Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.46 KB, 62 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định đối với
sự nghiệp cách mạng nói chung và công tác xây dựng Đảng vói riêng. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, “Muôn việc
thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [3, tr. 280]. Từ việc nhận
thức một cách sâu sắc vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách mạng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm có ý thức về việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội
ngũ cán bộ nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết trong từng giai đoạn cách mạng.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh, vai trò của đội ngũ cán bộ một lực
lượng nồng cốt đã cùng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên những
chiến thắng vẻ vang của dân tộc đó là: Thắng lợi của cách mạng tháng tám; thắng
lợi trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng đất nước,
đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ, hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo đào
tạo được một đội ngũ cán bộ cách mạng kiên trung, đủ đức đủ tài để đảm đương
nhiệm vụ cách mạng mà nhân dân giao phó. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực do nền kinh tế thị trường đem lại, vẫn còn những điều khiến cho chúng ta phải
băn khoăn, lo lắng khi mà “Tham nhũng đã trở thành quốc nạn,”, sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây mất
lòng tin của nhân dân. Tại Hội nghị lần thứ Tư, Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã nhận định:
“Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc” [1. tr.2].
Yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới, cán bộ và công tác cán bộ của Đảng ta đặt
ra trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;


xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở rộng; trình độ dân trí ngày
càng cao; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện; cách mạng khoa học
và công nghệ diễn ra với những bước tiến như vũ báo trên thế giới; bên cạnh
những thời cơ lớn, chúng phải đang đứng trước nhiều thách thức. Nhiệm vụ chính
trị trọng đại lúc này là phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công


cuộc đổi mới, tạo nền tảng đén năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công
nhiệp theo hướng hiện đại.
Muốn vậy, Đảng phải tích cực chủ động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Phát triển cao về chất lượng đội ngũ cán bộ tạo nên tinh thần tích cực, ý
thức tự giác và khả năng sáng tạo của người cán bộ trong hoạt động thực tiễn. Do
đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nếu chất lượng thấp thì năng lực lãnh đạo và
hiệu quả hoạt động thấp, sẽ khó có thể hoàn thành chức trách nhiệm vụ của mình
trong thời kỳ mới. yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là việc làm cần
thiết, trong đó có đội ngũ cán bộ chủ chốt (CBCC) cấp cơ sở.
Thành phố Sơn la là một địa bàn thuộc các tỉnh vùng cao Tây Bắc, có địa
hình phức tạp, kinh tế xã hội phát triển chậm. Trên địa bàn có nhiều dân tộc anh
em cùng sinh sống như: Thái, Dao, Kinh, Mông., Mường,... Mỗi dân tộc có một
phong tục tập quán và nét văn hóa riêng. Đội ngũ CBCC các xã, phường phần lớn
là người dân tộc với lối sống, giản dị, tư duy trong sáng, gắn bó với bà con, thôn
bản luôn tin tưởng vào Đảng, Bác Hồ.
Trong những năm qua, đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La đã có nhiều
cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị nỗ lực phấn đấu cùng với nhân dân
đạt được những thành quả cao trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, làm thay
đổi bộ mặt trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm và hạn chế lớm nhất của đội ngũ cán bộ này là
chưa phát huy được về tư duy lý luận, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực

thực tiễn của mính. Sơn La là một tỉnh còn khó khăn, cơ sở hạ tầng còn thấp trình
độ của nhân dân và cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công
cuộc đổi mới. Do đó, cần phải nghiên cứu sâu, đánh giá đúng mặt mạnh, yếu để từ
đó vạch ra phương huớng và biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đội
ngũ CBCC các xã, phường ở thành phố Sơn La là một vấn đề cần thiết, là nhiệm
vụ chiến lược trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ thành phố Sơn La hiện
nay.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ các xã, phường ở
thành phố Sơn La góp phần cùng Đảng bộ địa phương nâng cao chất lượng đội ngũ
CBCC các xã, phường đáp ứng yêu cầu mới, tôi chọn vấn đề: “Chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố Sơn La hiện nay” làm đề tài khóa luận của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xung quanh vấn đề cán bộ nói chung và chất lượng đội ngũ CBCC các xã nói
riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học được công bố trên
các sách, báo, tạp chí và trong các hội thảo khoa học, đáng chú ý là:
Đinh Phương Duy – Nguyễn Thị Bích Ngọc (2005), “Năng lực hoạt động
thực tiễn của người lãnh đạo cơ sở”. Tác giả đã phân tích năng lực hoạt động thực


tiễn của cán bộ lSãnh đạo cơ sở, đồng thời chỉ ra các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo của cán bộ cấp cơ sở.
Đề tài khoa học cấp Bộ (1992), “Mẫu hình và con đường hình thành người
cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở” của Học viện Nguyễn Ái Quốc. Đề
tài xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở.
Nhánh đề tài KX.05-11-06 (1993), “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, xã, phường, thị trấn”, do Phan Văn Tích chủ biên.
Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1998), “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

Đề tài khoa học cấp Bộ (2001), “Về những yêu cầu của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, do TS. Nguyễn Văn
Sáu chủ nhiệm.
Nguyễn Phú Trọng (2003), Đề tài cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học của
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước”. Để tài nghiên cứu, lý giải hệ thống hóa các căn cứ khoa
học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các cấp; từ đó đưa ra một hệ thống các quan điểm, phương hướng và
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trương Thị Bạch Yến (2014), Luận án tiến sĩ “Tạo nguồn cán bộ, công chức
xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây nguyên giai đoạn hiện nay”. Luận án làm
rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tạo nguồn cán bộ cấp xã là người dân
tộc thiểu số ở Tây nguyên giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm đẩy mạnh việc tạo nguần đội ngũ này đến năm 2020.
Luận án tiến sĩ, Phạm Xuân Dương (1995), “Đổi mới công tác đào tạo bồi
dưỡng và sử dụng cán bộ chủ chốt ở thị xã Sơn La tỉnh Sơn La”.
Nguyễn Mậu Dựng (1996), “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng
bộ các cấp ở Tây nguyên hiện nay”
Phạm Công Khâm (2000), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng
nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”
Nguyễn Huy Châu (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp xã ở tỉnh Gia Lai trong giai đoạn hiện nay”.
Vũ Thị Nghĩa (2004), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị các xã ở tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay”.
Trần Thị Hà Vân (2008), “Chất lượng Bí thư Đảng ủy xã vùng có đồng bào
chăm ở tỉnh Ninh Thuận giai đoạn hiện nay”.
Đào Văn Hội (2005), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai giai đoạn hiện nay”.



Ngô Kim Ngâm (2002), “Công tác qui hoặch đội ngũ cán bộ, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ ở Phú Thọ”, Tạp chí xây dựng Đảng (số 4), tr.9-11.
Mai Đức Ngọc (2004), “Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong
thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền (số 1), tr.35-37.
Nguyễn Văn Huyên (2005), Đề tài khoa học “Phẩm chất năng lực người lãnh
đạo theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Trên cơ sở yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ mới, tác giả đã chỉ
ra những phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực trình độ cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
Đinh Ngọc Giang (2011), “Chuẩn hóa chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã (Qua khảo sát ở các tỉnh Đồng bằng Sông hồng)”, Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội.
Lê Công Toán (2008), “Tỉnh ủy Quảng Bình lãnh đạo công tác cán bộ chủ
chốt cấp xã trong giai đoạn hiện nay”.
Nguyễn Thị Kim Hoa (2011), “Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ chủ
chốt hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Hải Dương giai đoạn hiện nay”.
Nhìn chung, các công trình đã đóng góp kiến giải có giá trị về đội ngũ cán
bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt các xã nói riêng. Mỗi công trình đã khai
thác trên những bình diện, cấp độ khác nhau, góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý
luận và thực tiễn, kiến nghị những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ nói chung và CBCC cấp xã trong cả nước và nhiều địa phương khác
nhau nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có đề tài, công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã,
phường ở thành phố Sơn La đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Trên cơ sở tiếp thu một cách có chọn lọc những kết quả của các công trình khoa
học trên, đề tài đi sâu nghiên cứu vấn đề “Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở thành phố Sơn La hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu, làm rõ lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã
ở thành phố Sơn La, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao đội ngũ CBCC cấp xã của thành phố đến năm 2020, góp phần hoàn thiện
nhiệm vụ chính trị của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số khái niệm cơ bản, tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ CBCC
cấp xã ở thành phố Sơn La hiện nay;
- Khẳng định vị trí, vai trò đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La trong sự
nghiệp cách mạng giả phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng, tìm nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm về
chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La hiện nay;


