Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

ôn tập môn phân tích chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.09 KB, 9 trang )

PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH CÔNG
Câu 1 : Ý nghĩa của phân tích chính sách công
1.1. Phân tích chính sách công là điểm khởi đầu của quá trình chính sách
Quản lý xuất hiện khi có quá trình hiệp tác giữa các cá nhân tham gia vào phân công lao động xã hội, là một hoạt
động không thể thiếu trong bất kỳ một tổ chức kinh tế, xã hội nào. Để quá trình quản lý được diễn ra, các chủ thể phải
cần đến “nguyên liệu đặc biệt ở đầu vào” là thông tin. Thông tin giúp cho nhà quản lý nhận biết được chính xác về một
vấn đề nào đó thuộc đối tượng hay môi trường quản lý ở thời điểm phản ánh của thông tin. Thông tin được khai thác ở
xung quanh ta bằng cách chắt lọc, chia tách, kết nối, hiệu chỉnh các nguồn từ những dữ liệu thu thập được. Thông tin
cần cho quản lý bao gồm cả thông tin hiện tại, quá khứ và tương lai, do vậy, nhà quản lý phải biết kết hợp các loại dữ
liệu để có được thông tin hữu ích tại thời điểm ra quyết định quản lý. Tuy nhiên, không phải chỉ đưa ra quyết định là
nhà quản lý đã hoàn thành trách nhiệm, mà họ còn phải tiếp tục quan sát đối tượng và môi trường vận động sau khi tác
động để kịp thời điều chỉnh, đôn đốc đối tượng bằng những quyết định tiếp theo. Việc đưa ra những quyết định tiếp đó
cũng lại bắt đầu từ những hoạt động chắt lọc, xử lý tài liệu như lần ra quyết định trước. Cứ như vậy, các hoạt động cung
cấp thông tin đến cho quản lý diễn ra thường xuyên liên tục thành một chuỗi quá trình không ngưng nghỉ. Toàn bộ quá
trình dẫn xuất từ thu thập dữ liệu đến “chế tạo” thành thông tin cần cho quản lý như đã trình bày trên đây đều thuộc về
hoạt động phân tích.
Phân tích là quá trình phân giải nội dung và hình thức của đối tượng hay quá trình quản lý thông qua những dữ liệu
liên quan để chủ thể có được thông tin trong việc ra quyết định quản lý. Phân tích là điều kiện tiền đề cho hoạt động
quản lý và là bộ phận không thể thiếu được trong mọi tiến trình quản lý.
1.2. Phân tích để khẳng định tính năng của chính sách công
Chính sách công là công cụ quản lý vĩ mô có tính năng khác biệt so với luật hay kế hoạch. Tuy nhiên, ranh giới
giữa các công cụ này không phải lúc nào cũng được phân định một cách rõ ràng, nhất là trong hoạt động xây dựng
chính sách công và soạn thảo luật. Về mối quan hệ giữa chính sách công và luật ở đây được hiểu một cách đơn giản,
chính sách công là nội dung, còn văn bản luật là vỏ bọc chứa đựng chính sách đó dưới dạng ngôn ngữ và hình thức
pháp lý. Xây dựng chính sách công là quá trình quyết định mục tiêu, cách thức và nguồn lực thực hiện, vì vậy nó cần
được phân tích một cách cẩn trọng trước khi quyết định ban hành. Ví dụ, để ban hành chính sách an toàn giao thông,
các nhà hoạch định cần phân tích những nguyên nhân gây tai nạn, thực trạng tai nạn trên các loại đường, trong các
tầng lớp dân cư; những quy định đang có hiệu lực; kinh nghiệm của các nước; xem xét một số phương án giảm thiểu
tai nạn giao thông như giảm tốc độ, thực thi tốt hơn các quy định hiện có, điều kiện cấp giấy phép lái xe, tuyên
truyền, giáo dục. Ngoài ra, cần phân tích chi phí và lợi ích của từng phương án để xem xét tính khả thi và hiệu quả
của chính sách.


Việc phân tích này vừa giúp các cơ quan chính trị có được cơ sở khách quan, khoa học để quyết định xem có
ban hành chính sách công hay không, vừa giúp khẳng định tính năng khuyến khích của chính sách công trong quản
lý nhà nước. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, cần coi phân tích là phương tiện hỗ trợ cho quá trình ban hành chính
sách công, chứ không phải là mục đích của nó. Muốn vậy, việc phân tích chính sách công cần tập trung vào những
vấn đề do các nhà hoạch định chính sách đã đề ra, chứ không phải vào những vấn đề do chuyên gia xác định. Không
nên quá chú trọng đến phân tích kỹ thuật, mà cần nêu rõ những giá trị mà việc phân tích chính sách công hướng tới,
những đối tượng tác động cần được chú trọng hơn và những biến thể trong hành vi của cá nhân, xã hội có thể xảy ra
khi có tác động của chính sách công.
1.3. Phân tích để đánh giá được tính khả thi của chính sách công
- Tính khả thi của chính sách công trước hết thể hiện ở những mục tiêu của chính sách mà Chính phủ dự kiến theo
đuổi có thiết thực không. Nếu thiết thực thì có khả năng hiện thực hóa không và nếu thực hiện được thì có phù hợp
với giá trị chung của xã hội không... Kết quả phân tích này được coi là căn cứ quan trọng nhất để cơ quan nhà nước


