Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tìm hiểu cơ sở pháp lý cho hoạt động xử lý TSBĐ tại TCTD những vướng mắc trong quá trình xử lý TSBĐ từ năm 2012 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.53 KB, 18 trang )

Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

MỤC LỤC
Mục lục …………………………………………………………………….. Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………………. 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ TSBĐ …………………………………..
1
II. CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ TSBĐ TẠI TCTD…………….
3
1. Các trường hợp được xử lý TSBĐ ……………………………………..
3
2. Nguyên tắc xử lý TSBĐ …………………………………………………
4
5
3. Thứ tự ưu tiên thanh toán ……………………………………………….
5
4. Các phương thức xử lý TSBĐ ……………………………………….....
5. Thời hạn xử lý TSBĐ …………………………………………………..
9
III. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
TỪ NĂM 2012 TRỞ LẠI ĐÂY …………………………………………………. 9
IV. ĐỀ XUẤT PHÁP LÝ NHẰM THÁO GỠ NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ
TRÌNH XỬ LÝ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TẠI TCTD ………………………….
13

KẾT LUẬN ………………………………………………………………….
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………....


15
16

 Một số từ viết tắt trong bài làm:
1.
2.
3.
4.
5.

TSBĐ
TCTD
TTLT
BLDS


: TSBĐ.
: Tổ chức tín dụng.
: TTLT.
: BLDS.
: NĐ.
ĐẶT VẤN ĐỀ

TSBĐ (TSBĐ) được xử lý khi nghĩa vụ được bảo đảm có sự vi phạm hoặc trong
các trường hợp do pháp luật quy định. Kết quả của việc xử lý TSBĐ không những ảnh
hưởng đến lợi ích của các bên trong quan hệ chính được giao kết mà còn có thể ảnh
hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác có liên quan đến TSBĐ, do vậy, việc xử lý
1

1

Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

TSBĐ phải được tiến hành theo những quy định cụ thể, chặt chẽ của pháp luật. Vậy cụ
thể, hoạt động xử lý TSBĐ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ở nước ta có những cơ sở
pháp lý nào? Trong quá trình xử lý TSBĐ từ năm 2012 trở lại đây có những vướng mắc
gì? Và có những đề xuất pháp lý gì để tháo gỡ những vướng mắc đó?. Để thấy rõ được
những vấn đề này, nhóm em xin đi vào tìm hiểu đề tài:“Tìm hiểu cơ sở pháp lý cho hoạt
động xử lý TSBĐ tại TCTD; Những vướng mắc trong quá trình xử lý TSBĐ từ năm 2012
trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý”. Sau đây là bài giải quyết các vấn đề đưa ra:
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ TSBĐ.
Dưới góc độ kinh tế, xử lý TSBĐ được hiểu là việc bán TSBĐ nhằm thu giữ lại
những lợi ích (trong phạm vi TSBĐ) thuộc về bên nhận bảo đảm một cách nhanh
chóng và chủ động. Xử lý TSBĐ là sự hiện thực hóa quyền của bên nhận bảo đảm khi
quyền lợi đã không được bảo đảm ở một quan hệ đã được thiết lập trước đó. TSBĐ
được tồn tại dưới dạng quyền hay vật, thông qua xử lý, chúng được quy đổi ra tiền để
tìm giá trị tương đương nhằm bù đắp cho những lợi ích của bên nhận bảo đảm. Tính
thanh khoản của TSBĐ là một trong những yếu tố có tính chất quyết định đến tính hiệu
quả của quá trình xử lý; Giá trị của TSBĐ cũng ảnh hưởng đến việc có bảo đảm được
toàn bộ quyền lợi của bên nhận bảo đảm hay không. Như vậy, xử lý TSBĐ là một khâu
quan trọng để đảm bảo an toàn cho quyền lợi của các chủ thể, thúc đẩy sự phát triển
của hoạt động tín dụng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Dưới góc độ pháp lý, xử lý TSBĐ được xem là một giai đoạn của quá trình bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ thông qua hợp đồng bảo đảm, với các yếu tố: (i).chủ thể có
quyền xử lý TSBĐ được xác định theo sự thỏa thuận của bên nhận bảo đảm và bên bảo

đảm hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (ii).bên nhận bảo đảm
có quyền yêu cầu bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chuyển giao TSBĐ, bán TSBĐ để
bù đắp cho thiệt hại do việc không thực hiện nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác.
2