- Xác định mục tiêu, phương hướng, đè xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La đáp ứng yêu nhiệm vụ trong
thời kỳ mới.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của khóa luận
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố Sơn La hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Các xã, phường trên địa bàn thành phố Sơn La
Thời gian: từ năm 2017 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của khóa luận
Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và hệ thông các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
cán bộ và công tác cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ nói
chung và đối với cán bộ cấp cơ sở nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Máclênin, tác giả sử dụng các phương pháp lôgic, lịch sử, tổng kết thực tiễn, khảo sát
thực tế, thống kê, phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của khóa luận

Làm rõ quan niệm, nội dung, tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ CBCC cấp
xã ở thành phố Sơn La;
Đánh giá thực trạng về chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La
hiện nay;
Xuất phát yêu cầu nhiệm vụ mới, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La đến năm 2020.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Trên phạm vi nghiên cứu nhất định, khóa luận góp phần làm rõ và bổ sung
thêm những dữ liệu khoa học về chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn
La trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các
cấp ủy địa phương, cơ sở ở thành phố Sơn La trong việc xây dựng thực hiện kế
hoặch nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã;
Chƣơng 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP XÃ
1.1. Một số khái niệm chủ yếu
1.1.1 Khái niệm về cán bộ
Cán bộ được hiểu theo nhiều nghĩa và rất phong phú nó xuất hiện trong xã
hội của chúng ta rất lâu. Từ cán bộ du nhập vào nước ta bắt đầu từ tiếng Trung
Quốc, được phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống pháp. Ban đầu, từ cán bộ
dùng trong quân đội để phân biệt giữa người chỉ huy và người chiến sỹ, người chỉ


huy ở đây được hiểu là cán bộ từ cấp tiểu đội phó trở lên. Dần dần từ cán bộ được
hiểu rộng ra hơn dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến để phân
biệt với nhân dân.
Trong Từ điểm Việt – Nhật, danh từ cán bộ được dùng với nghĩa là người ở
hạng cao trong một đoàn thể, là (yếu nhân) nhân vật quan trọng
Hay trong Từ Điểm Từ Hải, cán bộ được giải thích để chỉ chung những nhân

viên công chức, nhằm phân biệt với những nhân viên tạp vụ, binh lính, công nhân
có nghĩa là chuyên chỉ những người có trách nhiệm lãnh đạo nào đó như Trưởng
thôn, Đội trưởng thiếu niên tiền phong.
Trong Từ Điểm Tiếng Việt: “Cán bộ được định nghĩa là người làm công tác
chuyên môn, nghiệp vụ trong cơ quan, đơn vị, Đảng và Đoàn thể, hay là người làm
công tác tổ chức Đảng, Nhà nước nhưng có chức vụ” [8, tr.535].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, cán bộ là người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng” [4, tr. 269].
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc", chính là quan điểm về con người với tính chất vừa là chủ thể, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Đó là biểu hiện cụ thể của quan điểm lấy dân
làm gốc, để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, mà cả cuộc đời mình, Người phấn
đấu hy sinh.
Nói theo nghĩa chung nhất, cán bộ là những người lãnh đạo, quản lý hoặc nhà
chuyên môn, khoa học hay công chức, viên chức làm việc hưởng lương hay phụ
cấp từ ngân sách Nhà nước hoặc từ các nguồn khác được hình thành từ bầu cử,
tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt hoặc phân công công tác.
Theo quy định của Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 do Quốc hội
(khóa XII) ban hành: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), tronh biên chế và hưởng lương từ
ngân sách Nhà nước” [9].
Từ đó, có thể định nghĩa một cách chung nhất: “Cán bộ là những người có
vai trò, giữ chức vụ và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động của tổ
chức và quan hệ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, điều hành, định hướng sự phát triển

của tổ chức”.


* Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cán bộ vai trò của cán bộ
Trong bất kỳ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán bộ và
công tác cán bộ đều giữ vị trí quan trọng, cán bộ là một trong những nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, quyết định việc nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Chính vì vậy, các nhà kinh điểm đã đưa ra các
quan điểm, tư tưởng của mình về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng cộng sản.
Với tư cách là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học,
Mác và ăngghen đã đặt nền móng đầu tiên cho vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản
khẳng định , rằng : "Muốn thực hiện tốt những tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn" [12, tr.181]. Lịch sử đã chứng minh mỗi chính
Đảng của một giai cấp muốn giành và giữ chính quyền đều phải chăm lo và xây
dựng đội ngũ cán bộ, đây là đại biểu trung thành của giai cấp mình, đủ sức thực
hiện những yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và giai cấp đó đề
ra.
Đến Lênin, khi chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, vấn đề xây dựng đội
ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho cách mạng vô sản đã được hết sức
quan tâm. Lênin đòi hỏi giai cấp vô sản phải làm sao có được "Những nhà chính trị
giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém những
nhà chính trị của giai cấp tư sản" [10, tr.80]. Khi đã giành được chính quyền, vấn
đề cán bộ được đặt ra một cách cấp bách, thì tư tưởng của Lênin về cán bộ ngày
càng được hoàn thiện hơn, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn và sử dụng
cán bộ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin rất coi trọng vai trò, vị trí của cán bộ và công tác cán
bộ: Người Cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh
đạo của mình, đó là làm cho mình được nhiều, càng ngày càng nhiều, những người
phụ tá trong số những nhà sư phạm thực hành, biết iúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt
họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ [11, tr.407].

Lênin cho rằng, đối với đảng cầm quyền, một trong những vấn đề mấu chốt
đặc biệt quan trọng là vấn đề cán bộ. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đòi hỏi người cán
bộ phải đạt được những yêu cầu, tiêu chuẩn nhất định: Về mặt thực tiễn, những
người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong tất cả các đảng công nhân ở tất cả
các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn
bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và
kết quả chung của phong trào vô sản [13, tr.614].
Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi người cán bộ phải luôn tự rèn luyện mình cả
năng lực thực tiễn và tư duy lý luận, phải trung thành với sự nghiệp cách mạng,
gắn bó và phục vụ nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân, dám thừa nhận và
sửa chữa sai lầm khuyết điểm: "Luôn luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân
dân…, không nấp sau một chế độ quan liêu giấy tờ, không ngại thừa nhận những
sai lầm của mình bằng cách sửa chữa những sai lầm ấy" [14, tr.35]. Chủ nghĩa


Mác-Lênin cũng rất coi trọng vấn đề lựa chọn và sử dụng cán bộ, coi đó như một
khoa học, phải đặt người cán bộ vào đúng vị trí thì mới phát huy được khả năng, sở
trường của cán bộ.
1.1.2 Quan niệm cán bộ cấp xã
Cán bộ cấp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND,
UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội. Cán
bộ cấp xã gồm các chức danh sau: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ
tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban MTTQ
Việt Nam; Chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt Nam; Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam; Chủ tịch Hội nông dân Việt Nam; Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách Nhà nước.
1.1.3 Quan niệm cán bộ chủ chốt

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ cán bộ chủ chốt. Song
trong quá trình nghiên cứu, tác giả đưa ra cán bộ chủ chốt được hiểu theo hai
nghĩa:
Theo nghĩa rộng, cán bộ chủ chốt bao gồm những người giữ chức vụ và trách
nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn tới hoạt động tổ chức bộ máy.
Chẳng hạn như: Ban thường vụ, trưởng, phó các ban ngành, đoàn thể,... từ CBCC
tiếng anh gọi nhóm này là leades (người cần đầu). Đó là những người quan trọng
nhất có trách nhiệm điều hành một tập thể, đơn vị, tổ chức thuộc thẩm quyền của
mình theo quy định để thực hiện nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức đó. Đây là một
bộ phận rất quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của tooe chức và của cả
hệ thống chính trị. Việc xác định cán bộ chủ chốt hay không chủ chốt nên căn cứ
vào chức vụ hay trách nhiệm cụ thể của mỗi loại cán bộ và đặt nó trong mối quan
hệ của toàn hệ thống tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, cũng có cán bộ ở cương vị này
trong tổ chức này thì chủ chốt nhưng trong mối quan hệ khác, ở vị trí khác thì lại
không phải chủ chốt. Ví dụ: một Bí thư Đảng ủy là cán bộ chủ chốt của xã nhưng
không phải là cán bộ chủ chốt của huyện mặc dù anh có thể thể tham gia vào ban
chấp hành Đảng bộ huyện, là huện ủy viên.
Theo nghĩa hẹp, CBCC là những người cầm đầu tổ chức quốc gia. Họ là
nhóm lãnh đạo ở tầm vĩ mô, ở nước ta những cán bộ này gọi là cán bộ lãnh đạo cao
cấp, có vai trò quyết định đến vận mệnh của quốc gia dân tộc.
Từ đây, có thể hiểu: Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người đứng đầu, giữ
vị trí trọng yếu trong hệ thông chính trị, có ảnh hưởng mang tính quyết định đến
việc chấp hành chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng, Pháp luật của Nhà