có thẩm quyền ra quyết nghị chính sách. Sau khi ban hành chính sách công, cơ quan nhà nước các cấp cần xem xét
tính phù hợp giữa nguyện vọng của đối tượng thụ hưởng với mục tiêu của chính sách công để kịp thời đề xuất điều
chỉnh, bổ sung làm cho mục tiêu của chính sách công ngày càng sát thực với đời sống xã hội.
- Tính khả thi của chính sách công còn tùy thuộc vào tính hệ thống của chính sách công. Hệ thống chính sách là tập
hợp các chính sách có những đặc trưng giống nhau về mục tiêu hay tính chất được xếp đặt theo một trật tự nhất định
do chủ thể yêu cầu. Tính hệ thống của chính sách công cần được xem xét trên các mặt: Thứ nhất, chính sách mới
ban hành có bảo đảm là một chính sách tốt không, hay chỉ là những biện pháp thực thi chính sách; thứ hai, chính
sách mới ban hành có phù hợp với hệ thống đã có không, hay còn tạo nên những xung khắc với các chính sách đã
có; thứ ba, chính sách mới ban hành có trợ giúp gì cho hệ thống như khắc phục được những tồn tại hiện có của hệ
thống hay thúc đẩy hệ thống vận động tốt hơn. Để có kết luận về những điều trên, chắc chắn phải tiến hành phân tích
một cách toàn diện, hệ thống.
- Một chính sách khả thi còn phải phù hợp với môi trường tồn tại của các đối tượng hay quá trình quản lý. Môi
trường cho các thực thể hoạt động bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, tự nhiên... và những yếu tố này
cũng thường xuyên biến động. Để tổ chức không bị thất bại trước những thách thức của môi trường, nhất là sự ảnh
hưởng khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường, chủ thể quản lý nhà nước phải dùng chính sách để tạo động lực trực
tiếp cho tổ chức, giúp chúng đứng vững trước những tác động tiêu cực của môi trường, đồng thời làm cho tổ chức có

được những điều chỉnh cần thiết phù hợp với yêu cầu biến đổi môi trường. Như vậy, trong từng điều kiện không
gian và thời gian, nhà nước sẽ có những chính sách ứng phó nhất định. Muốn biết các chính sách đó có thích hợp với
môi trường không chúng ta cần phân tích cụ thể từng loại chính sách trong các điều kiện khác nhau.
- Phân tích chính sách công để thấy được lòng tin của người thực hiện với cơ quan ban hành. Quan hệ giữa tổ chức và
người thực hiện chính sách với cơ quan hoạch định là quan hệ biện chứng thể hiện trên các mặt như: chủ thể ban hành
chính sách đồng thời cũng là chủ thể quản lý xã hội, nên lợi ích của nhà nước là thống nhất nằm trong mục tiêu chung
của chính sách; mục tiêu lâu dài đối với sự phát triển của tổ chức là do sự thống nhất xây dựng của chủ thể và khách
thể, còn mục tiêu chính sách là cụ thể trong quá trình tiến tới mục tiêu chung; do có lợi ích thống nhất nên ý chí của chủ
thể ban hành chính sách cũng là nguyện vọng của những người thực thi chính sách và ngược lại, khi họ có nguyện vọng
chính đáng thì chủ thể cũng sẽ ban hành chính sách để đáp ứng; một khi đời sống của người thụ hưởng chính sách càng
được nâng cao về lượng và chất, thì họ càng yêu cầu nhà nước ban hành chính sách cần phải hoàn thiện để có được
những chính sách ngày càng sát thực hơn. Sự tác động qua lại giữa cơ quan nhà nước và người thực thi chính sách sẽ
được từng bước củng cố, làm cho lòng tin của người thực thi chính sách đối với nhà nước ngày một tăng cường. Trên
thực tế, kết quả quan hệ đó chính là nền tảng của mọi quá trình chính sách, là yếu tố quyết định sự thành bại của một
chính sách. Để đánh giá được lòng tin của người thực thi chính sách vào Nhà nước cần phải thường xuyên phân tích
chính sách công.
Với những lý do xác thực trên đây đã cho thấy đầy đủ tính tất yếu khách quan của phân tích chính sách
công. Đồng thời, đây còn là một hoạt động không thể thiếu trong chu trình chính sách công.
Câu 2 : Các yếu tố tác động đến phân tích chính sách công
2.1. Yếu tố chính trị
Thái độ chính trị của nhà nước được thể hiện trong các chính sách công để ứng xử với các đối tượng và quá trình kinh tế xã hội, nên chính sách công luôn mang tính chính trị rõ nét. Nhà nước đưa chính sách vào cuộc sống cũng nhằm mục đích
duy trì các hoạt động xã hội diễn ra theo định hướng chính trị. Để theo dõi, đánh giá quá trình thực thi chính sách công có
đáp ứng yêu cầu quản lý của nhà nước hay không, chúng ta phải tiến hành phân tích chính sách công. Qua phân tích chính
sách công, nhà nước biết được tính đúng đắn hay không của định hướng chính trị; biết được mục tiêu mà nhà nước đang
theo đuổi thông qua chính sách công có phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân hay không; đánh
giá được lòng tin của nhân dân vào nhà nước đến đâu; quyền lực của nhà nước đối với xã hội cao hay thấp... Xét cho cùng,


