Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Nghiên cứu tác động toàn cầu hóa đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.62 KB, 43 trang )

Những tác động của toàn cầu hóa đến Việt Nam:
Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học, lãnh đạo Việt Nam đã nghiên cứu
và chỉ ra những tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế, xã hội, chính trị và văn
hoá của Việt Nam.
Tác động về kinh tế
Không ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu và đang
tạo ra những cơ hội cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập vào nền
kinh tế thế giới để trên cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đổi mới
công nghệ.
Việt Nam từ khi mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, có nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư, thương mại phát triển xuyên biên
giới,…. Đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh
tế thế giới và khu vực như BTA, AFTA, WTO… Đây là cơ hội mà để ngành kinh tế
Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có điều kiện phát triển và có sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá đã làm cho sự phân hoá giàu nghèo cũng như sự chênh
lệch về thu nhập, mức sống ngày càng tăng. Sự chênh lệch đó diễn ra ở mọi phương
diện, ở từng địa phương, trong từng doanh nghiệp,…
Tác động về xã hội
Toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với các nước trên thế
giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao. Tuy nhiên, Việt Nam cũng
giống như nhiều nước khác trên thế giới đang đứng trước những hiểm hoạ của thiên
tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,… Đặc biệt toàn cầu hoá kinh tế cùng với việc
phát triển nền kinh tế thị trường của đất nước đã làm nảy sinh tư tưởng thực dụng ở
không ít người. Những tác động đó cùng với một số hiện tượng tiêu cực trong xã
hội đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước.


Tác động về văn hoá
Sự giao lưu quốc tế rộng rãi trên cơ sở của phát triển kinh tế toàn cầu cũng có
những tác động không nhỏ tới lĩnh vực văn hóa. Cùng với việc phục hồi, phát huy


các giá trị văn hoá; nền văn hoá Việt Nam có điều kiện tiếp thu các giá trị mới của
nền văn hoá thế giới và ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, cùng với
những tác động tích cực, toàn cầu hoá cũng gây ra những hệ quả tiêu cực đối với
nền văn hoá Việt Nam như: một số giá trị văn hoá truyền thống không được bảo
tồn, gìn giữ; một số người thay đổi nhanh chóng lối sống, tha hoá đạo đức,…
Nhìn chung, sự tác động của toàn cầu hoá đối với xã hội Việt Nam là mạnh mẽ và
sẽ còn tiếp tục tăng thêm trong những năm tới. Điều quan trọng là chúng ta phải
biết khai thác, tận dụng những mặt tích cực của toàn cầu hoá để tạo ra sức mạnh
chiến thắng các tác động tiêu cực của nó.
Th.s Nguyễn Thị Đào

Tác động của qúa trình toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế ngày nay đã trở thành xu thế chung của thời đại mà các quốc
gia, dân tộc không thể bỏ qua được. Vậy bản chất, những đặc điểm của toàn cầu
hóa kinh tế là gì? Điều này được trình bày tóm lược trong bài viết, cùng với những
phân tích sâu sắc về tác động của quá trình này tới nền kinh tế các nước, đặc biệt


đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi nước ta ngày càng tham gia sâu rộng vào
hội nhập kinh tế quốc tế, để từ đó có nhận thức đúng và những biện pháp phù hợp
nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức.
1 - Toàn cầu hóa kinh tế tác động đến các nền kinh tế
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn đến một xu thế lớn đang chi
phối sự phát triển của thế giới hiện đại, đó là quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa
(tiếng Anh là Globalization), xét về bản chất là quá trình gia tăng mạnh mẽ những
mối liên hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế, xã hội, chính trị giữa các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Trong các nội
dung trên thì toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, vừa là động lực thúc đẩy quá
trình toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Về bản chất, toàn cầu hóa kinh tế là sự gia
tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia và khu

vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển
hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất. Những đặc điểm chủ
yếu của toàn cầu hóa kinh tế là :
Tự do hóa các yếu tố của tái sản xuất xã hội mang tính toàn cầu được thể hiện qua
tự do hóa thương mại đang trở thành nội dung quan trọng của quá trình toàn cầu
hóa kinh tế. Bằng chứng là, mục tiêu của hầu hết các thể chế kinh tế thương mại
song phương và đa phương, đặc biệt là WTO, đều tập trung giải quyết vấn đề tiếp
cận thị trường thông qua các cam kết về tự do hóa thương mại. Đây là quá trình dỡ
bỏ dần những cản trở trong hoạt động thương mại, xóa bỏ sự phân biệt đối xử, tạo
lập sự cạnh tranh bình đẳng, nhằm làm cho hoạt động thương mại trên phạm vi
quốc tế ngày càng tự do hơn thông qua việc cắt giảm dần thuế quan; giảm bớt, tiến
tới loại bỏ hàng rào phi thuế quan, như hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu,
quản lý ngoại hối, phụ thu hàng nhập khẩu, các loại lệ phí và nhiều cản trở vô hình
khác; bảo đảm cạnh tranh công bằng và không phân biệt đối xử.


Đẩy mạnh tự do hóa các hoạt động tài chính và đầu tư quốc tế được đẩy mạnh.
Toàn cầu hóa trong lĩnh vực tài chính được đẩy mạnh thông qua việc tự do hóa
rộng rãi các giao dịch tài chính quốc gia và phát triển các thị trường tài chính quốc
tế, hướng tới một thị trường tài chính mang tính toàn cầu. Tự do hóa tài chính bao
gồm các nội dung cơ bản, như: nới lỏng kiểm soát tín dụng; tự do hóa lãi suất; tự
do hóa tham gia hoạt động ngân hàng và các dịch vụ tài chính trên toàn thế giới,
không phân biệt biên giới; tự do hóa việc di chuyển của các luồng vốn quốc tế. Quá
trình này dẫn đến hệ thống các nền tài chính quốc gia hội nhập và tùy thuộc, tác
động lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ.
Các công ty đa quốc gia (MNCs) ngày càng đóng vai trò quan trọng và chủ đạo
trong các quan hệ kinh tế thế giới. Tính đến năm 2004, toàn thế giới có khoảng
63.000 công ty đa quốc gia với trên 800.000 chi nhánh. Các công ty đa quốc gia
hiện chi phối hơn 80% giá trị thương mại quốc tế, chiếm hơn 90% tổng giá trị vốn
đầu tư và thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới. Với sức mạnh ngày càng

lớn, các công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng ảnh hưởng, duy trì và nâng cao
quyền lực kiểm soát trong các lĩnh vực quan trọng như tài chính, công nghệ, dịch
vụ và lao động. Các công ty xuyên quốc gia chính là một nhân tố cực kỳ quan trọng
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Trong hơn một
thập kỷ gần đây, các công ty xuyên quốc gia đã tăng cường hoạt động mua lại và
sáp nhập (M & A), hình thành các công ty quốc tế khổng lồ có ảnh hưởng ngày
càng lớn đến quá trình phân công lao động quốc tế.
Hình thành ngày càng nhiều tổ chức liên kết kinh tế quốc tế ở những cấp độ khác
nhau (khu vực và thế giới) và vai trò quan trọng của WTO trong quá trình toàn cầu
hóa.
Trong những thập kỷ gần đây, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự phát triển
nhanh chóng và mạnh mẽ của các hoạt động liên kết kinh tế quốc tế. Quá trình liên


kết kinh tế quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, từ liên kết tam giác, tứ giác
phát triển đến liên kết khu vực như: EU, ASEAN, NAFTA, MECOSUR,.. liên khu
vực như APEC, ASEM và liên kết toàn cầu. Trong đó, liên kết khu vực đóng vai trò
quan trọng. Nếu năm 1956 đánh dấu sự ra đời của liên kết khu vực đầu tiên là Cộng
đồng kinh tế châu Âu, thì trong thập kỷ 80 và 90 và của thế kỷ XX, liên kết kinh tế
khu vực đã trở thành làn sóng lan khắp các châu lục. Hiện nay trên toàn thế giới có
khoảng 24 tổ chức liên kết kinh tế khu vực có quy mô lớn với những mức độ quan
hệ khác nhau. Tầm ảnh hưởng của chúng đến mức hầu như không có quốc gia nào
không là thành viên của một liên kết kinh tế quốc tế, nhiều quốc gia đồng thời là
thành viên của nhiều tổ chức liên kết kinh tế khác nhau. Và, nếu khi mới ra đời,
GATT chỉ có 23 thành viên với lĩnh vực điều tiết chủ yếu là trong thương mại hàng
hóa và còn giới hạn ở vấn đề thuế quan, thì đến cuối năm 2005, WTO (tổ chức thay
thế cho GATT trước đây) đã là một tổ chức với gần 150 thành viên, điều tiết hầu
hết các lĩnh vực, khía cạnh của thương mại quốc tế.
Toàn cầu hóa đã thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ cao, nếu nửa đầu thế kỷ XX,
tổng GDP của thế giới tăng 2,7 lần, thì đến nửa cuối thế kỷ, tổng GDP thế giới đã

