Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phân tích quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.19 KB, 19 trang )

MỞ BÀI

Tín dụng ngân hàng là kênh huy động nhanh nhất, hiệu quả nhất. Các tổ chức tín
dụng (TCTD) càng đa dạng hóa các hình thức cho vay bao nhiêu thì càng tạo ra
các điều kiện cho các tổ chức, cá nhâ có nhu cầu sử dụng có thể dễ dàng tìm
được cho mình một hình thức phù hợp với khả năng kinh doanh của mình. Qua
đó, ta rất dễ nhận thấy mỗi hình thức cho vay trong hoạt động tín dụng của
TCTD đều chứa đựng trong mình những ý nghĩa cơ bản, không chỉ riêng đối với
từng doanh nghiệp mà còn tạo ra nền tảng để ổn định nền tài chính quốc gia, và
đồng thời thiết lập được một hệ thống pháp luật về Tài chính_ Tiền tệ của Việt
Nam trọng giai đoạn hiện nay.
Hoạt động cho vay là một hình thức cấp tín dụng quan trọng và phổ biến của các
tổ chức tín dụng. Việc nghiên cức nó có ý nghãi rất quan trọng về mặt pháp lý và
thực tiễn. Bởi vậy, em xin chọn đề tài: “Phân tích quy định pháp luật về hoạt
động cho vay của tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng thông qua hoạt
động cho vay của một ngân hàng thương mại đối với cá nhân trong năm
2013”.
I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1. Khái niệm cho vay của tổ chức tín dụng
Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, theo
đó tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (khách hàng) một khoản vốn tiền
tệ, bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng thời gian nhất
định, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo hoả thuận.

1


2. Đặc điểm hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng :
Ngoài những dấu hiệu chung của quan hệ cho vay, hoạt động cho vay của tổ
chức tín dụng còn thể hiện ở những dấu hiệu có tính đặc thù sau:



Việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh
mang tính chức năng. Các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng cũng
có thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng như một hoạt động kinh
doanh nhưng hoạt động cho vay của tổ chức này hoàn toàn không phải là
nghề nghiệp kinh mang tính chức năng.



Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là một nghề kinh doanh có điều
kiện, thể hiện ở chỗ hoạt động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng
phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định, phải
được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến
hành việc đăng ký kinh doanh theo luật định.



Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài sự điều chỉnh của pháp luật
về hợp đồng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng,
kể cả tập quán thương mại về ngân hàng.
3. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay:

Nguyên tắc tránh rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng: trong hoạt
động ngân hàng thường có tính rủi ro rất cao và thường mang tính chất dây
chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Để tránh những rủi ro này,
các tổ chức tín dụng ngày nay thường thực -hiện việc thẩm định tín dụng với tám
biện pháp thẩm định sau: tính cách người đi vay (character), tư cách của người đi
vay (capacity), khả năng trả nợ (capability), dòng tiền (cashflow), vốn (capital),

2



điều kiện hoạt động (conditions), tài sản chung (collectability) và tài sản thế chấp
(collateral).
Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích: nguyên tắc này đảm bảo cho
các tổ chức tín dụng tránh được những rủi ro từ bên vay, đồng thời đảm bảo được
tính thực hiện hợp đồng, nếu bên vay vi phạm nguyên tắc này thì bên cho vay có
quyền huỷ bỏ hợp đồng và bên vay phải chịu sự điều chỉnh theo pháp luật.
Nguyên tắc hoàn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo thoả thuận: Bên
vay phải đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc này. Trường hợp bên vay có thể trả
chậm hơn thời han quy định nếu có sự gia hạn và được bên cho vay chấp thuận,
nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc này, thanh toán cả gốc và lãi theo đúng thời
gian đã gia hạn.
4. Phân loại cho vay của tổ chức tín dụng:
- Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay:
+ Cho vay ngắn hạn
+ Cho vay trung và dài hạn
- Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:gồm
+ Cho vay có bảo đảm bằng tài sản
+ Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
+ Cho vay kinh doanh
+ Cho vay tiêu dung
II. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA TỔ CHỨC
TÍN DỤNG
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
Khái niệm:
3



Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên
cho vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, cá nhân) nhằm xác lập quyền và
nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín
dụng (bên cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay)
sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả
khoản tiền đó (tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.
Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:


Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản.