2
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

Qua những lý giải và phân tích trên, có thể hiểu, hoạt động xử lý TSBĐ là quá
trình thực thi quyền của bên nhận bảo đảm thông qua việc tiến hành các thủ tục định
đoạt quyền sở hữu TSBĐ và số tiền thu được sẽ thanh toán cho bên nhận bảo đảm và
các chủ thể khác có cùng quyền lợi trên tài sản đó theo thứ tự ưu tiên do các bên thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định.
Như vậy, một cách tổng quát có thể thấy rằng, hoạt động xử lý TSBĐ có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất: đối tượng tác động trực tiếp của việc xử lý chính là TSBĐ.
Thức hai: hậu quả pháp lý của việc xử lý TSBĐ là làm chấm dứt quyền sở hữu
của bên bảo đảm đối với tài sản đó.
Thứ ba: phương thức xử lý TSBĐ rất đa dạng, phong phú và phụ thuộc vào sự
thỏa thuận của các bên, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thứ tư: số tiền thu được từ xử lý TSBĐ có thể được đảm bảo cho lợi ích của
nhiều chủ thể theo thứ tự ưu tiên được xác lập theo luật định hoặc theo sự thỏa thuận
của các bên.
Thứ năm: quá trình xử lý TSBĐ cần phải tuân thủ các quy định khác về thủ tục

hành chính, ví dụ như: thủ tục buộc bên thế chấp phải chuyển giao tài sản nếu không tự
nguyện hay các thủ tục sang tên tài sản trong trường hợp đó là tài sản có đăng ký
quyền sở hữu như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở…
Thứ sáu: kết quả hoạt động xử lý TSBĐ bị chi phối bởi các yếu tố cơ bản như:
TSBĐ phải hợp pháp và có tính thanh khoản; Bên bảo đảm có thiện chí trong việc
chuyển giao tài sản cho bên có quyền xử lý TSBĐ; Căn cứ xác định thứ tự ưu tiên
thanh toán giữa các bên có liên quan đếnTSBĐ; và việc dễ dàng xác lập quyền sở hữu
của bên mua đối với TSBĐ.
II. CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ TSBĐ TẠI TCTD.
Trước đây, cơ sở pháp lý trong việc xử lý TSBĐ tại TCTD là TTLT
số 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 của TCTD Nhà
3

3
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

nước, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính và Tổng cục địa chính hướng dẫn việc xử
lý TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ cho các TCTD. Tuy nhiên, Thông tư này đã hết hiệu lực
do căn cứ ban hành là NĐ 178/1999/NĐ-CP đã bị bãi bỏ. Hiện nay đối với hoạt động
xử lý TSBĐ tại TCTD, pháp luật TCTD chưa có văn bản cụ thể điều chỉnh, do đó hoạt
động này vẫn đang chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự về giao dịch bảo đảm, bao
gồm có các văn bản sau:
- BLDS năm 2005;
- NĐ số163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm;
- NĐ số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một

số điều của NĐ số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ
-

về giao dịch bảo đảm.
Các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan khác như: Luật đất đai 2003,
Luật nhà ở 2005, Luật hôn nhân và gia đình 2000,..
TCTD nhận TSBĐ là tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh. Đối với các biện

pháp bảo đảm là ký cược, đặt cọc, ký quỹ thì TSBĐ là một khoản tiền nhất định, còn
tín chấp là uy tín của TCTD, do đó không đặt ra vấn đề xử lý TSBĐ đối với các biện
pháp bảo đảm đã nêu trên.
Như vậy có thể thấy rằng, theo quy định pháp luật hiện hành, việc xử lý TSBĐ
tại các TCTD được quy định cụ thể như sau:
1. Các trường hợp được xử lý TSBĐ.
Theo các quy định của BLDS như: Điều 336, Điều 355, Điều 369 và hướng
dẫn tại Điều 56 NĐ số 163/2006/NĐ-CP thì khi có các căn cứ sau, TCTD được phép
xử lý TSBĐ để đảm bảo quyền lợi của mình:
Thứ nhất, đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm đó. Giả sử A vay
TCTD X 100 triệu đồng trong thời hạn 1 năm, thế chấp bằng quyền sử dụng đất, hết
thời hạn 1 năm, A vẫn không trả tiền, khi đó được coi là A không thực hiện nghĩa vụ,
và TCTD có quyền mang quyền sử dụng đất đã thế chấp ra xử lý để thu hồi nợ lãi và
gốc mà A chưa trả.
4