phân tích chính sách công cũng là một hoạt động thể hiện ý chí của nhà nước đối với xã hội. Kết quả phân tích chính sách
công giúp cho nhà nước ngày càng hoàn thiện định hướng chính trị của mình, từ đó củng cố vị thế của nhà nước trong xã

hội. Như vậy có thể thấy, định hướng chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình và kết quả phân tích chính sách công.
2. Yếu tố kinh tế - xã hội
Tác động của chính sách công làm cho đời sống xã hội ngày càng phát triển về cả lượng và chất. Trình độ văn hoá
xã hội nâng lên giúp cho người dân ý thức được đầy đủ hơn về chính sách công và phân tích chính sách công, từ đó
họ tự giác tham gia đóng góp vào quá trình phân tích chính sách công tích cực hơn. Sự tự giác tham gia của các đối
tượng vào quá trình chính sách công cũng làm cho kết quả phân tích chính sách công rõ ràng, chính xác hơn. Đồng
thời điều kiện kinh tế được cải thiện sẽ tạo thuận lợi cho việc cung cấp các yếu tố vật chất - kỹ thuật và tài chính cho
quá trình phân tích. Từ góc độ này có thể thấy được sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội đến kết quả và quá
trình phân tích chính sách công. Hoặc nhìn từ một góc độ khác, xã hội phát triển dẫn đến những yêu cầu cao hơn,
hoàn thiện hơn đối với hệ thống chính sách công của nhà nước. Những biến đổi về quy mô, trình độ trong hệ thống
chính sách công của nhà nước đòi hỏi hoạt động phân tích chính sách công cũng thay đổi thích ứng.
3. Yếu tố năng lực, trình độ của chủ thể
Chủ thể là yếu tố trung tâm, quyết định đến việc hoàn thành số lượng, chất lượng phân tích chính sách công. Năng
lực, trình độ của chủ thể phân tích được thể hiện trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Nếu chủ thể có trình độ
năng lực tốt sẽ có khả năng hoàn thành khối lượng công việc phân tích lớn, có độ chính xác cao trong một thời gian
ngắn. Họ có khả năng ứng dụng và làm chủ những công nghệ hiện đại vào chuyên môn để tăng năng suất lao động.
Có khả năng tiếp cận thực tế để có được thông tin xác thực cho quá trình phân tích. Đồng thời họ còn có khả năng
nhận thức chính trị tốt, từ đó có ý thức định hướng trong suốt quá trình phân tích chính sách công. Với vai trò quan
trọng như vậy nên yếu tố con người luôn được các nhà quản lý quan tâm phát triển.
4. Yếu tố quan hệ quốc tế
Môi trường vận động của chu trình chính sách công nói chung, hoạt động phân tích chính sách công nói riêng bao gồm cả
môi trường quốc tế. Theo quy luật vận động chung của thời đại, môi trường quốc tế ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hoá, các quốc gia luôn phải điều chỉnh các
chính sách đối nội cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong điều kiện quốc tế hoá hiện nay, các quốc gia cần thường xuyên
theo dõi, phân tích, đánh giá các chính sách hiện có để kịp thời phát hiện những bất cập trong chính sách và tổ chức thực
thi chính sách so với yêu cầu hội nhập để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Khi quan hệ quốc tế mở rộng, tầm bao quát
trong phân tích chính sách công càng lớn. Chúng ta phải phân tích từ vấn đề chính sách, đến mục tiêu, cơ chế, biện pháp
chính sách, v.v., xem có mang tính quốc tế hay không, có phù hợp với xu thế thời đại hay không. Trong điều kiện hội
nhập, chúng ta có nhiều thời cơ giao lưu trên các lĩnh vực hoạt động, trong đó có trao đổi, tiếp thu những thành tựu về
khoa học chính sách công và phân tích chính sách công. Những quan hệ quốc tế mới này giúp chúng ta có thêm kinh

nghiệm và mở rộng đầu tư trang thiết bị kỹ thuật cho công tác phân tích chính sách công. Qua đó cho thấy yếu tố quốc tế
có ảnh hưởng ngày càng sâu rộng đến các hoạt động chính sách của quốc gia nói chung, phân tích chính sách công nói
riêng.
Câu 3 : Căn cứ lựa chọn phương pháp phân tích chính sách công
3.1. Căn cứ vào mục đích của từng loại hoạt động phân tích