nước thông qua việc trực tiếp lãnh đạo va tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên địa bàn.
1.1.4 Quan niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Theo Từ điểm Tiếng việt: “Đội ngũ là khối đông người được tập hợp và tổ
chức thành một lực lượng có quy củ” [12, tr. 535]. Đội ngũ CBCC bao gồm những

người đứng đầu các tổ chức trong HTCT của một xã, họ đều được cơ cấu là Đảng
ủy viên của Ban chấp hành Đảng bộ xã, cùng thực hiện một nhiệm vụ chính trị, an
ninh – quốc phòng, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị xã hội của xã theo đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp Luật của Nhà nước, hoàn thành các
mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, chương trình, kế hoặch công tác của
Đảng bộ xã , và nhiệm vụ được cấp trên giao.
Từ những khái niệm trên, đồng thời quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa IX, có thể quan niệm: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những người
giữ vai trò quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định trong hệ thống bộ máy của
Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, có tác dụng là bộ khung, là
nòng cốt chi phối việc chấp hành chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách
pháp Luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn.
Như vậy, đội ngũ CBCC của HTCT cấp xã bao gồm các chức danh sau: Bí
thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND; Chủ tịch MTTQ; Chủ tịch Hội cựu chiến binh; Chủ tịch Hội phụ nữ; Chủ
tịch Hội nông dân; Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Mỗi CBCC được giao thẩm quyền, trách nhiệm nhất định trong tổ chức gắn
với chức vụ mà người lãnh đạo đảm nhiệm. Phạm vi và trách nhiệm công việc của
mỗi CBCC là khác nhau, nhưng đều có cùng chung mục đích là bảo đảm cho hoạt
động của HTCT cơ sở đạt hiệu quả, phát huy dân chủ, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân để ổn định phát triển bền vững. Thực tế cho thấy vai trò
đội ngũ CBCC cấp cơ sở là rất quan trọng họ là những người chèo lái công việc tại
địa bàn. Ở địa phương nào có đội ngũ CBCC lãnh đạo tốt thì nhịp độ phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng tại địa phương đó đạt hiệu quả cao
và ngược lại.
1.1.5 Quan niệm về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra bên
ngoài các thuộc tính, các tính chất vốn có của sự vật. Quan niệm chung nhất về
“chất lượng” là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc.

Khi phân tích, đánh giá chất lượng của bất kỳ sự vật, hiện tượng, quá trình
nào đang diễn ra trong tự nhiên, xã hội hay trong tư duy phải phân tích, đánh giá
chất lượng của từng yếu tố, từng bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng và quá trình


ấy trong thống nhất, biện chứng, trong sự ràng buộc và tác động lẫn nhau giữa
chúng; không được tuyệt đối hoá một yếu tố, bộ phận nào hoặc tách rời giữa các
yếu tố, các bộ phận. Quá trình đó đòi hỏi phải có phương pháp xem xét, đánh giá
cụ thể, không thể áp dụng phương pháp duy nhất, đặc biệt là đối với con người và
hoạt động của con người trong xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định: “Chất lượng của
cán bộ là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác, thể hiện ở
kết quả hoàn thành nhiệm vụ” [2, tr.132].
Cụ thể hơn, có thể quan niệm: Chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay là tổng hợp
thống nhất biện chứng những giá trị, những thuộc tính đặc trưng, bản chất của đội
ngũ cán bộ về mặt con người và các mặt hoạt động, quy định và phản ánh mức độ
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của đội ngũ cán bộ trong điều kiện kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập quốc tế.
Theo đó, chất lượng đội ngũ cán bộ có tính ổn định tương đối, có thể cao hoặc
thấp do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan, không bất biến,
thường xuyên vận động, biến đổi, phát triển theo yêu cầu, nhiệm vụ; chịu sự tác
động mạnh mẽ của thực tiễn và phụ thuộc vào quá trình bồi dưỡng, rèn luyện, phấn
đấu của mỗi người cán bộ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong thế
giới, cái gì cũng biến hoá. Tư tưởng con người cũng biến hoá. Vì vậy, cách xem
xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hoá… Một người cán
bộ khi trước sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay
chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và
tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”[4, tr. 278].
Trước tiên, chất lượng cán bộ là sự tổng hợp các yếu tố tạo nên phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng của cán bộ: Tức là uy tín, lòng trung thành, sự giác

ngộ và niềm tin vào mục đích, lý tưởng của Đảng,.. được thể hiện bằng hành động
của cán bộ trong việc gương mẫu đi đầu trong các phong trào cách mạng của quần
chúng; vận động lôi cuốn hướng dẫn, tổ chức quần chúng tham gia các hoạt động
cách mạng, thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương; khả năng chấp
hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp Luật của Nhà nước và khả năng vận động gia đình
người thân và quần chúng nhân dân.
Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã còn là sự tổng hợp các yếu tố
năng lực trí tuệ, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo và tổ
chức thực tiễn. Những kiến thức, năng lực và trình độ đó có được một mặt do
thông qua quá trình đào tạo của các nhà trường; mặt khác, nhờ quá trình trải


nghiệm, tu dưỡng và rèn luyện trong thực tiễn hoạt động của mình. Nhờ được đào
tạo trong các nhà truờng và rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn của mình, đội
ngũ CBCC cấp xã tiếp cận, lĩnh hội tri thức và kinh nghiệm để làm việc với tinh
thần năng động, tự giác, sáng tạo; thêm vào đó là sự thể hiện thái độ tích cực nêu
gương về mọi mặt trước cán bộ, đảng viên, hội viên và quần chúng nhân dân, xác
lập và tạo ra các phương pháp, cách thức hợp lý có thể vận động, hướng dẫn lôi
cuốn và tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo được cán bộ, đảng viên, hội viên và quần chúng
nhân dân hăng hái tham gia thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa
phương.
Như vậy, chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã có thể được hiểu đó là sự tổng
hợp toàn bộ các giá trị phẩm chất và năng lực của cán bộ. Đó là tổng thể những
khả năng thực lực của cán bộ biểu hiện thông qua kết quả của quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực hện các nhiệm vụ do cấp ủy Đảng, Chính quyền phân công và
Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), đoàn thể tín nhiệm giao.
1.2 Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
1.2.1 Vị trí, cán bộ chủ chốt cấp xã
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng

của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”. Cán bộ chủ
chốt cấp xã là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có ảnh hưởng lớn
đến hoạt động của tổ chức bộ máy, làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống
bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan
trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy, có vai trò tham gia định hướng lớn,
điều khiển hoạt động của bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu
trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực công tác được giao.
1.2.2 Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quân tâm đặc biệt đến công tác cán bộ, lựa chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ. Xuất
phát từ quan điểm coi “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, được Chủ tịch Hồ Chí
Minh lý giải một cách dễ hiểu qua nhiều bài nói bài viết cũng như việc làm của
Người. Người chỉ rõ vai trò “Cái gốc” của cán bộ được thể hiện trong các mối quan
hệ chủ yếu: Cán bộ với đường lối, chính sách, với tổ chức bộ máy với quần chúng.
Bên cạnh đó Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Muôn việc thành công hoặc thất
bại là do cán bộ tốt hay kém. Người nhấn mạnh: “Cán bộ là dây chuyền của bộ
máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liệt” [7, tr. 54]. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người căn dặn: Con
người sinh ra không phải làm lãnh đạo ngay mà phải có quá trình học tập, rèn
luyện. Người đòi hỏi đào tạo cán bộ là công việc của Đảng, là nhiệm vụ thiết thực
của cách mạng. Người nêu rõ trách nhiệm của Đảng trong công tác cán bộ: Đảng


phải nuôi dưỡng cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu.
Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trong mỗi con người có ích cho công việc chung
của mỗi chúng ta.
Như vậy, ta có thể hiểu vai trò của đội ngũ CBCC cấp xã có vai trò rất quan
trọng.
Thứ nhất, đội ngũ CBCC cấp xã là nhừng người giữ cương vị lãnh đạo quan