4
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2


Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

Thứ hai, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn
do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Ví dụ như: M
vay của TCTD Y 500 triệu đồng trong thời hạn 2 năm có thế chấp bằng xe ô tô thuộc
quyền sở hữu của M, trong đó có thỏa thuận: nếu trong thời hạn 1 năm M có sự vi
phạm về thời hạn trả lãi thì M phải trả cả nợ gốc lẫn nợ lãi cho TCTD Y trong thời hạn
1 năm đó, nếu không TCTD Y sẽ tổ chức bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Trong thời
hạn 1 năm đó, M đã có sự chậm trễ trong việc trả lãi theo thời gian quy định của
TCTD. M cũng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc lẫn nợ lãi cho TCTD Y. Trong
trường hợp này, TCTD Y có quyền xử lý TSBĐ trên để thu hồi nợ gốc và nợ lãi như
hai bên đã thỏa thuận.
Thứ ba, pháp luật quy định TSBĐ phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ khác.
Thứ tư, các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
2. Nguyên tắc xử lý TSBĐ.
Theo các quy định tại Điều 336, Điều 337, Điều 355, Điều 369, hướng dẫn tại
Điều 58 NĐ số 163/2006/NĐ-CP và hướng dẫn tại khoản 15 Điều 1 NĐ số 11/2012
/NĐ-CP thì việc xử lý TSBĐ phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì
việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên; nếu không có thoả
thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
- Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì
việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của bên bảo đảm và các bên cùng
nhận bảo đảm; nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì tài sản được
bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
- Việc xử lý TSBĐ phải được thực hiện một cách khách quan, công
khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch
bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định của pháp luật.


5

5
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

- Người xử lý TSBĐ là TCTD hoặc người được TCTD ủy quyền, trừ trường hợp
các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thoả thuận khác. TCTD căn cứ vào nội dung đã
thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý TSBĐ mà không cần phải có
văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm. Mặt khác, việc xử lý TSBĐ để thu
hồi nợ phải không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của TCTD.
3. Thứ tự ưu tiên thanh toán.
Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ được xác định theo Điều 325 BLDS
2005, cụ thể như sau:
-

Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký thì việc xác định thứ tự ưu
tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ được xác định theo thứ tự đăng ký;

-

Trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ
dân sự mà có giao dịch bảo đảm có đăng ký, có giao dịch bảo đảm không đăng
ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký được ưu tiên thanh toán;


-

Trong trường hợp một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự
mà các giao dịch bảo đảm đều không có đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán
được xác định theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm.

4. Các phương thức xử lý TSBĐ.
Qua nghiên cứu quy định của các văn bản trên, có thể thấy, có hai phương thức
xử lý TSBĐ, đó là: Do các bên thỏa thuận hoặc bán đấu giá.
a. Đối với phương thức bán đấu giá tài sản: Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài
sản được thực hiện theo quy định tại NĐ số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của
Chính phủ và Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp.

6

6
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

b. Đối với phương thức xử lý tài sản do các bên thỏa thuận (Điều 59 NĐ
163/2006/NĐ-CP):
b.1. Bán TSBĐ. Trong trường hợp các bên thỏa thuận về việc bán tài sản không
thông qua phương thức bán đấu giá thì việc bán TSBĐ được thực hiện theo các quy
định về bán tài sản trong BLDS và quy định sau đây:
- Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức có chức năng thẩm
định giá tài sản để có cơ sở xác định giá bán TSBĐ;

- TCTD phải thanh toán cho bên bảo đảm số tiền chênh lệch giữa giá bán TSBĐ
với giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm, trừ khi có thỏa thuận khác;
- Sau khi có kết quả bán tài sản thì chủ sở hữu tài sản và bên có quyền xử lý
TSBĐ có trách nhiệm thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật để chuyển
quyền sở hữu tài sản cho bên mua TSBĐ.”( khoản 2 điều 64a NĐ 11/2012/NĐ-CP)
b.2. TCTD nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo
đảm. Trường hợp các bên thỏa thuận về việc nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc
thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm thì việc nhận TSBĐ được thực hiện như sau:
- Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức có chức năng thẩm
định giá tài sản để có cơ sở xác định giá trị của TSBĐ;
- Trong trường hợp giá trị của TSBĐ lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm
thì tổ chức tín dụng phải thanh toán số tiền chênh lệch đó cho bên bảo đảm, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác;
- Bên nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ phải xuất trình
văn bản chứng minh quyền được xử lý TSBĐ và kết quả xử lý TSBĐ cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khi chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ.

7

7
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

b.3. TCTD nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba trong trường hợp
thế chấp quyền đòi nợ. TCTD có quyền yêu cầu người thứ ba là người có nghĩa vụ trả
nợ chuyển giao các khoản tiền hoặc tài sản khác cho mình hoặc cho người được uỷ

quyền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ trả nợ yêu cầu thì TCTD phải chứng minh
quyền được đòi nợ. Trong trường hợp TCTD đồng thời là người có nghĩa vụ trả nợ thì
TCTD được bù trừ khoản tiền đó.(Điều 66 NĐ163/2006/NĐ-CP)
b.4. Phương thức khác do các bên thoả thuận: các phương thức xử lý này do các
bên thỏa thuận ngoài các trường hợp đã nêu trên. Ví dụ như: TCTD được chủ động
chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán
đấu giá tài sản khi thực hiện xử lý TSBĐ. Tuy nhiên cần phải chú ý về sự thỏa thuận
của các bên được xác định tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm hay thời điểm xử
lý TSBĐ, đặc biệt là trong trường hợp một tài sản được bảo đảm nhiều nghĩa vụ và
phương thức xử lý TSBĐ được thỏa thuận khác nhau.
c. Một số phương thức khác mà pháp luật có quy định:
-