tăng 5,2 lần. Đầu năm 1950, tỷ trọng thương mại trong GDP toàn cầu là 7%, thì
hiện nay đã tăng lên hơn 50%. Năm 2004, tổng giá trị thương mại toàn cầu đạt hơn
22.267 tỉ USD, làm cho thương mại thực sự trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy sự
phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế thế giới. Biểu đồ sau đây cho thấy mức
tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa thế giới trong 10 năm sau khi WTO ra đời.
Biểu đồ: Tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa của thế giới thời kỳ 1995 – 2004


Quá trình toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến việc những hàng rào kinh tế ngăn cách giữa
các quốc gia dần được dỡ bỏ, điều này đã mở ra những cơ hội thị trường to lớn cho
tất cả các nước, mà trước hết là thị trường xuất - nhập khẩu.
Trong nền kinh tế toàn cầu, cùng với các quan hệ trao đổi hàng hóa dịch vụ tăng lên
mạnh mẽ là sự gia tăng nhanh chóng các dòng lưu chuyển của vốn đầu tư, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý,... được đẩy mạnh. Vì vậy, tham gia vào quá trình toàn
cầu hóa, các quốc gia có cơ hội to lớn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, tiếp nhận được các công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của thế giới, rút ngắn khoảng cách tụt hậu.
Đối với các nước đang phát triển, toàn cầu hóa kinh tế đã tạo điều kiện cho các
quốc gia nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Từ đó
hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, rút ngắn
được tiến trình hiện đại hóa. Xu hướng phân công lao động quốc tế ngày nay đã
chuyển dịch từ chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang, phân công
theo chi tiết, theo quy trình sản xuất. Chẳng hạn, việc sản xuất máy bay của hãng
Boing ở Mỹ có các chi tiết được chế tạo từ gần 100 quốc gia khác nhau.


Những tác động tiêu cực:
Về mặt lý thuyết, toàn cầu hóa kinh tế mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia. Tuy
nhiên, trên thực tế lợi ích của quá trình này phân chia không đều, nó phụ thuộc vào
khả năng cạnh tranh kinh tế của mỗi quốc gia. Nói cách khác, toàn cầu hóa kinh tế

dẫn đến sự phân phối không công bằng các cơ hội và lợi ích kinh tế giữa các khu
vực, quốc gia và từng nhóm dân cư. Vì vậy, nó làm gia tăng thêm tình trạng bất
bình đẳng, làm sâu sắc thêm sự phân hóa giàu nghèo giữa các quốc gia. Hiện nay
các quốc gia phát triển chỉ chiếm 19% dân số thế giới nhưng lại nắm 71% khối
lượng trao đổi buôn bán, tài sản và dịch vụ, 58% đầu tư trực tiếp nước ngoài và
91% người sử dụng mạng Internet.
Toàn cầu hóa kinh tế có thể mang đến những tác động xấu tới nền kinh tế các quốc
gia, kể cả quốc gia giàu lẫn nghèo. Bởi vì, nó đưa đến tình trạng cạnh tranh gay gắt,
nảy sinh vấn đề phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn đề về lao động,
xã hội. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ thất nghiệp lại càng
gia tăng ở một số quốc gia. Phong trào chống lại toàn cầu hóa đang diễn ra khá
mạnh mẽ, nhất là nhóm dân cư chịu nhiều tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu
hóa kinh tế, như nông dân, các chủ trang trại...
Các nước đang phát triển hiện đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc
liệt và không bình đẳng trong các quan hệ kinh tế - thương mại. Tham gia tự do hóa
thương mại buộc tất cả các nước phải chấp nhận "luật chơi" tự do cạnh tranh, nghĩa
là phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với
hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, loại bỏ các hạn chế đầu tư. Trong điều kiện hầu
hết các nền kinh tế của các nước đang phát triển còn đang ở một trình độ thấp kém
thì chính sự tự do cạnh tranh này đặt họ trước những thách thức vô cùng to lớn.
Chẳng hạn, 20 triệu chiếc áo sơ mi xuất khẩu mới có thể mua được 1 máy bay