Nội dung hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho
bên vay sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện
có hoàn trả dựa trên sự tín nhiệm.



Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện
luật định, còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do
pháp luật quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền,
bao gồm tiền mặt và bút tệ.



Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho
vay. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.




Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của
bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề
cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
- 2. Chủ thể của hợp đồng tín dụng:

a. Bên cho vay:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở
thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:
4




Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.



Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.



Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.



Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín
dụng với khách hàng.
b. Bên vay:
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên


tắc, những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay
trong mọi hợp đồng tín dụng):


Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ
chức là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện
hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết
hợp đồng tín dụng.



Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện

này chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên
thoả thuận rõ trong hợp đồng tín dụng):


Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.



Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.

5





Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của
người thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo
lãnh.
3. Giao kết hợp đồng tín dụng:
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp

vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp
đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực
hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý
chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
- Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý
do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên
vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên nhận
đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội
dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng.
- Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối cùng,
cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai
đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng.
Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên
vào văn bản hợp đồng tín dụng.

6


4. Hình thức của hợp đồng tín dụng:
-


Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng

đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy
định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
-

Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ

thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng.
-

Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố

công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho
người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý,
an toàn trong trường hợp cần thiết.
-

Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ

quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn
bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương
tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn
bản. Các hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng
viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.
5. Nội dung của hợp đồng tín dụng:
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có
đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp

với pháp luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng
làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp
đồng tín dụng.
7


Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp đồng
tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
-

Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên

cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải
thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.
-

Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải

thỏa thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín
dụng đáo hạn.
-

Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp

đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ
ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước
về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa
thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
-


Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản

rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì
thế, các bên phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng
(trả góp) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay
được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu
trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính
của bên vay khi trả nợ.
-

Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên

cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản
này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về
vốn cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử
dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo
đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu
8


quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thỏa
thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử
dụng vốn đã thay đổi.
-

Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều

khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện
pháp giải quyết tranh chấp bằng con -đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa
chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín

dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc
xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản
như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản
riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp
đồng phụ đính kèm theo hợp đồng chính.
6. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín d ụng:
6.1.. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:
-

Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn và địa điểm cho khách

hàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).
-

Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách

hàng.
-

Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt,

tiền bồi thường thiệt hại (nếu có).
6.2. Quyền và nghĩa vụ của bên vay:

9


-


Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết,

thực hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.
-

Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc

các vi phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
-

Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận

trong hợp đồng tín dụng.
-

Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong

hợp đồng tín dụng.
-

Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồng

tín dụng và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
7. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng:
7.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Hiệu lực pháp lí của giao dịch nói chung và giao dịch thương mại TCTD nói
riêng, thực chất là sự thừa nhận của Nhà nước về những hệ quả pháp lí phát sinh
bởi hành vi giao dịch của TCTD đối với khách hàng. Việc thừa nhận hiệu lực của
một giao dịch pháp lí được Nhà nước thực hiện bằng cách quy định các điều kiện

có hiệu lực của giao dịch và các nguyên tắc xác định hiệu lực của giao dịch đó.
Ở nước ta, các điều kiện này được quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 và
đương nhiên chúng được áp dụng chung cho mọi giao dịch, trong đó HĐTD với
tư cách là một loại hình giao dịch dân sự đặc thù chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn
đầy đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, “chủ thể tham gia HĐTD có năng lực hành vi dân sự”.

10




Bên vay gồm cá nhân, tổ chức phải thỏa mãn điều kiện có đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự.



Bên cho vay: do tính chất đặc thù của hoạt động ngân hàng nên TCTD
phải thỏa mãn 2 điều kiện:-

ü

Tư cách pháp nhân: được xác định dựa trên hai bằng chứng có ý nghĩa

quyết định là giấy phép thành lập – hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp.
ü