Đối với việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh, Điều 369 BLDS năm 2005 quy định
như sau: “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được
bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho
bên nhận bảo lãnh”. Như vậy, thay vì phải xử lý TSBĐ theo phương thức do
các bên đã thỏa thuận trước hoặc đưa TSBĐ ra bán đấu giá khi bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong trường hợp bảo lãnh,
lúc này “bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán
cho bên nhận bảo lãnh”. Như vậy, có vẻ như trong giao dịch bảo lãnh, phương
thức nhận chính tài sản của bên bảo lãnh thay thế cho việc thực hiện hoặc hoàn

8

8
Nhóm 01 – Lớp N03.



Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

tất việc thực hiện nghĩa vụ là lựa chọn duy nhất của các bên tham gia giao kết
hình thức giao dịch bảo đảm.
-

Cách thức “Xử lý quyền sử dụng đất đã thế chấp” được ghi nhận tại Điều 721

BLDS năm 2005, theo đó “Khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế
chấp quyền sử dụng đất mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ thì quyền sử dụng đất đã thế chấp được xử lý theo thỏa thuận; nếu không có
thỏa thuận hoặc không xử lý được theo thỏa thuận thì bên nhận thế chấp có quyền
khởi kiện tại Tòa án”. Như vậy, trong trường hợpTSBĐ là quyền sử dụng đất, cách
thức xử lý tài sản thế chấp lại được pháp luật quy định theo một quan điểm hoàn toàn
khác. Căn cứ nội dung điều luật kể trên, chúng ta thấy phương thức đưa TSBĐ là
quyền sử dụng đất ra bán đấu giá (trong trường hợp phương thức bán đấu giá không
phải là một trong các phương thức xử lý do các bên đã thỏa thuận trước) đã bị loại bỏ.
Nói theo cách khác, TSBĐ là quyền sử dụng đất chỉ có thể “được xử lý theo thỏa
thuận; nếu không có thỏa thuận hoặc không xử lý được theo thỏa thuận thì bên nhận
thế chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án”. Như vậy, lần đầu tiên vai trò của Tòa án trong
vấn đề xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất đã chính thức được ghi nhận.
d. Xử lý TSBĐ khi không có thỏa thuận về phương thức xử lý.
- Điều 68 NĐ số 163/2006/NĐ-CP về xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất trong trường hợp không có thoả thuận về phương thức xử lý thì các tài
sản này được bán đấu giá. Trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà
không thế chấp quyền sử dụng đất thì khi xử lý tài sản gắn liền với đất, người mua,
người nhận chính tài sản gắn liền với đất đó được tiếp tục sử dụng đất. Quyền và nghĩa
vụ của bên thế chấp trong hợp đồng về quyền sử dụng đất giữa bên thế chấp và người

sử dụng đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính tài sản gắn liền với
đất, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
9

9
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

- Đối với việc xử lý TSBĐ là giấy tờ có giá thì Điều 67 NĐ số 163/2006 quy
định về xử lý TSBĐ là giấy tờ có giá, vận đơn, thẻ tiết kiệm được tiến hành như sau:
Việc xử lý TSBĐ là trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu, giấy tờ có giá khác và thẻ tiết kiệm
được thực hiện theo quy định của pháp luật về trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu, giấy tờ
có giá khác và thẻ tiết kiệm; Bên nhận cầm cố vận đơn có quyền xuất trình vận đơn
theo thủ tục được pháp luật quy định để thực hiện quyền chiếm hữu đối với hàng hoá
ghi trên vận đơn đó. Việc xử lý hàng hoá ghi trên vận đơn được thực hiện theo quy
định tại Điều 65 NĐ 163/2006/NĐ-CP.
Trong trường hợp người giữ hàng hóa không chuyển giao hàng hoá theo vận
đơn cho TCTD mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường cho TCTD; Trong trường hợp
TCTD đồng thời là người có nghĩa vụ thanh toán thì TCTD được bù trừ khoản tiền đó.
- Xử lý TSBĐ là động sản trong trường hợp không có thoả thuận về phương thức
xử lý thì TSBĐ được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Riêng đối với TSBĐ có
thế xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì người xử lý tài sản được bán
theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá, đồng thời phải thông báo
cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác (nếu có).
5. Thời hạn xử lý TSBĐ.
TSBĐ được xử lý trong thời hạn do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa

thuận thì người xử lý tài sản có quyền quyết định về thời hạn xử lý, nhưng không được
trước 7 ngày đối với động sản, 15 ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về
việc xử lý TSBĐ (Điều 62 NĐ số163/2006/NĐ-CP). Đối với TSBĐ có nguy cơ mất
giá trị hoặc giảm sút giá trị, TSBĐ là quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm, vận
đơn thì người xử lý tài sản có quyền xử lý ngay, kể từ thời điểm quyền xử lý TSBĐ có
hiệu lực trên thực tế (khoản 2 Điều 61 NĐ số 163/2006/NĐ-CP).

