afrLoop%3D1957856597646626%26centerWidth%3D80
%2525%26dDocName%3DCNTHWEBAP01162511400%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%
2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dx6wb5ijpp_9, ngày truy
cập gần nhất: 10/04/2017.


13

vụ cho vay theo chỉ định cho các công ty và dự án Nhà nước vốn làm ăn kém
hiệu quả, thậm chí thua lỗ. Những khoản vay này cũng không qua quy trình
phân tích tín dụng chặt chẽ nên rủi ro tín dụng là điều không tránh khỏi8.

Để xử lý nợ xấu, các quốc gia kể trên đã đồng thời áp dụng nhiều biện
pháp như: bơm vốn trực tiếp, tái cấu trúc tài chính, phát triển thị trường mua
bán nợ qua việc thành lập các AMC,… Trong đó, đối với việc hình thành các
AMC, tùy thuộc vào nguyên nhân phát sinh nợ xấu và mục tiêu đặt ra khi giải
quyết nợ xấu mà mỗi quốc gia có sự lựa chọn riêng cho cơ chế hoạt động của
các AMC này, đó có thể là mô hình tập trung theo định hướng nhà nước, cũng
có thể là mô hình phi tập trung (phân tán) định hướng thị trường có kết hợp
với định hướng nhà nước. Chính sự ra đời của các AMC đã thúc đẩy thị trường
mua bán nợ ngày càng phát triển.
Về mặt khái niệm, có thể khái quát rằng mua bán nợ là hoạt động mua
bán, theo đó, bên bán nợ chuyển giao toàn bộ nghĩa vụ nợ mà bên nợ hiện
đang nợ bên bán (gồm nợ gốc, lãi, lãi phạt và các khoản phí liên quan đến
khoản nợ đó) cho bên mua nợ và nhận khoản tiền thanh toán tương ứng giá trị
mà hai bên đã thỏa thuận trong giao dịch mua bán này; bên mua nợ có nghĩa
vụ trả tiền cho bên bán; bên bán nợ có nghĩa vụ chuyển giao các quyền của
chủ nợ cho bên mua nợ để họ trở thành chủ sở hữu của khoản nợ đó9. Đây là
hoạt động nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh tài chính, một loại giao dịch
không mang tính “ngang giá” so với các giao dịch vốn trước đó của NHTM
với khách hàng nhằm khơi thông dòng vốn và hạn chế đến mức thấp nhất các
ảnh hưởng tiêu cực của nợ xấu đến hệ thống ngân hàng.
1.2.2.Đặc điểm của hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ
Mua, bán nợ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Muốn phát
triển một nền kinh tế thị trường toàn diện thì phải tạo được các giao dịch nợ
8

9

Trung tâm thông tin tư liệu – Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương - tài liệu đã trích.

Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Thị Thanh Hương (2014), “Thị trường mua bán nợ - Góc nhìn từ lý thuyết cung

cầu”, Tạp chí Ngân hàng, số 4, tr.17 – 22.


14

một cách lành mạnh và thuận lợi10. Phương thức xử lý nợ xấu bằng hoạt động
mua bán nợ có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ là một loại nghiệp
vụ của NHTM và được xác lập dựa trên một giao dịch cấp tín dụng của
NHTM đối với khách hàng. Đặc điểm này cho phép phân biệt với các giao
dịch mang tính tài sản – tiền tệ khác trong giao lưu dân sự, một bên trong quan
hệ mua bán nợ phải là NHTM. Đồng thời, quan hệ mua bán nợ giữa các bên
không phải là giao dịch khởi điểm mà là giao dịch phái sinh trên cơ cở quan hệ
cấp tín dụng đã tồn tại trước đó.
Thứ hai, đối tượng của giao dịch mua, bán nợ là những khoản nợ mà
khách hàng chưa thực hiện thanh toán cho NHTM theo hợp đồng tín dụng;
đồng thời, những khoản nợ này phải có khả năng chuyển nhượng11. Tương tự
như các giao dịch mua bán hàng hóa thông thường, đối tượng của quan hệ
mua, bán nợ cũng phải có tính thanh khoản, bởi lẽ việc chuyển nhượng lại
khoản nợ đã mua từ các NHTM là một nhu cầu tất yếu trong quá trình lưu
thông của khoản nợ đã được đem ra trao đổi.
Thứ ba, các giao dịch mua, bán nợ phải được xác lập dưới một hình thức
pháp lý nhất định, có thể là hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa các bên trong quan
hệ mua bán nợ. Theo đó, NHTM bán nợ phải chuyển giao toàn bộ quyền chủ
nợ cho bên mua nợ. Đồng thời, hoạt động mua bán nợ phải chịu sự điều chỉnh
của pháp luật về chuyển quyền sở hữu như các giao dịch dân sự khác.
Thứ tư, quan hệ mua bán nợ phải được thiết lập trên nguyên tắc bình
đẳng, tự nguyện và công khai. Xét thấy, bản chất của hoạt động xử lý nợ xấu
bằng phương thức mua, bán nợ của các NHTM là một loại giao dịch chuyển