trọng nhất trong HTCT ở xã.
Đội ngũ CBCC cấp xã là những người lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở
xã, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là
then chốt, chăm lo xây dựng Chính quyền, Mặt trận và Đoàn thể, đảm bảo sự phối
hợp chặt chẽ giưa các tổ chức trong HTCT hướng vào phục vụ nhân dân, đưa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến quần chúng nhân
dân, phản ánh và giải đáp những tâm tư nguyện vọng của nhân dân và tổ chức thực
hiện tốt cơ sở ở xã, khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của nhân dân, không ngừng nâng
cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ ở xã.
CBCC cấp xã là những người có vai trò thực hiện thẩm quyền quyết định một
số vấn đề như: Quản lý ngân sách, sắp xếp và quản lý cán bộ, quản lý đất đai, tài
nguyên và môi trường, bảo vệ đê điều và thủy nông, quản lý hộ tịch, nhà ở,... Với
cương vị là người đứng đầu bộ máy quyền lực ở cơ sở, họ vừa phải giải quyết các
công việc hàng ngày, vừa phải nắm chăc tình hình ở cơ sở để hoặch định kế hoặch
phát triển đúng đắn.
Do vậy, họ là người chủ trì, điều khiển và người chịu trách nhiệm của tất cả
các mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của cả HTCT ở các xã. Họ trực tiếp nắm
và chỉ đạo thực hiện các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm trong phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh – quốc phòng,... Họ là đầu mối liên hệ giữa Đảng với dân. Vì
vậy, họ giữ vai trò quyết định đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của HTCT ở
cơ sở xã.
Quá trình đấu tranh cách mạng cũng như thực tiễn hiện nay cho thấy, nơi nào
CBCC có đủ phẩm chất, năng lực, công tâm thạo việc, hết lòng vì dân thì nơi đó
kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, chất lượng hiệu quả
hoạt động của bộ máy quyền lực được nâng lên, niềm tin của nhân dân đối với
Đảng được củng cố và ngược lại.
Thứ hai, đội ngũ CBCC giữ vai trò quyết định trong việc tổ chức thực thi
quyền lực chính trị của nhân dân ở xã.
Nhân dân lao động là chủ thể quyền lực Nhà nước và các quyền lực khác.
Nhân dân là người tổ chức và trực tiếp bầu ra cơ quan quản lý Nhà nước, một tổ

chức đặc biệt để điều hành, điều phối mọi công việc trong xã hội và bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhân dân.
Nhân dân lao động là chủ thể quyền lực, có nghĩa nhân dân là người làm chủ
và thực hiện quyền lực. tuy nhiên, trên thực tế quyền lực của nhân dân rất rộng,


nên chính bản thân họ không thể thường xuyên và trực tiếp thực hiện quyền lực
của mình và không phải bất cứ công việc gì của đời sống xã hội cũng có thể đưa ra
trước cộng đồng bàn bạc quyết định. Do vậy, quyền lực chính trị của nhân dân lao
động phải có hình thức thực hiện thích hợp, phải có những cơ quan nhất định hoạt
động thường xuyên là công cụ, phương tiện để nhân dân thực hiện quyền lực của
họ.
Vì thế, quyền lực của nhân dân lao động phụ thuộc và gắn liền vào chủ thể
cầm quyền mà người đại diện là đội ngũ CBCC xã. Nếu đội ngũ cán bộ này có đủ
phẩm chất năng lực sẽ thúc đẩy kinh tế xã hội ở địa phương phát triển, đảm bảo sự
ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân, phát huy quyền làm chủ của dân,
khơi dậy sức mạnh và sự sáng tạo của quần chúng, đảm bảo quyền lực chính trị của
nhân dân và ngược lại.
Thứ ba, đội ngũ CBCC cấp xã là lực lượng nòng cốt trong việc phát huy sức
mạnh của toàn dân, huy động mọi nguồn lực ở cơ sở thực hiện thắng lợi các mục
tiêu phát triền kinh tế - xã hội, đảm bảo và nâng cao mọi mặt đời sống của nhân
dân địa phương.
Lịch sử cách mạng và thực tiễn hiện nay cho thấy, ở xã mạnh hay yếu của
HTCT, sự ổn định của xã hội, sự phát triển phong trào cách mạng của quần chúng
gắn liền với trình độ trí tuệ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ CBCC, họ là những
chủ cột, là trung tâm đoàn kết, quy tụ và phát huy sức mạnh cộng đồng là linh hồn
của các tổ chức trong hệ thống đó. Họ có khả năng tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực
lượng và huy động mọi nguồn lực của cơ sở để phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy,
họ có vai trò quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng,
Chính quyền, các Đoàn thể, lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân ở cơ sở.

Bộ máy quyền lực đó hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hay không trước hết tùy
thuộc vào trình độ trí tuệ, năng lực người CBCC xã. Có nâng cao trình độ trí tuệ,
năng lực của họ mới có thể phát huy sức mạnh của HTCT, giữ vững, ổn định xã
hội, huy động được các nguồn lực để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội ở địa phương.
Hơn nữa, mọi chủ trương, đường lối, chính sách, Pháp luật của Đảng và Nhà
nước có thực hiện được ở các xã hay không nhất thiết phải thông qua phong trào
cách mạng của quần chúng. Người lãnh đạo chủ chốt cấp xã phải xứng đáng là
người chỉ huy có khả năng tổ chức và huy động phong trào, có khả năng theo dõi,
kiểm tra và nhân rộng phong trào của quần chúng, khai thác tối đa nguồn lực ở sơ
sở để phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Thứ tư, đội ngũ CBCC cấp xã luôn giữ vị trí quan trọng nhất trong công tác
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Đội ngũ cán bộ có vị trí đặc biệt quan trọng, là gốc của mọi công việc. Vì suy
cho cùng, đường lối, tổ chức Đảng chặt chẽ cũng là do đội ngũ cán bộ của Đảng
thực hiện và tạo dựng. Trong đội ngũ cán bộ nói chung, CBCC là gốc của cái gốc


đó, là lực lượng nòng cốt, là nhân tố quan trọng nhất trong bộ máy tổ chức của
Đảng và Nhà nước. Vấn đề cốt tử tạo nên năng lực lãnh đạo của Đảng chính là đội
ngũ CBCC. Đây là những đầu tàu kéo cả đoàn tàu hướng về phía trước, là hạt nhân
quy tụ đảng viên và quần chúng nhân dân đông tâm hiệp lực thực hiện đường lối
của Đảng.
Đội ngũ CBCC cấp xã luôn giữ vị trí trung tâm định hướng trong lãnh đạo,
quản lý, điều khiển hoạt động của Đảng bộ, Chính quyền xã, tác động và quyết
định đến sự phát triển trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quốc
phòng – an ninh,... Chủ trì toàn bộ các công việc của cấp ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân xã, trực tiếp nắm các khâu trọng yếu, trọng tâm, những vấn đề
nảy sinh, cơ mật trong đời sống xã hội. Có vai trò trung tâm đoàn kết trong Đảng
bộ xã, mà trực tiếp là Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã. Đây cũng
là nguồn bổ sung cán bộ cho cấp trên, nhất là cấp huyện.

1.3 Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Để đánh giá đúng chất lượng đội ngũ cán bộ cần xem xét đầy đủ các tiêu chí
đánh giá trong tính hệ thống. Cách đánh giá phải thật sự khách quan, toàn diện và
lịch sử cụ thể, vừa định lượng, vừa định tính, lấy định lượng để định tính; xem xét
toàn diện, tổng hợp tất cả các yếu tố có thể đo, định lượng được để định tính rõ
ràng, đầy đủ chất lượng đội ngũ cán bộ.
Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ là tập hợp các dấu hiệu, điều kiện,
đặc trưng, các chỉ số định tính, định lượng làm căn cứ để nhận biết, đánh giá chất
lượng đội ngũ cán bộ trên thực tế. Căn cứ xác định tiêu chí đó là: Chức năng,
nhiệm vụ của cán bộ; Các yếu tố cấu thành con người và các mặt hoặt động chủ
yếu của cán bộ; Yêu cầu về chất lượng của cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về đánh giá cán bộ, căn cứ vào Quy chế đánh giá cán bộ, tiêu chuẩn cán
bộ, Luật Cán bộ, công chức… và từ quan niệm về chất lượng đội ngũ cán bộ, có
thể xác lập hệ tiêu chí có bản để đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay, bao
gồm:
Một là, hệ thống các yếu tố cần có của bản thân đội ngũ cán bộ để đảm nhận
và hoàn thành tốt nhiệm vụ, đó là: Phẩm chất chính trị; phẩm chất đạo đức, lối
sống; năng lực; trình độ; phong cách làm việc; sức khoẻ và độ tuổi. Đây là những
dấu hiệu đầu tiên, trực tiếp, quan trọng hàng đầu cho biết đội ngũ cán bộ có chất
lượng hay không?
Phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ là tổng hợp các đặc tính cá nhân cán