10

10
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

III. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
TỪ NĂM 2012 TRỞ LẠI ĐÂY.
Hiện nay ở nước ta, pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung và pháp luật liên
quan đến xử lý TSBĐ nói riêng về cơ bản đã hoàn thiện, song do đến nay vẫn chưa có
một văn bản pháp luật chuyên ngành cụ thể nào hướng dẫn về việc xử lý TSBĐ tại các
TCTD nên trên thực tế, hoạt động xử lý TSBĐ tại các TCTD gặp không ít khó khăn,
vướng mắc. Có thể thấy những vướng mắc đó như:
Thứ nhất: Khi TCTD là TCTD và chủ sở hữu phối hợp với nhau để bán TSBĐ.
Trong bối cảnh sức mua yếu, nền kinh tế còn nhiều khó khăn và thị trường bất động
sản tiếp tục đóng băng như hiện nay, TSBĐ rất khó bán và thường có giá trị thấp hơn
nhiều so với giá trị TSBĐ lúc định giá để cho vay. Bên cạnh đó, tư cách chủ thể tham
gia giao dịch mua bán TSBĐ của TCTD hiện vẫn còn có các ý kiến khác nhau, chặng
hạn như: Một số cơ quan chức năng cho rằng, TCTD không đủ tư cách đại diện được

ủy quyền của chủ sở hữu để bán/chuyển nhượng TSBĐ vì các văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành (pháp luật về đất đai, pháp luật về nhà ở…) quy định bên
bán/chuyển nhượng tài sản phải là chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền.
TCTD là một tổ chức có tư cách pháp nhân, nên TCTD không thuộc đối tượng được ủy
quyền theo quy định của BLDS. Nhưng ngược với quan điểm nêu trên, một số cơ quan
và chuyên gia lại cho rằng, khái niệm “người” trong BLDS cần được hiểu bao gồm cả
pháp nhân và cá nhân. Tuy nhiên, quan điểm này lại thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng để bảo
vệ vì cả BLDS và các văn bản hướng dẫn đều không quy định hoặc có giải thích rõ từ
“người” trong BLDS. Do vậy, quy định “Người xử lý tài sản căn cứ nội dung đã được
thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý TSBĐ mà không cần phải có
văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm” rất khó được thực hiện thống nhất ở
tất cả các địa phương trên cả nước.
Thứ hai: Khi TCTD tự xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Trong nhiều trường hợp,
TCTD tự bán TSBĐ để thu nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp, cầm cố... có
11

11
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

thể tiết kiệm được thời gian và chi phí. Hơn nữa, một số trường hợp không còn tồn tại
nữa hoặc không hợp tác với TCTD để xử lý TSBĐ vì cho rằng, TCTD đã được ủy
quyền và được toàn quyền xử lý TSBĐ để thu nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng, hợp đồng thế chấp/cầm cố tài sản... Tuy nhiên, trong quá trình xử lý TSBĐ,
ngoài hạn chế về tư cách bán/chuyển nhượng TSBĐ nêu trên, TCTD còn gặp không ít
khó khăn, vướng mắc sau:

Trong việc thu giữ TSBĐ: Ðể xử lý được TSBĐ là động sản (chủ yếu là phương
tiện vận tải đường bộ và đường thủy: ô tô, tàu thủy, xà lan…), trước hết TCTD phải
thông báo cho bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bàn giao TSBĐ. Ðến hết thời hạn theo
thông báo mà bên bảo đảm không tự nguyện bàn giao tài sản, TCTD vẫn tiến hành thu
giữ TSBĐ để niêm phong, thực hiện thủ tục bán công khai phù hợp với quy định của
pháp luật. Việc thu giữ TSBĐ được lập thành văn bản có sự chứng kiến của chính
quyền địa phương và/hoặc cơ quan chức năng, trong đó nêu rõ căn cứ thu giữ, đối
tượng thu giữ, thời gian và địa điểm thu giữ. Do pháp luật về giao dịch bảo đảm không
quy định, nên khi thu giữ TSBĐ, TCTD phải vận dụng quy định tương tự về thi hành
án, biên bản thu giữ TSBĐ được ký xác nhận của chính quyền địa phương và/hoặc cơ
quan chức năng nơi tiến hành thu giữ tài sản thế chấp, cầm cố và nêu rõ việc bên bảo
đảm không chịu ký biên bản nếu bên bảo đảm chứng kiến việc thu giữ đó. Tuy nhiên,
khi phương tiện vận tải đang lưu thông, thì TCTD khó có thể thu giữ được tài sản đó
nếu không có sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của công an và chính quyền địa phương. Mặt
khác, trường hợp bên bảo đảm có dấu hiệu chống đối, gây cản trở cho việc thu giữ tài
sản của TCDT, thì cơ quan công an và chính quyền địa phương chưa thực sự quyết liệt
phối hợp, hỗ trợ TCTD thu giữ, xử lý TSBĐ theo đề nghị của TCTD. Thực tế, khi nhận
được văn bản đề nghị phối hợp, hỗ trợ thu giữ và xử lý TSBĐ của TCTD, cơ quan
chính quyền địa phương (ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn) và cơ quan công an
chưa coi đấy là nhiệm vụ, trách nhiệm của mình như quy định tại Ðiều 63 NĐ số