Airbus hạng trung, trong lúc các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng khoa học,
công nghệ cao lại thường được cắt giảm thuế quan sớm hơn cả.
Toàn cầu hóa kinh tế mở ra cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, song chính
điều đó lại bao hàm khả năng phụ thuộc rất lớn vào bên ngoài của các quốc gia.
Mức độ phụ thuộc này thể hiện trên hai chỉ tiêu chính là tỷ trọng thương mại trong
tổng GDP và tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài, nhất là vốn ngắn hạn trong tổng vốn đầu
tư phát triển. Sự lệ thuộc này dồn các nước vào tình thế phải đối mặt với nhiều rủi

ro do biến động thị trường, giá cả, thậm chí cả các sự cố về xung đột chính trị, sắc
tộc ở một nơi nào đó trên thế giới.
Toàn cầu hóa kinh tế có thể đưa lại những hậu quả xấu về môi trường sống và xã
hội. Bởi vì, việc mở cửa nhằm tiếp nhận các nguồn lực, các thành tựu khoa học
công nghệ, thiết bị máy móc và những nguồn vốn đầu tư của thế giới để phát triển,
bản thân nó cũng tiềm ẩn những mặt bất lợi: sự xâm nhập công nghệ lạc hậu, nạn ô
nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội, sự bất bình đẳng trong xã hội gia tăng.
2 - Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế
Cơ hội thị trường quốc tế sẽ ngày càng rộng mở cho các doanh nghiệp cùng với
tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn những năm đổi mới đã
chứng minh rõ điều này. Trong giai đoạn từ năm 1996 - 2005, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, đạt mức trung bình 17,5/ năm, giá trị xuất
khẩu đã tăng gấp gần 5 lần, từ 7,2 tỉ USD (năm 1996) lên 32,2 tỉ USD (năm 2005),
đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền thương mại phát triển ở mức trung bình
trên thế giới. Và, kể từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu
lực (tháng 12-2001), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng hơn
7 lần, từ 1,053 tỉ USD năm 2001, lên 6,5 tỉ USD năm 2005.


Các doanh nghiệp tiếp cận được với đầu vào nhập khẩu rẻ hơn sẽ tạo điều kiện
giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh. Trong điều kiện Nhà nước thực hiện
bảo hộ đối với một ngành sẽ dẫn đến giá hàng hóa của ngành đó cao hơn so với thị
trường và vì thế những ngành có liên quan, đặc biệt là những ngành sử dụng sản
phẩm của ngành được bảo hộ làm nguyên liệu sản xuất sẽ phải chịu chi phí đầu vào
lớn. Nhưng nhờ việc bãi bỏ các rào cản đối với các luồng lưu chuyển hàng hóa,
dịch vụ, vốn đầu tư,... giá của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh
trong điều kiện cạnh tranh sẽ có xu hướng giảm do không phải/hoặc giảm bớt các
chi phí cho việc nhập khẩu. Do vậy, tự do hóa thương mại góp phần giảm chi phí và
tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp. Thương mại

tự do còn cho phép các doanh nghiệp giảm các chi phí giao dịch, kinh doanh nhờ
các nguyên tắc chung được thống nhất.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Trong tiến trình hội nhập, sự bảo hộ của Nhà nước
đối với doanh nghiệp sẽ phải giảm dần theo các cam kết quốc tế, làm gia tăng mạnh
mẽ áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, đây là một thách thức rất lớn, nhưng cũng là cơ
hội để doanh nghiệp tự vươn lên khẳng định mình. Bởi vì, việc giảm bớt sự bảo hộ
của Nhà nước sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải
đổi mới quản lý, công nghệ, cải tiến sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh mới có thể tồn tại trên thị trường.
Các doanh nghiệp có được môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định kể cả trên
thị trường thế giới và trong nước. Các nguyên tắc, quy định của các tổ chức liên kết
kinh tế quốc tế đều bảo đảm cho các doanh nghiệp có được cơ hội tiếp cận thị
trường xuất khẩu, đầu tư và sản xuất, kinh doanh với các điều kiện ổn định, minh
bạch và có khả năng dự đoán trước.


Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp
cận công nghệ, kỹ thuật hiện đại, học hỏi những kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh
doanh tiên tiến của các nước, từ đó góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất
kinh doanh.
Tuy vậy, trong quá trình hội nhập, các cơ hội và thách thức luôn đan xen nhau. Bên
cạnh những cơ hội và thuận lợi nói trên, tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đó
là:
- Các doanh nghiệp sẽ phải chịu gia tăng sức ép cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu
và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ngay tại thị trường nội địa. Bởi vì, khi hội
nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, thị trường nội địa phải "mở cửa", các rào
cản thuế quan cũng như phi thuế quan bị giảm bớt và loại bỏ, các doanh nghiệp
nước ngoài được tự do tham gia buôn bán, cung cấp hàng hóa, dịch vụ như doanh

nghiệp trong nước trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, các
hình thức hỗ trợ truyền thống rất phổ biến của Nhà nước cho các doanh nghiệp
trong nền kinh tế bao cấp như: trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu ưu đãi,
thưởng xuất khẩu, độc quyền kinh doanh... cũng phải từng bước cắt giảm, xóa bỏ.
Trong khi các hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu do nước ngoài cung cấp đa dạng, phong
phú với chất lượng và giá cả thấp hơn, các nhà cung cấp "trường vốn" hơn và dày
dạn kinh nghiệm trong cạnh tranh quốc tế, chưa nói tới tâm lý chung của người tiêu
dùng vẫn chủ yếu là "sính hàng ngoại". Nhiều doanh nghiệp trong nước có nguy cơ
bị mất thị phần của mình, thậm chí bị phá sản.
- Khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập là khả năng
cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu so với
các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được phản ánh ở hàm lượng tri thức
và công nghệ trong sản phẩm thấp, yếu tố vốn trong cơ cấu giá thành sản phẩm


không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động hoặc điều kiện tự nhiên, trong khi lợi
thế về lao động hiện nay đang giảm dần. Chất lượng hàng hóa, dịch vụ nhìn chung
chưa tốt; chưa đa dạng phong phú về chủng loại; chưa có sản phẩm hàng hóa hay
dịch vụ nào có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới nhờ vào chất lượng và những
thương hiệu mạnh...
- Trình độ công nghệ và trang thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp lạc hậu. Hiện
nay tỷ trọng số doanh nghiệp công nghiệp thuộc nhóm ngành công nghệ cao chỉ có
20,6% (thấp nhất trong số các nước ASEAN, trừ Lào, Cam-pu-chia và My-an-ma),
nhóm ngành công nghệ trung bình 20,7%, còn thuộc nhóm ngành công nghệ thấp
chiếm tới 58,7%, dẫn tới năng suất lao động thấp, tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu
nhiều, hiệu quả thấp, giá thành sản xuất của nhiều sản phẩm cao hơn giá nhập khẩu.
- Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, trừ một số doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, phần lớn (90%) là doanh nghiệp nhỏ và vừa với tiềm lực rất hạn chế về
tài chính, lại khó tiếp cận được các nguồn vốn chính thức, thường phải vay từ các
nguồn không chính thức với lãi suất cao, nên chi phí vốn trở nên đắt đỏ, hạn chế

việc đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng, phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Khả năng nắm bắt thông tin thị trường và thích ứng với những yêu cầu, thay đổi
của thị trường quốc tế còn hạn chế, nên cản trở những cơ hội thị trường do quá
trình hội nhập mang lại. Theo kết quả một cuộc điều tra của Phòng thương mại và
Công nghiệp Việt Nam về năng lực xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng xuất khẩu,
13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu và 62,5% hoàn toàn chưa có khả năng
tham gia xuất khẩu.
- Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn hình thành, hệ
thống luật pháp, chính sách kinh tế chưa hoàn chỉnh cũng là một khó khăn không
nhỏ đối với các doanh nghiệp.