10

Nguyễn Như Minh (2000), “Mua, bán nợ - một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Ngân
hàng, số 3, tr.25 – 28.
11

Nguyễn Thị Bích Mai (2010), Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam và thực tiễn áp dụng, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 9.


15

giao quyền yêu cầu trong dân sự, do vậy, ý chí của các bên trong giao dịch là
một yếu tố quan trọng cần được đảm bảo.
1.2.3.Phân loại các phương thức mua bán nợ
Tùy thuộc vào tiêu chí lựa chọn mà hoạt động mua bán nợ của NHTM có
thể được phân thành các loại khác nhau như sau:
1.2.3.1. Phân loại theo chủ thể của hoạt động mua bán nợ
Nếu phân loại hoạt động mua bán nợ của các NHTM dựa trên tiêu
chí chủ thể thì việc mua bán nợ có thể được phân thành 02 loại sau đây:
Một là, mua bán nợ không có sự tham gia của nhà nước: mua bán
nợ không có sự tham gia của nhà nước là hoạt động mua bán nợ giữa
NHTM với AMC của chính NHTM hoặc giữa NHTM với các doanh
nghiệp có chức năng hoạt động mua bán nợ, NHTM hoặc AMC của
NHTM khác.
Trong mối quan hệ này, hoạt động mua bán nợ diễn ra theo cơ chế
thị trường, tự nguyện, bình đẳng theo nguyên tắc “thuận mua vừa bán”.
Khoản nợ được giao dịch giữa các chủ thể này thường có khả năng thu
hồi nợ tốt hoặc có TSBĐ ổn định.
Hai là, có sự tham gia của nhà nước: mua bán nợ của NHTM có

sự tham gia của nhà nước là hoạt động mua bán nợ được thực hiện giữa
một bên là NHTM (thường đóng vai trò là bên bán nợ) và một bên là một
tổ chức mua bán nợ của do nhà nước thành lập (thường đóng vai trò là
bên mua nợ).
Đây là chủ thể quan trọng đóng vai trò tạo lập thị trường đối với nợ
xấu, các khoản nợ được mua bán tại thị trường này thường là nợ xấu
hoặc rất xấu, khả năng thu hồi nợ kém, giá trị TSBĐ thấp dẫn tới tính
thanh khoản đối với các khoản nợ này ở thị trường bên ngoài là không
cao. Do đó, sự tham gia của tổ chức mua bán nợ do nhà nước thành lập là
cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập thị trường cho các
khoản nợ xấu.


16

Tùy vào quy định của mỗi quốc gia, hoạt động mua bán này có thể
được diễn ra một cách tự nguyện từ NHTM sang các công ty xử lý nợ
quốc gia hoặc được chuyển giao theo yêu cầu của phía cơ quan nhà nước
hoặc cả hai. Thông thường, ngoài tiền mặt thì phương tiện thanh toán
được sử dụng trong hoạt động mua bán nợ là các loại giấy tờ có giá dưới
sự bảo lãnh của Bộ tài chính12.
1.2.3.2. Phân loại theo tính chất tự nguyện, thỏa thuận trong hoạt
động mua bán nợ
Nếu dựa vào tính chất tự nguyện và mức độ thỏa thuận giữa các
chủ thể thể khi thực hiện giao dịch mua bán nợ thì có thể dễ dàng nhận
thấy sự tồn tại của 02 hình thức mua bán với tính chất khác biệt sau:
Thứ nhất, mua bán nợ theo cơ chế thị trường: việc mua bán được
thực hiện theo cơ chế thị trường, thông thường giá trị khoản nợ được xác
định theo giá thị trường, bên mua và bên bán có sự thẩm định và tính
toán kỹ lưỡng, các bên hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận để đạt được sự