12

12
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam


163/2006/NÐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ, thậm chí né tránh vì quan ngại đến
trách nhiệm hoặc vì lý do khác.
Trong việc làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho người
mua: Căn cứ thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm (có công chứng và đăng ký giao dịch
bảo đảm), TCTD được quyền tự chọn phương thức xử lý TSBĐ để thu nợ: bên bảo
đảm tự bán TSBĐ, bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm phối hợp bán TSBĐ, bán đấu
giá TSBĐ, bên cho vay nhận chính TSBĐ để thay thế cho nghĩa vụ được bảo đảm, bên
nhận bảo đảm tổ chức bán công khai trên thị trường mà không phải qua thủ tục đấu
giá, phương thức khác do các bên thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật. Tùy
từng trượng hợp cụ thể mà TCTD có thể xử lý TSBĐ theo một trong các phương thức
nêu trên. Ðối với TSBĐ là động sản, phần lớn TCTD tự tổ chức bán tài sản công khai
trên thị trường trên cơ sở vận dụng phương thức bán đấu giá tài sản theo quy định của
pháp luật về bán đấu giá (đăng báo, niêm yết thông báo bán tài sản tại trụ sở, website
của TCTD và nơi có tài sản). Sau khi TSBĐ được bán cho người mua, bên nhận bảo
đảm phối hợp với người mua làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
Tuy nhiên, thực tế cơ quan công chứng yêu cầu TCTD ký hợp đồng với tư cách là bên
bán TSBĐ phải có văn bản ủy quyền hợp pháp của chủ sở hữu tài sản và cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản không
chấp nhận TCTD xuất hóa đơn giái trị gia tăng vì tài sản chưa thuộc sở hữu của TCTD.
Ðây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến TSBĐ tồn đọng nhiều, không xử lý
được, có giá trị lớn và nợ xấu chưa giảm nhanh, nhất là trong điều kiện bên bảo đảm
không hợp tác, phối hợp với TCTD để xử lý TSBĐ để trả nợ.
Thứ ba: Mặc dù, pháp luật hiện hành có quy định cho phép các bên có thể thỏa
thuận, trong đó TCTD được nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
của bên bảo đảm. Nhưng, trên thực tế việc áp dụng phương thức xử lý TSBĐ này gặp
rất nhiều khó khăn, vướng mắc, bởi lẽ, pháp luật hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể
về trình tự, thủ tục nhận và đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ đối với
13


13
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

trường hợp này cụ thể như: TCTD có phải ký hợp đồng chuyển nhượng TSBĐ với bên
bảo đảm hay không? Có cần chứng nhận của cơ quan công chứng hay chỉ cần văn bản
thỏa thuận giữa TCTD và bên bảo đảm có nội dung bên bảo đảm đồng ý giao TSBĐ
theo giá đã được TCTD và bên bảo đảm thỏa thuận để TCTD nhận và trừ khoản nợ của
bên bảo đảm… Việc đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với TSBĐ mà TCTD
đã nhận của khách hàng còn có những vướng mắc. Cụ thể như trong trường hợp, khách
hàng vay vốn hoặc bên bảo đảm đồng ý bàn giao cho TCTD quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất (đã thế chấp cho TCTD theo đúng quy định của pháp luật) để
TCTD nhận thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm. Qua tham khảo tại
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Văn phòng đăng ký đất và nhà) về việc đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thì cơ quan này yêu cầu TCTD phải có hợp đồng
chuyển nhượng tài sản giữa bên bảo đảm với TCTD, có chứng nhận của cơ quan công
chứng thì cơ quan này mới đăng ký quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho
TCTD.Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 70 NĐ số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ thì
thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ được thực hiện theo quy định của
pháp luật về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản. Do những vướng mắc trong
việc đăng ký quyền sở hữu, sử dụng TSBĐ như vậy nên nhiều TCTD còn e ngại khi áp
dụng phương thức xử lý TSBĐ theo hình thức “Bên nhận bảo đảm nhận chính TSBĐ
để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm”.
Thứ tư: Trong hoạt động xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất tại các TCTD thương
mại, áp dụng theo khoản 3 Điều 130 Luật Đất đai năm 2003, có thể thấy, liên quan đến
TSBĐ là quyền sử dụng đất, tuy pháp luật trao việc lựa chọn phương thức xử lý TSBĐ

cho các bên quyết định theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nhưng trong hầu hết các
trường hợp, khi có hành vi vi phạm xảy ra - bên vay không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn, bên có tài sản thế chấp không dễ dàng
hợp tác với TCTD để xử lý tài sản thế chấp này nên việc định giá và chuyển quyền sử
dụng đất vẫn phải phụ thuộc nhiều vào ý chí của chủ sở hữu, gây khó khăn cho TCTD
14