Năng lực và thẩm quyền đại diện của người đại diện hợp pháp cho ngân


hàng thương mại: từ điều kiện này có thể khẳng định nếu thể nhân là người đại
diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại không có năng lực tiếp nhận quyền và
thực hiện các quyền đó thay cho và nhân danh ngân hàng thương mại thì coi như
ngân hàng thương mại đã không có khả năng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
mình trong quan hệ pháp luật với chủ thể khác (nghĩa là không có năng lực hành
vi). Mặt khác, cũng có thể xem như giao dịch thương mại của ngân hàng đã vi
phạm điều kiện này khi có bằng chứng chứng minh rằng người xưng danh đại
diện của ngân hàng thương mại không có thẩm quyền đại diện ngân hàng để xác
lập và thực hiện giao dịch với khách hàng.
Thứ hai, “mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo
đức xã hội”.
Đây là điều kiện được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi
công, xét trong mối quan hệ tương hỗ với quyền lợi tư của các bên giao dịch.
Đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại, mục đích và nội
dung giao dịch không chỉ phản ánh lợi ích của các bên mà còn bị chi phối bởi
chính các lợi ích đó. Mục đích của giao dịch thương mại giữa ngân hàng và
11


khách hàng sẽ bị coi là trái pháp luật và đạo đức xã hội khi giao dịch đó được các
bên xác lập nhằm vi phạm các quy tắc pháp lí đã được Nhà nước xây dựng để
bảo vệ quyền lợi chung hoặc nhằm xâm hại các giá trị đạo đức đã được Nhà
nước và xã hội thừa nhận.
Còn nội dung của giao dịch thương mại ngân hàng sẽ bị coi là trái
pháp luật và đạo đức xã hội khi các điều khoản được cam kết bởi ngân hàng và
khách hàng đã vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc vi phạm các chuẩn mực
đạo đức đã được Nhà nước thừa nhận.
Thứ ba, “có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng và tự do ý chí”.
Điều kiện này liên quan mật thiết với điều kiện về năng lực hành vi

dân sự của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ khi nào xác định rõ chủ thể giao dịch
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì việc xác định tính tự nguyện và tự do ý chí
của chủ thể đó mới chính xác và khoa học. Đối với chủ thể giao dịch là pháp
nhân ngân hàng thương mại, việc xác định tính tự nguyện và tự do ý chí có phần
khác biệt và phức tạp hơn so với chủ thể giao dịch là thể nhân.
Thứ tư, “hình thức của giao dịch”.
Đối với các giao dịch dân sự mang tính đặc thù như giao dịch thương
mại của ngân hàng thương mại, vấn đề hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, bởi lẽ loại giao dịch này cần được pháp luật quy định chặt chẽ
về mặt hình thức nhằm ngăn ngừa các rủi ro pháp lí cho các bên trong quá trình
xác lập và thực hiện giao dịch nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của
HĐTD phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Xuất phát từ yêu cầu này của thực tiễn giao dịch ngân hàng, pháp luật đòi hỏi
hầu hết các giao dịch loại này phải được xác lập dưới hình thức văn bản hay tài
12


liệu giao dịch hợp thức và có giá trị chứng cứ chứng minh nội dung cam kết của
các bên
7.2. Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD:
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Trên
thực tế, pháp luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm
phát sinh hiệu lực của HĐTD. Còn ở Việt Nam, theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể
lý giải rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa
thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản
HĐTD.
7.3. Sự vô hiệu của HĐTD và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu:
Trên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện
có hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu

này, về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô
hiệu) hoặc tương đối (có thể vô hiệu).
Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái vô hiệu (tuyệt đối hoặc
tương đối) của các giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân
hàng nói riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là:
- Nếu giao dịch được xác lập nhưng vi phạm những quy tắc pháp lí có mục đích
bảo vệ lợi ích công hay trật tự công thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó đương
nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập (vô hiệu tuyệt đối) và bất kì ai quan tâm đến
lợi ích chung đều có thể yêu cầu toà án tuyên bố vô hiệu.
- Ngược lại, nếu giao dịch được xác lập nhưng chỉ vi phạm các quy tắc pháp lí có
mục đích bảo vệ lợi ích tư hay quyền lợi tư của các bên tham gia vào giao dịch
13


thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó có thể bị coi là vô hiệu (vô hiệu tương đối)
và chỉ những người có quyền lợi bị xâm hại (bao gồm các bên của giao dịch hoặc
người thứ ba không tham gia vào giao dịch nhưng có quyền lợi liên quan) mới có
quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình.
8. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD:
Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp
lý phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD:
-

Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp

đồng nên không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách
nhiệm này do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.
-