Căn cứ vào mục đích của từng loại hoạt động phân tích, các nhà phân tích có thể lựa chọn các phương pháp

phân tích khác nhau như:
- Phân tích hàn lâm hay còn gọi là phân tích nghiên cứu, là phương pháp phân tích nhằm đúc kết một vấn đề thành
nguyên lý trong một thời gian nhất định, trên phạm vi rộng. Hoạt động phân tích này thường được các trường, các
viện nghiên cứu khoa học sử dụng dưới các hình thức như các đề tài, các dự án, hay các công trình nghiên cứu khoa
học. Mục đích của loại phân tích này là kiến tạo các lý thuyết lớn về lĩnh vực chính sách công. Để đạt được mục


đích này, các nhà phân tích thường sử dụng hệ thống phương pháp luận chặt chẽ kết hợp với trắc nghiệm lý thuyết
trên thực tế.
- Phân tích nhân quả là phương pháp phân tích nhằm dự đoán những ảnh hưởng thực tế của việc thực thi các chính
sách công. Khách hàng của loại phân tích này là các nhà hoạch định chính sách công và các ngành khoa học có liên
quan. Khi tiến hành các hoạt động phân tích này người ta thường áp dụng các phương pháp nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học xã hội như phương pháp nghiên cứu xã hội học, tâm lý học, phương pháp thống kê, so sánh, chuyên
gia...
- Phân tích báo chí là hoạt động phân tích nhằm tập trung sự chú ý của công luận đối với các vấn đề xã hội quan
trọng, bức xúc trong một khoảng thời gian nhất định. Phương pháp thường hay được sử dụng đối với loại phân tích
này chủ yếu là phương pháp mô tả và phân tích phổ cập.
- Phân tích chính sách chuyên nghiệp (phân tích nhanh) là hoạt động phân tích nhằm tìm ra những cách thức
giải quyết vấn đề chính sách công trong một khoảng thời gian nhất định trên một phạm vi không gian cụ thể.
Khách hàng của loại hoạt động phân tích này là các nhà hoạch định chính sách công với mong muốn đặt ra là giải

quyết được các vấn đề xã hội. Trong trường hợp này, các nhà phân tích phải đứng trước áp lực về thời gian. Tức
là trong một thời gian rất ngắn họ phải phân tích tất cả những dữ liệu sẵn có để dự đoán và nhanh chóng đưa ra
được những lời khuyên thiết thực nhất. Vì vậy, loại hoạt động phân tích này còn được gọi là phân tích nhanh
(phân tích cơ bản). Kết quả phân tích nhanh sẽ là cơ sở giúp cho các nhà hoạch định chính sách công tránh được
những sai lầm không đáng có khi đề ra các quyết định chính sách công.
Trong một chừng mực nào đó, phân tích chuyên nghiệp có thể phức tạp hơn so với phương pháp phân tích
hàn lâm, bởi vì phân tích hàn lâm thường tuân theo các bước cố định và các hành vi chuẩn mực mang tính khoa học.
Còn phân tích chuyên nghiệp cần làm thế nào để cho người sử dụng hiểu rõ vấn đề một cách có căn cứ để từ đó
hoạch định được một chính sách tốt nhất. Muốn thực hiện được điều này, giữa các nhà phân tích và các nhà hoạch
định chính sách phải có những liên hệ thông qua các công cụ giao tiếp. Chính vì vậy, có một số ý kiến cho rằng phân
tích chuyên nghiệp mang tính thực tiễn nhiều hơn so với phân tích hàn lâm.
Nếu như mục tiêu của phân tích hàn lâm là thiên về việc lựa chọn các phương pháp luận chặt chẽ để xây
dựng và trắc nghiệm các lý thuyết thì phân tích chuyên nghiệp lại tập trung vào các phương pháp có khả năng tìm ra
các cách thức giải quyết vấn đề nhanh nhất, tốt nhất trong khuôn khổ thời gian hạn chế. Các phương pháp thường
được sử dụng đối với loại phân tích này là phương pháp mang tính tổng hợp, hệ thống, phương pháp điều tra, khảo
sát, thống kê, so sánh, phân tích chi phí - lợi ích, thực nghiệm, bán thực nghiệm, phân tích quyết định...
3.2. Căn cứ vào quá trình chính sách công
Theo các bước trong quá trình chính sách công thì hoạt động phân tích có thể tiến hành trước, trong và sau khi chính
sách công đã được thực hiện. Việc lựa chọn các phương pháp phân tích cũng cần phải phù hợp với các nội dung
phân tích trong từng giai đoạn của quá trình chính sách công:
- Phân tích được tiến hành trước khi thực hiện chính sách hay còn gọi là phân tích tiền chính sách là để dự đoán các
kết quả đầu ra của các chính sách thay thế. Trên cơ sở đó sẽ lựa chọn được chính sách tốt nhất. Vì vậy, các phương
pháp phân tích có thể sử dụng trong giai đoạn này là phương pháp phân tích dự báo, phương pháp phân tích lợi - ích
chi phí, phương pháp thực nghiệm, phương pháp phân tích đa mục tiêu...
- Phân tích được tiến hành sau khi thực hiện là để mô tả và đánh giá kết quả thực hiện của các chính sách công, xem
chính sách công có được thực hiện đúng như thiết kế hay không, nếu có sự khác biệt thì tìm nguyên nhân giải thích
cho sự khác biệt đó. Do đó, các phương pháp phân tích chủ yếu trong giai đoạn này là tập trung vào việc đo lường
kết quả đầu ra của chính sách công, ví dụ phương pháp điều tra, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích lợi
ích - chi phí, các phép đo hiệu quả, phương pháp phân tích mô tả, phân tích thống kê và phân tích đánh giá.
- Phân tích được tiến hành trong khi thực hiện là để mô tả và đánh giá chính sách công sau khi nó vừa được đưa