14
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

trong quá trình xử lý (ví dụ: Chủ sở hữu tài sản bỏ trốn hoặc không chịu ký vào biên
bản định giá tài sản hoặc không chịu ký văn bản chuyển giao quyền sở hữu cho bên
mua, bên nhận chính TSBĐ). Một trong các phương thức xử lý tài sản thế chấp mà
pháp luật quy định là bán đấu giá tài sản nhưng trên thực tế, hoạt động xử lý tài sản thế
chấp rất cần sự hỗ trợ từ chính các quy định và sự hoạt động chuyên nghiệp của tổ
chức đấu giá và tổ chức định giá bán tài sản. Tuy nhiên, hoạt động định giá ở nước ta
hiện nay chưa mang tính phổ biến và chuyên nghiệp nên việc xác định giá bán tài sản
thế chấp gặp nhiều khó khăn, thậm chí phát sinh nhiều tranh chấp, ảnh hưởng đến tiến
độ xử lý tài sản thế chấp. Quy trình tố tụng hiện hành cũng dẫn đến khó khăn cho các
tổ chức tín dụng trong quá trình tiếp cận tài sản thế chấp và giải quyết các tranh chấp
liên quan đến tài sản thế chấp. Dù nhiều trường hợp, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất đã được các bên ký kết theo đúng quy định của pháp luật (hợp đồng được công
chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm), nhưng khi phát sinh tranh chấp thì Tòa án vẫn phải
giải quyết theo một quy trình tố tụng chung nên dẫn đến hệ quả là tài sản không đủ để
thanh toán nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án do giá trị bị giảm, bị hư hỏng,

bị tẩu tán. Ngoài ra, kết quả xử lý TSBĐ vẫn còn phụ thuộc vào cách thức giải quyết
của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản
khi bên nhận bảo đảm thực hiện thủ tục sang tên, trước bạ đối với TSBĐ.
IV. ĐỀ XUẤT PHÁP LÝ NHẰM THÁO GỠ NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG
QUÁ TRÌNH XỬ LÝ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TẠI TCTD.
Trước thực trạng xử lý TSBĐ tại các TCTD như đã nói ở trên, nhóm xin đưa ra
một số đề xuất pháp lý nhằm tháo gỡ những vướng mắc trên như sau:
Bộ Tư pháp cần chủ trì phối hợp với các Bộ liên quan hoàn thiện, sớm ban hành
TTLT hướng dẫn xử lý TSBĐ theo NĐ số 163/2006/NÐ-CP và NĐ số 11/2012/NÐ
CP của Chính phủ, trong đó hướng dẫn rõ các vấn đề sau:
(1). Quy định hướng dẫn rõ tư cách chủ thể của TCTD khi tham gia giao dịch
mua bán TSBĐ theo hướng, từ “người” được quy định trong BLDS đực hiểu là bao
15

15
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

gồm cả pháp nhân và cá nhân để góp phần làm quy định: “Người xử lý tài sản căn cứ
nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý TSBĐ mà
không cần phải có văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm” được thực hiện
thống nhất ở tất cả các địa phương trên cả nước.
(2). Quy định nhiệm vụ và trách nhiệm do không thực hiện nhiệm vụ của cơ
quan có thẩm quyền trong việc hỗ trợ TCTD thu giữ TSBĐ để xử lý đê việc xử lý
TSBĐ của tổ chức tín dụng được thuận lợi hơn trên thực tế trong các trường hợp như:
TSBĐ là phương tiện vận tải đang lưu thông; bên bảo đảm có dấu hiệu chống đối, gây