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có


thiệt hại vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số
tiền bồi thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ
quan tài phán có thẩm quyền.
9. Tranh chấp và cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ
HĐTD:
Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về
phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài. Vì thế không
phải cứ khi nào có vi phạm hợp đồng thì có tranh chấp hợp đồng mà tuy vào
hoàn cảnh cụ thể để xác định đúng đắn và chính xác thời điểm phát sinh tranh
chấp.
Theo pháp luật Viêt Nam, tranh chấp này sẽ được giải quyết bằng những con
đường sau đây:
14


-

Tự thương lượng giữa các bên tranh chấp: theo quy định của pháp luật,

trước hết các bên có quyền tiến hành thương lượng với nhau nhằm tiến tới dung
hòa lợi ích cho cả 2 bên.
-

Hòa giải giữa các bên tranh chấp thông qua trung gian: giải pháp này có

thể được các bên lựa chọn khi việc thương lượng không đạt kết quả. Việc quy
định cơ chế này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và để tránh cho
các bên những khoản chi phí không cần thiết do phải kiện trước Tòa.
-


Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán: đây là giải pháp cuối

cùng để phân định quyền lợi giữa các bên. Theo điều 22 BLTTDS 2004 tòa án
theo thủ tục dân sự sẽ có thẩm -quyền giải quyết trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận điều khoản lựa chọn trọng tài thương mại khi có tranh chấp phát sinh,lúc
này sẽ áp dụng theo Pháp lệnh trọng tài thương mại.
10. Các loại hợp đồng thông dụng:
Như đã trình bài ở phần trên có nhiều tiêu chí phân chia HĐTD thành nhiều
loại khác nhau, trong phần này chúng tôi sẽ trình bày kỹ hơn về 2 loại HĐTD
thông dụng nhất dựa vào tính chất có bảo đảm của khoản vay gồm có HĐTD
không có bảo đảm và có bảo đảm bằng tài sản
10.1. HĐTD có bảo đảm bằng tài sản:
Giao dịch bảo đảm là một thiết chế ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia
có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới. Kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới cho thấy thiết chế này được xây dựng đã tạo ra một hành lang pháp lý an
toàn cho hoạt động tín dụng nói chung và sự phát triển của nền kinh tế nói riêng.
Việc xác lập các giao dịch bảo đảm luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia giao dịch dân sự, đặc biệt là quyền lợi của bên có quyền
15


trong giao dịch này. Với ý nghĩa đó, việc xác lập các giao dịch bảo đảm đã góp
phần không nhỏ vào sự ổn định của các quan hệ dân sự, kinh tế, tránh các tranh
chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không đúng
nghĩa vụ dân sự, kinh tế của bên có nghĩa vụ gây ra. Đồng thời, trong trường hợp
nêu trên, các giao dịch bảo đảm còn tạo điều kiện khắc phục những thiệt hại cho
bên có quyền một cách nhanh chóng và hiệu quả. Trong lĩnh vực tín dụng, ngân
hàng, chúng giữ một vai trò quan trọng đối với việc mở rộng tín dụng cho nền
kinh tế. Vai trò đó được thể hiện thông qua việc mở rộng khả năng, cơ hội tiếp

cận tín dụng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng của các doanh nghiệp, tổ
chức khác và cá nhân, đồng thời tác động trực tiếp, mạnh mẽ tới quyết định cấp
tín dụng của tổ chức tín dụng.
10.2. HĐTD không có bảo đảm tài sản:
Trên thực tế để đảm bảo an toàn cho hoạt động của TCTD, sự bảo
đảm bằng tài sản cho các khoản vay là cần thiết nhưng đôi khi có những khoản
cho vay kinh doanh hay cho vay tiêu dùng được cung cấp bởi một TCTD lại dựa
trên cơ sở không cần bảo đảm.
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng và các văn bản có liên
quan như các văn bản hướng dẫn thi hành, Thông tư số 07/2003/TT-NHNN ngày
19/5/2003 hướng dẫn thực hiện một số quy định về bảo đảm tiền vay của các tổ
chức tín dụng, Nghị định số 178/1999/NĐ- CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 của
Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; Nghị định số
85/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 về bảo đảm tiền vay
của các tổ chức tín dụng…quy định những điều kiện để TCTD thực hiện quyền
cho vay không có bảo đảm đối với khách hàng căn cứ vào các yếu tố phản ánh
16