vào thực hiện trong một khoảng thời gian ngắn. Mục đích là để nâng cao tính thực thi trong giai đoạn tiếp theo.
Vì vậy, có thể xếp hoạt động phân tích trong khi thực thi vào cùng với nhóm hoạt động sau khi thực thi chính
sách công.
Phân tích chính sách công trước và sau khi thực hiện đều quan trọng như nhau. Chất lượng của tiền phân tích sẽ
được củng cố và hoàn thiện bởi phân tích sau khi thực hiện. Việc tìm ra các nguyên nhân thất bại của chính sách
công là cơ sở cho việc duy trì, giám sát quá trình thực thi chính sách công có thể ngăn chặn, phòng ngừa trước một
số thất bại.
Tóm lại, các loại hoạt động phân tích khác nhau thì có những mục đích khác nhau và các phương pháp lựa chọn
cho từng loại hoạt động phân tích cũng khác nhau.
Câu 4 : Các phương pháp phân tích giải pháp chính sách công
a. Phương pháp phân tích hệ thống
Để hiểu được phương pháp phân tích hệ thống, trước hết cần phải hiểu khái niệm hệ thống và những phạm trù có
liên quan đến hệ thống.
a.1. Khái niệm và điều kiện tồn tại của hệ thống
Hệ thống là một tập hợp các phần tử có liên quan tác động qua lại với nhau một cách có quy luật, tạo thành một thể
thống nhất để có thể thực hiện được một hay một số chức năng, nhiệm vụ nhất định.
Một hệ thống bất kỳ muốn tồn tại cần phải có những điều kiện chủ yếu sau đây:
- Phải có nhiều bộ phận hợp thành;
- Các bộ phận hợp thành có quan hệ, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau;
- Các bộ phận phải kết nối thành một thể thống nhất, nếu tách rời thì không tạo ra sức mạnh để tổ chức thực hiện
được mục tiêu chung.
a.2. Quá trình vận động của hệ thống
Mỗi hệ thống đều nằm trong một bối cảnh, môi trường nhất định. Môi trường là toàn bộ yếu tố bên ngoài hệ thống,
có tác động ảnh hưởng tới hệ thống và nó cũng chịu sự tác động của hệ thống. Với chính sách công, môi trường tồn
tại là các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, hành chính... Những yếu tố đó ảnh hưởng đến tiến trình chính
sách và chúng cũng chịu sự tác động của hệ thống chính sách. Các hệ thống này luôn luôn vận động và phát triển
nhờ duy trì được sự tồn tại các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của hệ thống.
Đầu vào của hệ thống chính sách gồm nhiều yếu tố như vật chất, thông tin, lao động, tài chính, tổ chức, điều hành...

Các yếu tố này được đưa đến đầu vào của hệ thống để xử lý, chế biến nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của hệ
thống.
Đầu ra của chính sách là kết quả chế biến những yếu tố đầu vào của hệ thống, tác động lên các đối tượng chính
sách. Đó chính là kết quả của việc thực thi chính sách công.
a.3. Vận dụng phương pháp hệ thống vào phân tích chính sách công
Khi sử dụng phương pháp phân tích hệ thống cần chú ý đến ba tính chất cơ bản của hệ thống như sau:
- Các phần tử trong hệ thống liên kết và tương tác với nhau theo mối quan hệ nhân quả. Điều này có nghĩa là mỗi sự
tác động của một hay một số phần tử đều kéo theo sự thay đổi của các phần tử còn lại. Tác động này mang cả tính
trực tiếp và gián tiếp.
- Thêm hoặc bớt một số phần tử mới cũng như điều chỉnh một mối quan hệ nhất định giữa các phần tử có sẵn sẽ kéo
theo sự thay đổi của những quan hệ còn lại giữa các phần tử khác trong hệ thống.
- Tính “trội” của hệ thống (biểu hiện của phép biện chứng về sự thay đổi lượng thành chất) được hình thành từ
những mối quan hệ bên trong. Các phần tử có thể rất khác nhau, nhưng khi hợp thành hệ thống thì tạo nên một sự
thống nhất và có tính chất mới khác tính chất của các phần tử thành phần. Từ đây suy ra, nếu biết kết hợp đúng đắn
các phần tử trong khi xây dựng hệ thống thì có thể tạo nên một sức mạnh mới được cộng hưởng từ các phần tử thành