bộ về mặt chính trị, bao gồm các yếu tố cơ bản: nhận thức chính trị, thái độ chính
trị và hành vi chính trị. Cụ thể:
- Nhận thức chính trị của người cán bộ là sự hiểu biết về đường lối, quan điểm
chính trị, về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, sự hiểu biết và tin tưởng vào
mục đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vai trò, nhiệm vụ

của cán bộ, hình thành tình cảm, ý chí cách mạng của người cán bộ.
- Thái độ chính trị của cán bộ là những biểu hiện, cử chỉ, lời nói, việc làm của
người cán bộ xuất phát từ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm trước những vấn đề chính
trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thái độ chính trị phản ánh cách nhìn nhận, suy
nghĩ và chi phối hành động của người cán bộ, bao gồm lòng trung thành, tính vững
vàng, kiên định về lập trường, tư tưởng chính trị. Cán bộ phải là người tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, trung thành với Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Thái độ chính trị của cán bộ đúng hay không đúng; kiên quyết,
dứt khoát hay nửa vời, chập chừng, do dự; nghiêm túc hay không nghiêm túc… có
ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của người cán bộ.
- Hành vi chính trị của người cán bộ là hành động mang tính chính trị, như tiên
phong, gương mẫu trong công tác, lao động, học tập, sinh hoạt; đi đầu trong thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích
cực tuyên truyền, vận động nhân dân; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện
tiêu cực về chính trị…
Phẩm chất đạo đức của người cán bộ bao gồm các yếu tố: Ý thức đạo đức,
thái độ đạo đức và hành vi đạo đức.
- Ý thức đạo đức của người cán bộ là quan niệm, sự hiểu biết về đạo đức, các
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những giá trị, chuẩn mực đạo đức
mới (đạo đức cách mạng).
- Thái độ đạo đức của người cán bộ do ý thức đạo đức quy định, biểu hiện ra
bên ngoài là sự yêu hay ghét, ủng hộ hay phê phán đối với cái: thiện, ác, đẹp, xấu,
tiến bộ, lạc hậu…; là đúng mực, nghiêm túc hay không nghiêm túc với công việc,
nghề nghiệp, với đồng chí, đồng nghiệp, gia đình, bạn bè và quần chúng nhân
dân…
- Hành vi đạo đức của người cán bộ là những hành động, lời nói, việc làm liên
quan đến phạm trù đạo đức, có tính nêu gương, giáo dục đạo đức đối với bản thân,
gia đình, đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân.



Lối sống của người cán bộ là những hình thức, cung cách sinh hoạt, làm việc,
những hoạt động, cách xử sự đã trở thành ổn định, thành đặc điểm riêng của cá
nhân. Lối sống do nhiều yếu tố quy định như giáo dục, nghề nghiệp, điều kiện kinh
tế, sinh hoạt, hoàn cảnh xã hội, phẩm chất tâm lý - sinh lý và sự rèn luyện của cá
nhân… Lối sống gắn liền và là một biểu hiện đậm nét của đạo đức cá nhân, vì vậy,
khi nhận diện và đánh giá phẩm chất đạo đức của cán bộ nhất thiết phải xem xét lối
sống của họ.
Phẩm chất đạo đức, lối sống của người cán bộ quan hệ mật thiết với phẩm
chất chính trị. Phẩm chất chính trị chi phối, quy định phẩm chất đạo đức; phẩm
chất đạo đức tác động tới sự phát triển phẩm chất chính trị. Người cán bộ có giác
ngộ chính trị, có niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa sẽ giúp họ có
tình yêu thương đồng chí, kính trọng nhân dân, quan tâm giúp đỡ mọi người, biết
hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích cách mạng. Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
như trung, hiếu, dũng, liêm,… sẽ giúp người cán bộ củng cố, phát triển các phẩm
chất chính trị như sự kiên định lập trường, tư tưởng, tính tiên phong gương mẫu
của người cán bộ. Quan hệ biện chứng giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo
đức của người cán bộ tạo nên phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ
thường được gọi là “phẩm chất” hay mặt “đức” mặt “hồng” của cán bộ. Người cán
bộ phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí và được cán bộ, đảng viên và nhân dân tin cậy.
Năng lực của cán bộ là tổng hợp những yếu tố tạo nên khả năng cá nhân cần
thiết để hoàn thành nhiệm vụ người cán bộ. Năng lực của người cán bộ bao gồm
hai mặt chủ yếu: Năng lực trí tuệ và năng lực chuyên môn. Năng lực trí tuệ là khả
năng nhận thức, tiếp cận tri thức, khả năng nắm bắt, phân tích, đề xuất giải pháp
trong hoạt động thực tiễn. Năng lực chuyên môn là tri thức, kỹ năng để hoàn thành
nhiệm vụ chuyên môn của người cán bộ. Năng lực của người cán bộ phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: Trình độ kiến thức, kỹ năng; kinh nghiệm thực tiễn; ý thức trách
nhiệm đảng viên; hoàn cảnh, điều kiện… Trong đó, trình độ kiến thức, kỹ năng và
kinh nghiệm thực tiễn có vai trò quan trọng hơn cả. Năng lực của người cán bộ chủ
yếu được hình thành và phát triển qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng và hoạt động

thực tiễn. Mỗi thời kỳ cách mạng, khi nhiệm vụ chính trị của Đảng và nhiệm vụ cụ
thể của người cán bộ có sự thay đổi thì năng lực của người cán bộ cũng phải có sự
thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ.
Trình độ của người cán bộ bao gồm 3 mặt chủ yếu: Trình độ học vấn; trình độ
chính trị; trình độ chuyên môn. Trình độ học vấn là mức độ kiến thức của người
cán bộ, thường được xác định bằng các bậc học cụ thể trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Đây là nền tảng để rèn luyện, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn và


cả phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của người cán bộ. Trình độ chính trị là
mức độ hiểu biết về chính trị của người cán bộ. Trên thực tế, trình độ chính trị
được đánh giá chủ yếu bằng mức độ hiểu biết về lý luận chính trị. Hiện nay, trình
độ chính trị của người cán bộ được đánh giá theo 3 mức độ: Sơ cấp, trung cấp, cao
cấp. Trình độ chính trị là cơ sở để tạo nên phẩm chất chính trị của người cán bộ.
Không có trình độ chính trị nhất định thì người cán bộ không thể có giác ngộ lý
tưởng cộng sản, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Trình độ chuyên môn của người
cán bộ là mức độ kiến thức và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của chức
danh công việc theo quy định. Trình độ chuyên môn của người cán bộ không chỉ
được đánh giá bởi bằng cấp chuyên môn được đào tạo mà chủ yếu là ở kết quả
hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, ở uy tín trong công tác chuyên môn.
Trình độ của người cán bộ là một yếu tố có vai trò đặc biệt, chi phối, ảnh
hưởng tới tất cả các yếu tố tạo nên chất lượng người cán bộ, là cơ sở để hình thành
và phát triển phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của người cán bộ; là yếu tố
đặc biệt quan trọng tạo thành năng lực và là điều kiện để có năng lực. Tuy nhiên,
không phải người cán bộ cứ có kiến thức là có năng lực. Có kiến thức nhưng phải
trải qua quá trình rèn luyện trong thực tiễn thì mới có năng lực. Trên thực tế đã có
không ít người cán bộ có kiến thức song năng lực hạn chế. Cũng có nhiều người
tuy không có bằng cấp, chứng chỉ nhưng họ tự học tập, lăn lộn trong thực tiễn nên
vẫn có năng lực tốt. Trình độ và năng lực của người cán bộ quan hệ chặt chẽ với
nhau, tạo nên cái “tài” hay mặt “chuyên” của người cán bộ.