năng lực trả nợ của người vay như năng lực chủ thể, uy tín của người vay,
phương án sử dụng vốn và tình hình tài chính của họ trừ những trường hợp hạn
chế cho vay được quy định tại điều 78 Luật các tổ chức tín dụng.
III. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA MỘT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
ĐỐI VỚI CÁ NHÂN NĂM 2013
Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh, 9 tháng đầu năm hoạt động
của Ban đại diện có chuyển biến tích cực. Các thành viên tăng cường kiểm tra,
giám sát ở cơ sở, chỉ đạo thực hiện tốt công tác nguồn vốn, điều hành kế hoạch,
thực hiện chỉ tiêu tín dụng và kiểm soát nợ quá hạn. Tính đến ngày 30/9/2013,
doanh số cho vay tín dụng toàn tỉnh đạt 453 tỷ đồng (tăng 57 tỷ đồng so với cùng

kỳ năm trước) với 20.552 lượt khách hàng vay vốn, tập trung vào một số chương
trình như: Cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, học sinh, sinh viên, hộ sản xuất kinh
doanh tại vùng khó khăn…; doanh số thu hồi nợ 440 tỷ đồng (cao hơn 272 tỷ
đồng so với cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, nợ quá hạn trong 9 tháng đầu năm là
11,7 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 0,45% so với tổng dư nợ, tăng 1,6 tỷ đồng so với thời
điểm 31/12/2013.
Để hoàn thành kế hoạch, trong những tháng còn lại, Ban đại diện đề ra một số
nhiệm vụ, giải pháp: Tiếp tục chủ động làm tốt công tác điều hành kế hoạch và
dự báo nguồn vốn thu hồi, tập trung giải ngân các chương trình không để tồn
đọng vốn; xử lý triệt để nợ quá hạn đảm bảo kịp thời, đúng quy định, tỷ lệ dưới
0,4%, tỷ lệ thu lãi đạt hơn 95%, duy trì nghiêm hoạt động giao dịch xã, tỷ lệ giao
dịch bình quân đạt hơn 95%; nâng cao hiệu quả thí điểm bổ sung Chủ tịch
UBND xã tham gia Ban đại diện Hội đồng quản trị cấp huyện, không có xã có
chất lượng tín dụng trung bình, yếu kém; triển khai Quyết định số 1826/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về giảm lãi suất đối với chương trình cho vay hộ cận
17


nghèo, cho vay hộ sản xuất, kinh doanh vùng khó khăn, nước sạch và vệ sinh
môi trường 0,8%/tháng.
Phát biểu kết luận hội nghị, đồng chí Bùi Văn Hạnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh,
Trưởng Ban đại diện đã phân tích, làm rõ những tồn tại, hạn chế trong hoạt động
của Ban đại diện. Đồng chí yêu cầu trong thời gian tới, các thành viên Ban đại
diện tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động; trên cơ sở rà soát các nhiệm vụ của
năm 2013, trong các tháng còn lại tích cực triển khai các giải pháp thực hiện
hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch; quan tâm lồng ghép hoạt động của Ngân hàng
chính sách với cơ quan, đơn vị mình; tiếp tục củng cố tổ tiết kiệm và vay vốn,
tập trung vào những địa bàn còn nhiều tổ xếp loại trung bình; thực hiện kế hoạch
kiểm tra, giám sát, đánh giá, kiểm điểm báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của
từng thành viên trong Ban đại diện. Đồng thời chủ động xây dựng kế hoạch hoạt

động của Ban đại diện năm 2014

KẾT LUẬN
Bên cạnh những mặt tích cực trong pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng thì vẫn còn những hạn chế. Cần phải hoàn thiện hơn hệ
thống pháp luật để đảm bảo an toàn cho hệ thống các TCTD, nói rộng ra là sự an
toàn cho hệ thống tài chính nước nhà. Trước những biến động của nên tài chính
thế giới ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới tài chính trong nước và sự điều chỉnh liên tục
mức lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước sẽ ảnh hưởng mạnh đến chính sách
cho vay của các tổ chức tín dụng thì pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của
tổ chức tín dụng cần thiết phải hoàn thiện.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.

Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam_ Trường Đại học Luật Hà Nội.
Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010.
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 ban hành
quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khác hàng.

19




×