phần trong hệ thống.
Vận dụng các đặc tính trên vào quá trình hoạch định chính sách công có thể thấy, khi đưa thêm một chính sách công
mới phù hợp (mang tính hệ thống) vào hệ thống chính sách công hiện hành có thể làm tăng hiệu lực của mỗi chính
sách trong hệ thống. Ngược lại, nếu xây dựng chính sách công thiếu tính hệ thống thì chính sách công mới có thể
mâu thuẫn với các chính sách công đã có và gây khó khăn cho công tác quản lý.
5. Phương pháp phân tích rủi ro
5.1. Căn cứ vào bản chất của đối tượng có thể sử dụng phương pháp theo lý thuyết quyết định và lý thuyết xác suất
- Lý thuyết quyết định
+ Trong quá trình quản lý rủi ro, sau khi nhận dạng rủi ro và lập bảng liệt kê tất cả các rủi ro có thể có đối với một
chương trình, dự án, là tiến hành phân tích rủi ro cho dự án để xác định đúng nguyên nhân gây ra rủi ro, trên cơ sở
đó mới có thể tìm ra các biện pháp quản lý hiệu quả.
+ Lý thuyết quyết định hỗ trợ đắc lực cho quá trình ra quyết định trong điều kiện có nhiều bất trắc, trong đó có cả
các quyết định ngắn hạn, trung hạn, hoặc dài hạn tuỳ từng trường hợp cụ thể. Lý thuyết này giả thiết giá trị các biến

quyết định là đã biết một cách chắc chắn.
+ Phương pháp phân tích lý thuyết quyết định bao gồm: phương pháp phân tích lôgích, phương pháp phân tích chuỗi
đầu - cuối, phương pháp ma trận quyết định, phương pháp phân tích cây quyết định…
Phương pháp này thường được thực hiện theo các bước sau đây:
+ Xác định và xây dựng phương án giải quyết vấn đề;
+ Đánh giá giá trị và những bất trắc đối với các đầu ra có thể;
+ Xác định sự lựa chọn tối ưu nhất;
+ Thực hiện quyết định.
- Lý thuyết xác suất
Trên thực tế, phương pháp phân tích theo lý thuyết quyết định có thể không được sử dụng trong nhiều trường hợp,
vì giá trị của các biến quyết định là chưa thể biết một cách chắc chắn. Trong khi đó, lý thuyết xác suất lại xem xét
được các yếu tố khi không xác định một cách chắc chắn. Phương pháp phân tích theo lý thuyết xác suất bao gồm:
phương pháp xác suất chủ quan và phương pháp xác suất khách quan. Các bước thực hiện phương pháp này là:
+ Xác định xác suất xảy ra các rủi ro;
+ Xác định mức độ ảnh hưởng nếu các rủi ro đó xảy ra;
+ Đánh giá giá trị đối với toàn bộ hoạt động của tổ chức;
+ Đưa ra kết luận và thực hiện.
5.2.Căn cứ vào hình thức thể hiện của đối tượng chịu rủi ro có thể sử dụng phương pháp phân tích định tính và
phân tích định lượng.
- Phương pháp phân tích định tính trong phân tích rủi ro

• Mục đích của phân tích định tính là nhằm đánh giá tổng thể xem rủi ro tác động đến những bộ phận nào và mức
độ ảnh hưởng của nó đến đâu đối với từng bộ phận và toàn bộ hoạt động của tổ chức. Phân tích định tính là việc
mô tả tác động của mỗi loại rủi ro và sắp xếp chúng vào từng nhóm mức độ như: rủi ro cao, trung bình hay thấp.
Đối với những loại công việc đơn giản có thể chỉ áp dụng phương pháp định tính để xác định rủi ro. Ngoài ra
cũng có một số hoạt động không thể áp dụng phương pháp phân tích định lượng thì việc phân tích định tính để
xác định rủi ro là rất cần thiết.

• Phương pháp phân tích định tính được thể hiện bằng các phương pháp cụ thể sau đây:


+ Phương pháp chuyên gia cũng là một trong các phương pháp định tính. Với phương pháp này, người ta thu thập
ý kiến của các chuyên gia để đánh giá xác suất xảy ra rủi ro và mức độ xảy ra rủi ro một cách định tính. Phương