Về sức khoẻ, độ tuổi người cán bộ: Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con
người. Sức khoẻ là nhu cầu trước hết của bản thân con người, là nhu cầu tồn tại.
Không có sức khoẻ thì không phát triển được trí tuệ, không thể lao động có hiệu
quả cho xã hội. Có một cơ thể khoẻ mạnh, cường tráng là điều kiện cần thiết cho
một tinh thần sảng khoái, minh mẫn, là tiền đề và cơ sở chắc chắn, thường xuyên
cho việc thực hiện có chất lượng nhiệm vụ được giao.
Quy định tuổi người cán bộ là để tạo mặt bằng chung, bảo đảm khả năng làm
việc tốt, bảo đảm sự kế thừa và đổi mới cán bộ. Tuổi đời không phải là một yếu tố
quyết định phẩm chất, năng lực, trình độ, hiệu quả công việc. Tuổi đời là một tiêu
chí xã hội quan trọng, xác định vị trí, vai trò và uy tín xã hội của mỗi người cán bộ.
Người cán bộ cần có tuổi đời thích hợp với chức trách, vai trò, nhiệm vụ hiện tại
đang đảm nhận, có độ “dư thừa” cần thiết để bảo đảm khả năng phát huy lâu dài, ít
nhất là một nhiệm kỳ công tác.
Phong cách làm việc của người cán bộ là cách thức làm việc ổn định, mang
sắc thái của mỗi người. Phong cách làm việc của người cán bộ phụ thuộc vào nhiều


yếu tố: Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, khí
chất cá nhân, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, điều kiện làm việc, sinh hoạt, sự giáo
dục, rèn luyện… của người cán bộ. Phong cách làm việc của người cán bộ có ảnh
hưởng lớn tới việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác. Phong cách làm
việc của người cán bộ gồm nhiều nội dung rất phong phú, có thể liệt kê những nội
dung chủ yếu nhất: Tác phong dân chủ - tập thể; tác phong khoa học; tác phong
quần chúng.
Hai là, mối quan hệ của đội ngũ cán bộ với môi trường, điều kiện công tác cụ
thể (với đường lối, nhiệm vụ chính trị, tổ chức và cơ chế, chính sách). Đây là
những dấu hiệu đặc biệt quan trọng để nhận biết chất lượng đội ngũ cán bộ hiện
nay. Con người luôn sống và hoạt động trong hàng loạt mối quan hệ; mỗi người
vừa là nhân, vừa là quả, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng tác động của các mối quan
hệ với tự nhiên, xã hội. Do vậy, khi xem xét, đánh giá người cán bộ phải đặt người

cán bộ trong các mối quan hệ chủ yếu, xác định như trên, nhất là mối quan hệ của
người cán bộ với cấp ủy, tổ chức đảng, đồng nghiệp và nhân dân. Có như vậy, mới
đánh giá được thực chất người cán bộ.
Ba là, mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ (kết quả
hoàn thành nhiệm vụ được giao của đội ngũ cán bộ). Đây là tiêu chí trung tâm, chủ
yếu nhất, là dấu hiệu cụ thể nhất, rõ nhất để đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ
hiện nay. Kết quả công tác thực tế người cán bộ bao gồm những yếu tố cụ thể sau:
- Thái độ công tác biểu hiện sự quan tâm, tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm
vụ, ảnh hưởng trực tiếp đối với cán bộ, đảng viên, nhân dân… tạo ra bầu không khí
làm việc, có những biểu hiện cụ thể sau: Sự miệt mài, say sưa làm việc hàng ngày,
chịu khó đi sâu nghiên cứu, học tập để thường xuyên nâng cao trình độ, khả năng,
kinh nghiệm công tác, có tinh thần trách nhiệm và sự hiểu biết trong công tác, có
tinh thần chủ động làm việc, có ý thức về thời gian làm việc và kỷ luật lao động,...
- Khối lượng công việc biểu hiện qua: Số lượng đầu công việc đảm nhận và
hoàn thành. Mức độ phức tạp, quy mô, cường độ, tốc độ, thời gian làm việc,...
- Hiệu suất công tác (năng suất lao động cá nhân): Thời gian và tốc độ hoàn
thành công việc; mức độ vượt qua những trở ngại của bản thân và vượt lên những
khó khăn của hoàn cảnh để hoàn thành công việc được giao; sự tiết kiệm những chi
phí về tài chính cũng như sức người, sức của trong quá trình tiến hành công việc.
Bốn là, sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân (thông qua các tổ chức
của hệ thống chính trị và nơi ở của cán bộ) và sự tín nhiệm của các cấp ủy, các cơ


quan tham mưu đối với đội ngũ cán bộ. Đây là dấu hiệu cơ bản, không thể thiếu
khi đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay, là dấu hiệu tin cậy, chắc chắn bảo
đảm đội ngũ cán bộ thật sự có chất lượng tốt. Điều này góp phần giải thích tại sao
trong cùng một hoàn cảnh khách quan mà nhiều nơi chất lượng người cán bộ
không như nhau, thậm chí kém xa nhau.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ như trên có quan hệ biện
chứng, mật thiết với nhau, tạo thành một hệ tiêu chí thống nhất. Để đánh giá đúng

chất lượng đội ngũ cán bộ cần xem xét đầy đủ các tiêu chí đó, cách đánh giá phải
thật sự khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vừa định lượng, vừa định tính, lấy
định lượng để định tính; xem xét toàn diện, tổng hợp tất cả các yếu tố có thể đo
đạc, định lượng được để định tính rõ ràng, đầy đủ chất lượng đội ngũ cán bộ.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, khóa luận đã trình bày hệ thống các khái niệm làm công cụ,
như “Cán bộ”, “Cán bộ chủ chốt”, “Cán bộ chủ chốt cấp xã” và khái niệm chốt của
khóa luận “Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã”; trên cơ sở đó, khóa luận
phân tích những quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ, đặc biệt là CBCC cấp xã. Từ đó, khóa luận
nhấn mạnh vị trí, vai trò của cấp cơ sở cũng như vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở, nhất là cán bộ chủ chốt ở cơ sở; phân tích các yếu tố cấu thành chất
lượng đội ngũ CBCC cấp cơ sở và các nhân tố tác động đến chất lượng đội ngũ
CBCC cấp cơ sở, hướng tới xây dựng đội ngũ CBCC cấp cơ sở “Vừa hồng”, “Vừa
chuyên”, đủ đức, đủ tài để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Hiểu một cách tổng quát xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã toàn bộ hoạt động
của chủ thể có đủ thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm tạo ra một đội ngũ cán
bộ xã đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có lập trường chính trị vững vàng đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở. Đồng thời còn bao hàm cả
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã hiện có, để đội ngũ này thích ứng với
cơ chế mới, yêu cầu mới của nhiệm vụ chính trị đang đặt ra.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ xã nhằm tìm ra những con người thật sự
có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực đủ sức gánh vác những trọng
trách của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.


Chƣơng 2
CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở THÀNH
PHỐ SƠN LA – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA.
2.1. Vài nét về tình hình kinh tế xã hội thành phố Sơn La

Thành phố Sơn La là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế
của tỉnh Sơn La. Nằm ở tọa độ 21015' - 21031' Bắc và 103045' - 104000' Đông,
cách Hà Nội 302 km về phía Tây Bắc. Phía Tây và phía Bắc giáp huyện Thuận
Châu, phía Đông giáp huyện Mƣờng La, phía Nam giáp huyện Mai Sơn. Quốc
lộ 6 đi qua thành phố, nối thành phố Sơn La với thành phố Điện Biên Phủ và
thành phố Hòa Bình.
Với tổng diện tích tự nhiên 32.493 km², dân số 98.751 người, là nơi hội tụ của
12 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó dân tộc Thái chiếm 53,4%; dân tộc
Kinh chiếm 43%; dân tộc Mường chiếm 0,8%; dân tộc Mông chiếm 0,4%; còn lại
là các dân tộc khác như : Dao, Kháng, Khơ Mú, Hoa, Lào; Sinh Mun, La Ha chiếm
2,4%, mật độ dân số phân bố tương đối đều.
Thành phố có 12 đơn vị hành chính gồm 7 phường: Quyết Tâm, Quyết Thắng,
Tô Hiệu, Chiềng Lề, Chiềng Sinh, Chiềng An, Chiềng Cơi và 5 xã gồm Chiềng Cọ,
Chiềng Đen, Chiềng Ngần, Chiềng Xôm, Hua La. Với tổng số 169 tổ, bản, tiểu khu
(trong đó có: 7 bản tái định cư Thuỷ điện Sơn La mới được thành lập).
Thành phố Sơn La có hệ thống giao thông đường bộ khá thuận lợi tạo điều kiện
cho thành phố trong việc lưu thông hàng hoá, trao đổi thông tin kỹ thuật, tiếp thu
các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến và khả năng thu hút vốn đầu tư của các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh.
Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Sơn La, sau quá
trình xây dựng và phát triển, Thành phố (TP) Sơn La đã vận dụng sáng tạo
các chủ trƣơng, chính sách của Trung ƣơng, của tỉnh, vƣơn lên trở thành mũi
nhọn kinh tế, đóng góp tích cực cho sự phát triển toàn tỉnh. Trong hoàn cảnh
hội nhập ngày càng sâu rộng.
Được sự quan tâm ủng hộ của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh chính vì vậy
thành phố Sơn La có lợi thế và điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Từ một thị xã nghèo phố núi khi thành lập (năm 1961), trong 54 năm qua, đặc biệt
là từ sau khi thị xã Sơn La được công nhận đô thị loại III (26/10/2008), TP. Sơn La
- trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh đã bứt phá vươn lên, đạt nhiều thành tựu quan
trọng trên các lĩnh vực. Kinh tế phát triển tương đối toàn diện, đạt tốc độ tăng