thống nhất về các nội dung như: khoản nợ mua bán, thời điểm mua bán,
phương thức chuyển giao, phương tiện thanh toán, ...
Thứ hai, mua bán nợ theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền: tùy thuộc vào tình hình nợ xấu chung của nền kinh tế, kết quả
hoạt động của mỗi NHTM, giá trị và tính chất của các khoản nợ mà phía
cơ quan nhà nước có thể buộc NHTM phải bán lại nợ theo yêu cầu của
cơ quan nhà nước. Như vậy, đối với phương pháp này, tùy vào quy định
cụ thể của mỗi quốc gia mà sự tự nguyện sẽ bị giới hạn một phần hoặc
toàn bộ trong việc: xác định giá trị chuyển nhượng, lựa chọn phương tiện
thanh toán, thời điểm thanh toán, khoản nợ phải chuyển giao, ...
1.2.3.3. Theo tính chất có truy đòi trong hoạt động mua bán nợ

12

Phan Huy Đức (2013), Mô hình AMC giải quyết nợ xấu tại các nước Đông Á, xem thêm
tại ngày truy cập gần nhất: 21/04/2017.


17

Khác với việc chuyển giao các loại tài sản thông thường, trong việc
chuyển giao quyền đòi nợ, do tính chất của loại tài sản này mà vấn đề
truy đòi thường được các bên xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng. Theo đó,
trong giao dịch mua bán nợ, việc truy đòi tồn tại 02 khả năng:
Một là, mua bán nợ có truy đòi: với phương thức mua bán nợ này,
khi chủ thể mua nợ không đòi được khoản nợ từ con nợ mà mình đã mua
lại thì có thể yêu cầu chủ thể bán nợ ban đầu (NHTM) thanh toán lại giá
trị khoản nợ mà mình đã không thu hồi được.
Hai là, mua bán nợ không có truy đòi (mua đứt bán đoạn): trách
nhiệm của bên bán nợ chấm dứt kể từ thời điểm hoàn tất việc chuyển

giao quyền đòi nợ cho bên mua nợ. Bên bán nợ không có nghĩa vụ phải
thanh toán cho bên mua nợ khoản tiền tương ứng với giá trị khoản nợ mà
bên mua nợ không truy thu được từ quyền đòi nợ đã mua.
1.2.4.Vai trò của hoạt động xử lý nợ xấu của NHTM bằng phương thức
mua bán nợ
Tùy thuộc vào nguyên nhân phát sinh, mục tiêu và định hướng của từng
quốc gia khi xử lý nợ xấu mà việc giải quyết bài toán này có thể đòi hỏi việc
áp dụng một, một số hoặc tổng hợp nhiều biện pháp kinh tế, pháp lý, …Mỗi
biện pháp có những ưu, nhược điểm và đóng những vai trò nhất định trong tiến
trình xử lý nợ xấu, riêng đối với hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức
mua bán nợ thì qua nghiên cứu, tác giả đã tổng hợp và rút ra một số vai trò như
sau:
1.2.4.1. Đối với các NHTM
Hoạt động mua bán nợ tạo tính thanh khoản cho các khoản nợ xấu
của NHTM, việc chuyển giao quyền đòi nợ cho chủ thể khác giúp các
NHTM:
Thứ nhất, việc thu hồi sớm được một phần của khoản nợ thông qua
khoản thanh toán nhận được từ bên mua nợ sớm giúp NHTM có dòng