cản trở cho việc thu giữ tài sản của TCDT; cơ quan chính quyền địa phương và cơ quan
công an chưa coi sự hỗ trợ đấy là nhiệm vụ, trách nhiệm của mình như quy định tại
Ðiều 63 NĐ số 163/2006/NÐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ.
(3). Quy định khi TCTD làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản cho người mua TSBĐ với tư cách là người bán, không bắt buộc phải có văn bản ủy
quyền hợp pháp của chủ sở hữu tài sản để quá trình xử lý TSBĐ của TCTD được diễn
ra nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn, xóa bỏ tình trạng TSBĐ tồn đọng nhiều, không xử
lý được khi bên bảo đảm không hợp tác.
(4). Quy định vê vấn đề xử lý TSBĐ trong trường hợp TCTD nhận chính TSBĐ
để thay thế nghĩa vụ được bảo đảm, đặc biệt là thủ tục và hồ sơ liên quan đến việc
chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ.
(5). Trong NĐ 163/2006/NĐ-CP có một chương quy định về việc xử lý TSBĐ,
tuy nhiên trong quá trình thực hiện quyền xử lý TSBĐ, các TCTD vẫn gặp rất nhiều
khó khăn, vướng mắc, ví dụ như: Việc các trung tâm bán đấu giá yêu cầu việc xử lý
TSBĐ phải được sự chấp thuận của chủ sở hữu tài sản, chủ sở hữu tài sản trực tiếp đề
nghị bán hoặc ủy quyền cho TCTD được bán tài sản theo thủ tục bán đấu giá. Rõ ràng
yêu cầu này rất khó thực hiện, thậm chí không thực hiện được vì bên bảo đảm sẽ không
thiện chí phối hợp để xử lý TSBĐ, điều này dẫn đến không thể thực hiện được quyền

16

16
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

xử lý TSBĐ mà pháp luật đã quy định.Vì những lẽ trên, để khắc phục những tình trạng

này, nhóm đề xuất những giải pháp như sau:
-

Quy định rõ ràng trình tự, thủ tục xử lý TSBĐ, để bảo đảm rằng trường hợp bên
bảo đảm không thiện chí, không phối hợp xử lý tài sản, bên nhận bảo đảm vẫn
có cơ chế xử lỹ được TSBĐ để thu hồi nợ mà không nhất thiết phải khởi kiện

nhằm tiết kiện thời gian, chi phí.
- Cần phân biệt thu giữ tài sản là động sản và bất động sản là quyền sử dụng đất
nhà ở…Theo đó, đối với TSBĐ là bất động sản thì bên nhận bảo đảm không cần
tiến hành thủ tục thu giữ mà chỉ cần có văn bản thông báo về việc xử lý TSBĐ…
(6). Về phương thức xử lý TSBĐ, kiến nghị Chính phủ nên cho các TCTD tự tổ
chức đấu giá tài sản thế chấp thu hồi nợ vay, với sự giám sát của một tổ chức có thẩm
quyền cho khách quan và được gán nợ khi cần thiết, giúp cho các tổ chức tín dụng
được chủ động và thu hồi nợ vay nhanh hơn.
KẾT LUẬN
Xử lý TSBĐ là một vấn đề luôn được dành sự quan tâm thích đáng của nhiều
người trong xã hội. Hiểu quả của việc xử lý TSBĐ có ảnh hưởng mang tính quyết định
đến vị trí, vai trò của giao dịch bảo đảm trong đời sống dân sự nói chung và trong hoạt
động tín dụng nói riêng. Chỉ khi nào xây dựng được một cơ chế đồng bộ, có tính khả thi
thì trong hoạt động xử lý TSBĐ lúc đó mới giảm thiểu được các tranh chấp xảy ra trong
lĩnh này. Để khắc phục những vướng mắc còn tồn tại trong cơ chế xử lý TSBĐ như hiện
nay, chúng ta cần đưa ra nhiều biện pháp giải quyết khác nhau, vừa mang tính trước mắt
vừa mang tính lâu dài như, trong đó, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một
cách khoa học, thống nhất và khả thi chính là biện pháp mang tính quyết định.
Trên đây là bài giải quyết vấn đề đã đưa ra của nhóm. Do kiến thức còn hạn chế
nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy cô và các bạn đóng góp ý
kiến đề bài làm được hoàn thiện hơn.
Nhóm xin chân thành cảm ơn!.
17


17
Nhóm 01 – Lớp N03.


Bài tập nhóm tháng số 2

Môn: Luật ngân hàng Việt Nam

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà nội. Giáo trình Luật TCTD Việt Nam. Nxb: Công an

nhân dân. Hà nội – 2012.
2. Trường Đại học Luật Hà nội. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập 2). Nxb:
Công an nhân dân. Hà nội – 2009.
3. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2), Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2009.
4. Phạm Văn Tuyết - Lê Kim Giang, Hợp đồng tín dụng và các biện pháp bảo
đảm tiền vay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2012.
5. Ths. Nguyễn Hoàng Hưng - Văn phòng Luật sư An Phát Phạm. Những
vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo.
6. BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005.
7. NĐ của Chính phủ số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo
đảm.
8. NĐ của Chính phủ số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
một số điều của NĐ số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm.
9. Luật đất đai của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2003.
10. Các website:
- />- />- www.thoibaonganhang.vn/

- www.luatvietnam.com.vn/
- brandco.vn/

18

18
Nhóm 01 – Lớp N03.



×