trưởng khá; hiệu quả và sức cạnh tranh được nâng lên một bước.
Cụ thể, giai đoạn 2010 - 2015, kinh tế của thành phố luôn duy trì tốc độ tăng


trưởng khá. Cơ cấu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, giảm tỷ
trọng ngành công nghiệp - xây dựng và nông nghiệp. Tổng thu ngân sách trên địa
bàn 5 năm đạt 2.581 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 47,2 triệu
đồng/năm. Huy động có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển; vốn đầu tư
toàn xã hội trong 5 năm ước đạt 11.888 tỷ đồng, tăng bình quân 13,65%/năm, gấp
2 lần so với giai đoạn 2005- 2010. Các vấn đề bức xúc xã hội được tập trung giải
quyết. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội
có nhiền tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn
1,11%...
Nông nghiệp phát triển theo hướng phục vụ cho đô thị và công nghiệp. Nhờ
đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, từng bước thực hiện chủ
trương liên kết giữa bốn nhà (Nhà nước - nhà khoa học - doanh nghiệp - nhà nông),
TP. Sơn La đã xây dựng được nhiều mô hình hiệu quả như mô hình tưới nhỏ giọt
cây cà phê theo công nghệ Israel; mô hình trồng hoa chất lượng cao, chăn nuôi dê,
gà đẻ trứng; sử dụng điện an toàn; ánh sáng bản làng, quỹ hỗ trợ nông dân... Bộ
mặt nông thôn đổi thay rõ nét. Hiện 100% hộ gia đình có điện sinh hoạt, hơn
97,5% hộ gia đình được dùng nước sạch, hợp vệ sinh, xóa được các bản đặc biệt
khó khăn…
GDP theo giá thực tế tính theo đầu người năm 2015 ước đạt 15,6 triệu đồng.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Tỷ trọng công nghiệp xây dựng,
giảm tỷ trọng công nghiệp nông – lâm, thủy sản. Trong 5 năm (2010 – 2015), tỷ
trọng nông, lâm, thủy sản giảm từ 50,81% xuống còn 37,4%; công nghiệp xây
dựng tăng từ 15,78% lên 27,3%; dịch vụ tăng từ 33,41% lên 41,7%.
Văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện, công tác xóa đói giảm nghèo đạt nhiều kết quả các vấn đề xã hội
bức xúc được quan tâm và tập trung giải quyết.

Giáo dục và đào tạo được củng cố, các ngành học, bậc học phát triển nhanh về
quy mô trường lớp, học sinh. Hệ thống trường lớp từng bước được kiện toàn. Toàn
thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ cở
năm 2007 và tiếp tục duy trì củng cố kết quả phổ cập. Đến 2010, toàn thành phố có
100% số xã có trạm y tế, số giường bệnh trên 1 vạn dân, tỷ lệ y, bác sỹ không
ngừng nâng cao về trình độ chuyên môn tay nghề.
Về quốc phòng – an nhinh: Triển khai thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết,
chỉ thị của Đảng về an ninh – quốc phòng; chú trọng bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, thế trận an ninh nhân dân, kết hợp phát triển kinh tế xã hội củng cố thế trận
phòng thủ đáp ứng yêu cầu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; thường xuyên nắm chắc
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, kịp thời xử lý các tình huống đột


xuất về an ninh trật tự, an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo, giải quyết các điểm
mâu thuẫn bức xúc trong dân.
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm (2015 – 2020), của thành phố Sơn La là đẩy
mạnh phát triển kinh tế đi đôi với phát triền văn hóa – xã hội, bảo đảm môi trường
sinh thái. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hợp lý gắn với nâng cao chất
lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH – HĐH); ứng dụng tiên bộ khoa học công nghệ; tăng cường đầu tư
kết cấu hạ tầng cơ sở. Nâng cao chất lượng giáo dục, y tế. tăng cường cải thiện đời
sống vật chất của nhân dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo; giữ vững ổn định xã,
bảo đảm quốc phòng an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Tăng cường quan hệ
hợp tác quốc tế, đặc biệt là quan hệ hữu nghị với các tỉnh Bắc Lào.
2.1.1. Đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố Sơn La
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố sơn la chủ yếu là người
địa phương, chịu sự chi phối của các yếu tố văn hóa, xã hội ở địa phương.
Đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố sơn la đa số là người địa phương, được

hình thành thông qua phổ thông đầu phiếu (có trường hợp ngoại lệ bổ nhiệm). Do
đó, mọi hoạt động của đội ngũ này luôn chịu sự chi phối của các yếu tố văn hóa, xã
hội địa phương.
Đội ngũ CBCC cấp xã được hình thành trực tiếp từ việc lựa chọn của quần
chúng. Địa phương nào có trình độ kinh tế phát triển trên nền văn hóa công dân
cao thì có khả năng cố một chính quyền vận hành tốt, người những người lãnh đạo
và quản lý trung thực, có nhiệt huyết, có năng lực và đặc biệt là họ được sự tin
tưởng của cộng đồng làng xã. Ngược lại, trong một môi trường văn hóa xã hội
công dân yếu, bộ máy chính quyền hoạt động sẽ thiếu tính dân chủ và hiệu quả
thấp, đội ngũ cán bộ này sẽ chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa, tâm lý, cư dân làng
xã, phong tục tập quán. Ở nhiều địa phương, yếu tố này phổ biến tình trạng “Chi
bộ họ ta”, tình trạng thành viên cấp ủy được bỏ phiếu theo dòng họ, theo phe cánh,
theo làng vẫn còn. Quan hệ anh chị em, chú bác trong Đảng ủy, giữa các chi bộ xã
la không hiếm.
Có khi vì quan hệ họ hàng mà nể nang, né tránh đấu tranh; ngược lại, có khi
vì quan hệ dòng họ mà đấu tranh phe cánh kịch liệt, vượt quá mức cần thiết, dẫn
đến làm tê liệt tổ chức Đảng. Vì vây, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của
các tổ chức Đảng ở cơ sở là vấn đề có tính cấp thiết. Hoạt động trong môi trường
đó đòi hỏi người lãnh đạo phải uyển chuyển, ý thức được vai trò trách nhiệm của
mình khi ứng xử với các mối quan hệ phức tạp.
Thứ hai, đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố sơn la còn số ít chưa được đào
tạo bài bản về tính chuyên môn, chuyên nghiệp, trình độ học vấn còn thấp.
Đội ngũ CBCC cấp xã làm việc theo nhiệm kỳ, do đó tính ổn định về nghề
nghiệp chưa cao, chức trách thường thay đổi qua mỗi kỳ bầu cử, tue tưởng không


yên tâm. Cũng vì tính không chuyên nghiệp nên họ ít được đào tạo khó tổ chức lớp
đào tạo cho đối tượng này một cách lâu dài và cơ bản. Trong thực tế, việc đào tạo
và bồi dưỡng đội ngũ này bị quy định khắt khe về nhiều yếu tố: Nguồn ngân sách,
quan niệm, tâm lý, điều kiện, hoàn cảnh gia đình.

Thứ ba, phạm vi, đối tượng tác động, và phương thức hoạt động của đội ngũ
CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La là rộng, đa dạng và phưc tạp.
Phạm vi tác động của đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La có địa bàn
hoạt động khá rộng bao gồm nhiều lĩnh vực, biểu hiện trên các mặt của đời sống.
Đối tượng tác động của họ trên địa bàn cơ sở là khối quần chúng đông đảo,
phức tạp và không thuần nhất (nhiều giai cấp, tầng lớp, dân tộc,...). Đối tượng lãnh
đạo, quản lý của đội ngũ CBCC cấp xã rất đa dạng, phong phú có những nét đặc
thù truyền thống cách mạng, kiên cường, bất khuất, năng động, sáng tạo, một lòng,
một dạ đi theo Đảng.
Thứ tư, đội ngũ CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La có thể phải đương đầu trực
tiếp với các tình huống rất đa dạng và phức tạp ở cơ sở xã.
Cơ sở là nơi chính quyền sống trong lòng dân, vì vậy, đội ngũ CBCC cấp xã
luôn luôn phải tiếp xúc, giải quyết những mâu thuẫn, tình huống xảy ra từng ngày
ở cơ sở. Tình huống được nảy sinh do nhiều nguyên nhân, khách quan, chủ quan
có, tựu chung lại đó là những đòi hỏi của người dân về cong bằng dân chủ, về thực
hiện pháp luật và cách đối xử của chính quyền giữa cán bộ với dân, những biểu
hiện sai trái vi phạm quyền làm chủ của dân. Những tình huống đó đã làm tổ hại
đến lợi ích của dân làm họ bất bình và phản ứng. Đôi khi những phản ứng dẫn tới
sự bất ổn định ở địa phương, làm suy yếu cơ sở, suy yếu lòng tin của dân với chính
quyền, với Đảng, suy yếu khối đại đoàn kết.
Đặc điểm này cho thấy, nếu người CBCC cấp xã không đủ trình độ, trí tuệ,
năng lực, không công tâm sẽ mất vai trò lãnh đạo và quản lý, sẽ xuất hiện những
điểm nóng và làm suy yếu nguồn lực quan trọng của xa hội đó là nguồn lực con
người.
Thứ năm, đạo đức tác phong, sự gương mẫu của người CBCC cấp xã có ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
Trước hết của người CBCC cấp xã là tấn gương về đạo đức và ngược lại. Sự
thất bại đầu tiên ở các xã là sự thoái hóa về đạo đức, lối sống. Người dân ở cơ sở
một lòng tin với Đảng, với chế độ bắt đầu từ cách nhìn đối với người cán bộ cơ sở
- chính diện – phản diện. Với tư cách là người đứng đầu, giữ các vị trí trọng trách