pháp này có thể được tiến hành thông qua việc tổ chức họp chung để lấy ý kiến chuyên gia (phương pháp chuyên gia
tập thể); hoặc thông qua việc bỏ phiếu kín để ý kiến các chuyên gia không ảnh hưởng đến nhau (phương pháp
Delphi). Xác suất xuất hiện rủi ro có thể được mô tả một cách định tính như là rất thấp, thấp, bình thường, cao, và
rất cao.
Mức độ tác động của rủi ro cũng có thể được mô tả một cách đơn giản như là rất cao, cao, bình thường, thấp, và
rất thấp, trên cơ sở đó người ta gắn giá trị cụ thể cho mức độ tác động này. Các giá trị này có thể là tuyến tính (như:
1, 3, 5, 7, 9) hoặc phi tuyến (như: 1, 2, 4, 8, 16).
Trên cơ sở kết hợp xác suất xuất hiện và mức độ tác động của rủi ro, ma trận rủi ro được xây dựng để xác định các mức độ
rủi ro (rất thấp, thấp, bình thường, cao, và rất cao).
+ Phương pháp đầu - cuối
. Phương pháp này xác định chuỗi các mục tiêu và một loạt các hành động để đạt được các mục tiêu đó. Nó dựa trên
một thực tế là mỗi mục tiêu dẫn tới một quyết định được lựa chọn sẽ là cơ sở để đi đến một quyết định khác tiếp
theo. Nguyên tắc xây dựng chuỗi đầu - cuối là biện pháp chính làm cơ sở để đạt được một mục tiêu, và từ đó dẫn
đến một mục tiêu tiếp theo cao hơn. Trên cơ sở xây dựng chuỗi đầu - cuối, ta có thể xem xét đến các rủi ro có thể,
cũng như đưa ra các tình huống tốt nhất và xấu nhất có thể xảy ra.
. Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến trong lĩnh vực xây dựng. Ví dụ, tổ chức xác định đi từ biện pháp A1
để đạt mục tiêu A, song trong thực tế các vấn đề thường có mối quan hệ đa chiều phức tạp, vì thế khi chúng ta muốn
đạt được mục tiêu A, chúng ta không chỉ cần thực hiện các biện pháp A1, mà còn phải trên cơ sở kết thúc mục tiêu
B. Việc kết thúc B cũng chỉ là một mục tiêu chuyển tiếp và nó cũng khá khó khăn để có thể đạt được, vì vậy chúng
ta phải thực hiện các biện pháp B1. Theo cách xây dựng chuỗi đầu - cuối tiếp tục như vậy cho đến khi chuỗi đòi hỏi
phải thực hiện một biện pháp nào đó không thể thực hiện được.
+ Phương pháp phân tích mô tả
. Phương pháp này được tiến hành trên cơ sở mô tả các tình huống xấu tốt có thể xảy ra. Đây là các tình huống giả
định, từ đó tiến hành phân tích xác suất và mức độ tác động của rủi ro một cách định tính theo kinh nghiệm và trình
độ của các chuyên gia và các nhà quản lý tổ chức.
- Phương pháp phân tích định lượng : Phân tích định lượng là việc sử dụng các phương pháp toán, thống kê và

tin học để ước lượng rủi ro về chi phí, thời gian, nguồn lực và mức độ bất định. Một số công cụ thường sử
dụng để lượng hóa rủi ro như phân tích mạng, phân tích xác suất, phương pháp đồ thị, phân tích quan hệ…
Câu 5 : Hệ thống phân tích, đánh giá chính sách công ở Trung ương
Hệ thống phân tích chính sách công ở Trung ương bao gồm:
- Hệ thống phân tích sáng kiến chính sách. Sáng kiến chính sách được hiểu là những ý tưởng về việc giải quyết
những vấn đề công phát sinh trong đời sống xã hội bằng chính sách công của nhà nước để đạt những giá trị chung
đối với sự phát triển. Sáng kiến chính sách thường được đề cập trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc tại các
cuộc hội họp, gặp mặt với các nhóm lợi ích trong xã hội. Bộ phận phân tích sáng kiến chính sách có trách nhiệm
xem xét, đánh giá về tính chân thực của các đề xuất. Đồng thời phân tích mức độ cần thiết về giải quyết mâu thuẫn
hay nhu cầu xã hội theo sáng kiến trong khả năng của nhà nước. Kết quả phân tích sáng kiến chính sách làm cơ sở
để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét hoạch định hay điều chỉnh chính sách công. Sáng kiến chính sách
có liên quan đến nhiều đối tượng xã hội, nhiều ngành hay địa phương trong cả nước và được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, nên bộ phận phân tích, đánh giá sáng kiến chính sách ở Trung ương thường được tổ chức gắn
liền với cơ quan nghiên cứu chính sách của các bộ, ngành chức năng, cơ quan đại diện cho các giới chức ở Trung
ương, và các bộ phận phân tích tổng hợp của Quốc hội hay Chính phủ.
- Hệ thống phân tích đệ trình chính sách. Đệ trình chính sách được hiểu là tập hợp những vấn đề đã và đang phát
sinh trong xã hội cần được nhà nước xem xét giải quyết để đáp ứng với nhu cầu, nguyện vọng của các nhóm lợi ích.


Phân tích đệ trình chính sách là bước tiếp theo của phân tích sáng kiến chính sách, nhưng ở bước cao hơn, vì đó là
những vấn đề đã được các cơ quan chủ quản ở Trung ương và chính quyền các cấp quan tâm đề xuất. Kết quả phân
tích đệ trình chính sách được chuyển đến Chính phủ hay Quốc hội xem xét quyết định có xây dựng chính sách công
hay không. Để giúp cho các chủ thể có được quyết định đúng đắn, bộ phận phân tích đệ trình chính sách cần phải
xem xét nội dung đệ trình chính sách một cách cẩn trọng. Khi phân tích nội dung đệ trình chính sách phải so sánh
giữa các vấn đề với nhau và với định hướng quản lý nhà nước về nội dung, tính chất của những vấn đề giải quyết.
Đồng thời phải đặt các vấn đề đệ trình trong mối quan hệ tổng thể với các vấn đề khác trong cùng một hệ thống để
xem xét được toàn diện, cân đối mọi mặt của vấn đề, tránh tình trạng phiến diện, cục bộ hay nóng vội trong phán
quyết đệ trình chính sách. Với mục đích này, bộ phận phân tích đệ trình chính sách ở Trung ương được gắn với cơ
quan quản lý chính sách của Chính phủ và Quốc hội.
- Bộ phận phân tích hoạch định chính sách công. Phân tích hoạch định chính sách là bước tiếp theo của phân tích