18

vốn để chuyển về lại hoạt động kinh doanh, không bị “ứ đọng” trong tình
trạng nợ xấu.
Trường hợp khoản nợ xấu tiếp tục tồn đọng sẽ càng tạo sức ép lên
lĩnh vực ngân hàng khiến các NHTM không thể chủ động phát triển hoạt
động cho vay, gây cản trở cho các doanh nghiệp khác trong việc tiếp cận
nguồn vốn, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và hậu quả ngược lại là gây nên sự trì trệ trong nền kinh tế. Vì
vậy, thị trường mua bán nợ có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết

các khoản nợ tồn đọng mà các NHTM đang gánh nặng13.
Thứ hai, làm giảm tỷ lệ nợ xấu trên bảng cân đối kế toán của các
NHTM, việc giảm tỉ lệ nợ xấu này giúp NHTM tránh được các giới hạn
trong hoạt động để có thể triển khai các hoạt động kinh doanh một cách
thuận lợi.
Thứ ba, tiết kiệm được thời gian, công sức trực tiếp thu hồi nợ,
không phải tốn thêm các chi phí nhằm giám sát, bảo quản, xử lý TSBĐ
(nếu có), tránh được sự sút giảm khi giá trị tài sản bị hao mòn (khấu hao)
qua thời gian.
Thứ tư, ngoài một số vai trò nêu trên, khi tham gia vào giao dịch
mua bán nợ mà chủ thể mua nợ là các công ty xử lý nợ quốc gia thì chủ
thể đặc biệt này thường có nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ các NHTM như:
hỗ trợ bằng cơ chế phân bổ dần chi phí trích lập dự phòng rủi ro giúp các
NHTM cân đối năng lực tài chính xử lý các tổn thất về nợ xấu (Việt
Nam). Tái cấp vốn với lãi suất thấp (thậm chí là 0%) nhằm cung ứng vốn
cho các TCTD hoạt động kinh doanh ổn định (Việt Nam).
1.2.4.2. Đối với con nợ

13

Vũ Sỹ Cường (2014), “Mua bán nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp: Nhìn từ thực trạng thị trường đến vai trò
của DATC”, xem ngày truy cập gần nhất:
10/04/2017.


19

Việc thay thế chủ nợ cũ là các NHTM (vốn bị nhiều giới hạn từ các
chỉ số an toàn tài chính tới hoạt động đầu tư, ...) bằng chủ nợ mới với
giới hạn ít hơn, các chủ nợ mới thường có nguồn lực tài chính và/hoặc có

các đặc quyền đặc biệt có thể hỗ trợ các con nợ đang ở bờ vực mất khả
năng thanh toán được cơ cấu lại doanh nghiệp. Bằng các biện pháp như:
miễn, giảm một phần nợ, lãi; chứng khoán hóa khoản nợ; cấp vốn cho
các dự án đang thực hiện dở hoặc các hoạt động kinh doanh đang thực
hiện, cử người có năng lực chuyên môn tham gia quản trị doanh
nghiệp,... đã giúp nhiều con nợ hoạt động kinh doanh ổn định trở lại và
trả được khoản nợ.
1.2.4.3. Đối với nhà nước
Thông thường, tỷ lệ nợ xấu sẽ bị các NHTM tìm cách che dấu
nhằm để tránh bị áp đặt bởi các hạn chế pháp lý, tuy nhiên khi thị trường
mua bán nợ được tạo lập và phát triển, tính thanh khoản của các khoản
nợ tăng lên sẽ kéo theo nhu cầu chuyển giao quyền đòi nợ giữa các chủ
thể, qua đó mà phía cơ quan nhà nước có thể nắm rõ hơn về tình hình nợ
xấu thực chất tại các NHTM.
Việc mua bán nợ xấu bằng cơ chế tập trung về cơ quan xử lý nợ
xấu của nhà nước giúp Chính phủ gom nợ xấu từ các NHTM để áp dụng
các biện pháp giải quyết chung, đồng bộ, có hiệu lực cao hơn, qua đó sẽ
giải quyết được nhanh hơn các khoản nợ xấu còn tồn đọng.
Việc Chính phủ mua lại các khoản nợ xấu thông qua các công ty xử
lý nợ quốc gia có thể tạo ra cơ hội cho Chính phủ áp đặt các điều kiện
giúp các ngân hàng tái cấu trúc lại vấn đề tài chính và cơ cấu hoạt động
của mình, qua đó nâng cao năng lực quản trị và hoạt động của các
NHTM này14.

14

Phạm Hồng Thái (2012), “Kinh nghiệm xử lý nợ xấu tại một số nước và hàm ý cho Việt Nam”, Tạp chí tài
chính, số 11, xem tại ngày truy cập gần nhất: 15/03/2017.



×