trong các tổ chức của HTCT trong các xã, người CBCVC xã không chỉ tiêu biểu về
trí tuệ mà còn là người thể hện về chuẩn mực đạo đức cách mạng trong sáng, đây
là môt phương diện cơ bản của người CBCC cấp xã lãnh đạo bằng sự gương mẫu.
Người CBCC cấp xã luôn chịu sự gián sát của quần chúng nhân dân, người dân tin
ở sự lãnh đạo của Đảng, ở chính quyền thông qua sự nhìn nhận về đạo đức, nhân
cách, tác phong, sự gương mẫu của họ. Đặc điểm này cho thấy muốn phát huy


được vai trò của mình, người CBCC xã nhất thiết phải là tấn gương sáng trong tổ
chức, trong các đoàn thể. Muốn hướng về dân và lãnh đạo thì người cán bộ “Đầu
nghĩ, miệng nói, tay làm, tay lắm nghe”. Đạo đức cách mạng, sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư của người CBCC các xã không chỉ là tấn gương trong sáng
cho người dân tin cậy và noi theo mà quan trọng hơn, họ nói dân nghe, dân tin và
làm theo họ, lúc đó sẽ tạo thành một lực lượng thống nhất có khả năng tháo gỡ
được mọi khó khăn tạo nên sự ổn định bền vững của chính quyền cơ sở. Đặc điểm
này luôn đặt người CBCC cấp xã vào cuộc đấu tranh giằng co giữa cái xấu và cái
tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái đúng và cái sai, giữa phần tốt và phần xấu
trong con người của họ trước những tấc động ngoại cảnh. Trong cuộc đấu tranh đó,
người CBCC các xã có thể ngày càng lớn lên cùng với sự phát triển ở địa phương
cùng với phong trào của quần chúng, nhưng cũng có thể bị đào thải nếu không
vượt qua mọi sự cám dỗ hoặc bị quyền lực làm tha hóa mà dẫn đến thất bại.
2.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố Sơn La
hiện nay.
2.2.1. Về số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt
Thành phố Sơn La có tổng 12 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 07 Phường và
05 xã. Tổng số cán bộ chủ chốt cấp xã (tương ứng với các chức danh theo Nghị
định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ) trên địa bàn có 117
người.
Về cơ cấu, giới tính: Cơ cấu CBCC cấp xã ở thành phố Sơn La càng được đổi
mới theo hướng tăng cường nữ, tuy nhiên tỷ lệ nam giới chiếm 68,4%, nữ giới

chiếm tỷ lệ 31,6%; trong đó cán bộ cấp xã tập trung ở chức danh Chủ tịch Hội phụ
nữ chiếm tỷ lệ 100%.
Số lượng phụ nữ giữ chức danh Bí thư là 2 đồng chí (chiếm 16,7%), Phó Bí
thư 6 đồng chí (chiến 50%), Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân 4 đồng chí (chiếm
33,3%), Chủ tịch ủy ban nhân dân 1 đồng chí (chiếm 8,3%), Phó chủ tịch ủy ban
nhân dân 1 đồng chí (chiếm 8,3%), Chủ tịch MTTQVN 4 đồng chí (chiếm 33,3%),
Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 5 đồng chí (chiếm 41,7%), Chủ tịch Hội nông
dân 2 đồng chí (chiếm 16,7%), các chức danh khác không có nữ giới.
Như vậy, tỷ lệ cơ cấu cán bộ nữ của đội ngũ CBCC cấp xã là thấp so với cán
bộ nữ trong cơ cấu dân cư. Thực tế này phản ánh năng lực, trình độ cán bộ nữ còn
thấp, chưa đảm bảo tiêu chuẩn để cấp trên giao nhiệm vụ, đồng thời phản ánh công
tác chăm lo đào tạo, tạo nguồn cán bộ yếu và thiếu. Hơn nữa do điều kiện kinh tế
của một số dân tộc ở thành phố, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó
khăn, công việc gia đình, việc lo cơm ăn, áo mặc hàng ngày đè nặng lên ngôi vai
người phụ nữ, do đó, họ ít có cơ hội được học tập, đào tạo, nâng cao trình độ nhận
thức; họ còn e ngại tham gia các hoạt động xã hội và phải dành nhiều thời gian
chăm lo tới cuộc sống gia đình. Mặt khác,, quan niệm trọng nam khinh nữ không


chỉ còn ảnh hưởng trong tâm lý của các dân tộc. Do vậy, phụ nữ ít có điều kiện
tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội.
Bảng 2.1. Số lượng và cơ cấu CBCC năm 2017
Cán bộ chủ chốt cấp xã
Ghi chú
(người)
Năm
2017
Số người

117


(Nguồn Phòng Nội vụ thành phố Sơn La 2017)
Cơ cấu cán bộ theo độ tuổi:
Trong tổng 117 cán bộ chủ chốt của các xã, phường ở thành phố Sơn La:
+ Độ tuổi dưới 30: có 5 người, chiếm tỷ lệ 4,3%;
+ Độ tuổi từ 30 dưới 45: có 42 người chiếm tỷ lệ 35,9%;
+ Độ tuổi từ 45 dưới 55 có 43 người chiếm tỷ lệ 36,8%;
+ Độ tuổi từ 55 đến 60 có 23 người chiếm tỷ lệ 19,7%;
+ Độ tuổi trên 60 có 4 người chiếm tỷ lệ 3,4%.
Như vậy, nhóm cán bộ cấp xã có độ tuổi từ 45 dưới 55 chiếm tỷ lệ cao nhất,
song là nhóm có độ tuổi từ 30 dưới 45; nhóm cán bộ cấp xã có độ tuổi trên 60 ở
mức thấp, những người trong độ tuổi này chỉ tập trung ở các đối tượng như Chủ
tịch Hội cựu chiến binh chiếm 36,4%.
Qua bảng số liệu trên cũng cho thấy số lượng cán bộ trên 45 tuổi vẫn còn quá
nhiều chiếm 36,8%. Điều này chứng minh, việc trẻ hóa cán bộ cấp xã, nhất là
CBCC chưa được chú trọng, vì vậy cần có giải pháp đào tạo, bồi dưỡng khuyến
khích động viên cán bộ trẻ để có nguồn kế cận sau này.
Bảng 2.2. Tỷ lệ cán bộ chủ chốt cấp xã phân theo độ tuổi
Stt

Diễn giải

Tổng Dưới 30
số
Số
Tỷ
lượng lệ
Người %

Từ 30 dưới Từ 45 dưới

45
55
Số
Tỷ
Số
Tỷ
lượn lệ
lượ lệ
g
ng

Từ 55 đến Trên 60
60
Số
Tỷ
Số
Tỷ lệ
lượng lệ
lượng

Ngư
ời
42

Ngư %
ời
43
36,8
%
5

41,7
%
7
58,3
%
9
75%

Ngườ
i
23

4

2

Tổng số cán bộ

117

5

1

Bí thư Đảng ủy

12

0


4,3
%
0

2

Phó Bí thư

12

0

0

3

3

Phó Chủ tịch 12
HĐND
Chủ tịch UBND 12

0

0

2

0


0

6

4

2

%
35,9
%
16,7
%
25%
16,7
%
50%

33,3

5
2
1

%
19,7
%
41,7
%
16,7

%
8,3
%
16,7

Ngườ
i
4

%

0

0

0

0

0

0

0

0

3,4%



×