đệ trình chính sách, nhằm xem xét, đánh giá các bước xây dựng chính sách công và mô hình chính sách công, để
giúp Chính phủ có căn cứ ban hành chính sách công. Sau khi đệ trình chính sách được chấp thuận, Chính phủ giao
cho các cơ quan chủ trì và phối hợp xây dựng dự thảo chính sách công. Hoạt động phân tích hoạch định chính sách
công bao gồm:
Một là, phân tích quá trình dự thảo các phương án chính sách công của các cơ quan để bảo đảm rằng phương án
chính sách công được xây dựng có căn cứ khoa học.
Hai là, phân tích các phương án dự thảo theo tiêu chuẩn của một chính sách công tốt để đưa ra lựa chọn chính thức
trong hội nghị thường kỳ của Chính phủ.
Ba là, phân tích tính khả thi của phương án chính sách công được Chính phủ lựa chọn.
Bốn là, phân tích quá trình và kết quả khảo nghiệm của phương án chính sách công được lựa chọn. Kết quả phân
tích này được dùng để hoàn thiện phương án lựa chọn trước khi chính thức ban hành.
Năm là, phân tích thời điểm ban hành chính sách công để có được kết luận về thời cơ ban hành chính sách công.
Bộ phận phân tích hoạch định chính sách công được bố trí cùng với cơ quan phân tích chính sách công của Chính
phủ hay tại các cơ quan chịu trách nhiệm việc dự thảo phương án chính sách công.
- Bộ phận phân tích triển khai tổ chức thực thi chính sách công. Sau khi chính sách công được Chính phủ ban
hành sẽ được triển khai vào đời sống. Phân tích triển khai chính sách ở cấp vĩ mô nhằm xem xét, đánh giá tình hình
thực hiện từ bước xây dựng kế hoạch triển khai đến tổ chức thực thi chính sách công của các cơ quan quản lý vĩ mô
ở Trung ương. Bộ phận này phân tích tính khả thi của kế hoạch triển khai tổ chức thực thi chính sách công do các
bộ, ngành xây dựng, để giúp cho các cơ quan này hoàn thiện kế hoạch trước khi triển khai thực hiện chính sách
công. Đồng thời phân tích các hoạt động tuyên truyền chính sách công và phân công phối hợp thực hiện trong
ngành, giữa các ngành, giữa ngành với địa phương trong cả nước. Bộ phận phân tích triển khai tổ chức thực thi
chính sách ở tầm vĩ mô được bố trí kết hợp với cơ quan phân tích chính sách công của các cơ quan quản lý ngành ở
Trung ương.
- Bộ phận phân tích điều chỉnh và thực thi chính sách công. Đây là bộ phận được thành lập để phân tích những
vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức thực thi chính sách công. Thực chất chính sách công cũng chỉ là những dự
kiến về cách ứng xử của nhà nước với các vấn đề kinh tế - xã hội, bởi vậy chắc chắn giữa chính sách công với thực
tế có khoảng cách. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách công của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng
trong tình trạng như vậy. Những lý do đó dẫn đến nhu cầu điều chỉnh, bổ sung và kế hoạch triển khai thực hiện
chính sách công. Người kiến nghị bổ sung, điều chỉnh thường là cấp thực thi chính sách công, còn người điều chỉnh,
bổ sung phải là cấp ban hành chính sách công. Trên thực tế người kiến nghị điều chỉnh, bổ sung cũng có thể là các

quan chức cấp cao của bộ hay Chính phủ. Để giải quyết tốt mối quan hệ này cần phải căn cứ vào nhiều điều kiện,
nhưng trước tiên phải dựa vào kết quả phân tích tình hình chung về tổ chức thực thi chính sách công, trong đó có kết


quả phân tích những kiến nghị, bổ sung chính sách công. Theo quy trình đó, bộ phận phân tích kiến nghị điều chỉnh,
bổ sung và kế hoạch triển khai sẽ được bố trí gắn với cơ quan phân tích chính sách công ở các bộ, ngành và Chính
phủ.
Tóm lại, việc xây dựng hệ thống phân tích chính sách công ở Trung ương nên gắn với chức năng quản lý vĩ mô về
chính sách công, không nên dàn trải hệ thống theo cả quá trình phân tích. Làm như vậy vừa tạo cho hệ thống thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phân tích chính sách ở tầm vĩ mô, vừa không gây ra sự chồng chéo trong
phân tích chính sách công với các cơ quan thừa hành ở địa phương. Đồng thời sẽ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của công tác phân tích chính sách công của toàn hệ thống nói chung, của hệ thống phân tích chính sách công ở
Trung ương nói riêng.



×