- Bên cạnh đó, cùng với việc thị trường xuất khẩu được rộng mở, hàng hóa của Việt
Nam ngày càng vươn rộng ra thị trường quốc tế, thì nguy cơ phải đối mặt với
những vụ kiện chống bán phá giá của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của
các doanh nghiệp Việt Nam cũng càng tăng lên. Theo thống kê, từ năm 1994 2005, các doanh nghiệp Việt Nam đã phải đối phó với 25 vụ kiện chống bán phá
giá của các nước. Điển hình là những vụ kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ, Liên
minh châu Âu liên quan đến mặt hàng cá da trơn, mặt hàng tôm, xe đạp, giày, mũ
da...
Tóm lại, toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng phát triển khách quan, mang tính quy
luật trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế đang
tác động sâu sắc đến nền kinh tế của tất cả các quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại những cơ hội phát triển to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng
cũng đặt các doanh nghiệp trước những thách thức, khó khăn không nhỏ. Điều đó
đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc để có những giải
pháp phù hợp nhằm tận dụng được những cơ hội, vượt qua thách thức, biến những
thách thức thành cơ hội để phát triển, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh
tranh, đứng vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. TS Nguyễn Văn Hồng



TOÀN CẦU HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM”
PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài

Sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất trong những năm cuối của thế kỉ
vừa qua đã phá vỡ mọi hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người
về mọi mặt giữa các quốc gia. Điều này đã khiến các nền kinh tế của các quốc gia
gắn bó hữu cơ và tùy thuộc vào nhau. Tính liên kết lẫn nhau của các nền kinh tế
đẩy quốc tế hóa kinh tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hóa nền kinh tế thế


giới.
Toàn cầu hóa đang là xu thế lớn tác động một cách trực tiếp sâu rộng tới các lĩnh
vực đời sống xã hội của các quốc gia. Thế giới hiện nay đang chứng kiến xu thế
toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, nó đã trở thành xu thế phát triển của thế giới sau
chiến tranh lạnh. Xu thế này tạo nên mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động qua lại giữa
các quốc gia dân tộc trên thế giới không phân biệt thể chế chính trị, biên giới lãnh
thổ và dưới nhiều mức độ, tính chất khác nhau.
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế phát triển ấy. Đại hội XII của Đảng cộng
sản Việt Nam tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt động
đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế”. Như vậy,trong tiến trình đổi mới và hội nhập, Đảng ta
luôn luôn coi hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung trong đường lối kinh tế,
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; kết hợp nội lực với ngoại lực để tạo
ra sức mạnh tổng hợp của sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong xu thế hội nhập và phát triển như ngày nay năm rõ được bản chất, tác động

của xu thế toàn cầu hóa đối với mỗi quốc gia dân tộc từ có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong đó có Việt Nam.
Toàn cầu hóa một nội dung rộng lớn, có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực
một số nội dung vẫn các ý kiến chưa đồng nhất.Trong phần lịch sử lớp 12 nội dung
toàn cầu hóa chỉ được đề cập đến một phần nội dung rất nhỏ ở bài 10 “Cách mạng
khoa học – công nghệ và xu thế toàn cầu nửa sau thế kỉ XX” và bài 11 “Tổng kết
lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000” (chương trình Cơ bản) bài 11
và bài 12 (chương trình Nâng cao). Chính vì vậy đây là một nội dung khó, ngoài ra
đây cũng là nội dung thường xuyên được sử dụng câu hỏi trong các kì thi học sinh
giỏi, thi Đại học, Cao đẳng trước đây.


Từ những lí do trên, tôi đã mạnh dạn chọn chủ đề “Toàn cầu hóa và tác động của
nó đối với Việt Nam” là vấn đề để nghiên cứunhằm chia sẻ cho các thầy cô và học
sinh bộ môn lịch sử các những vấn đề cơ bản về nội dung lịch sử quan trọng này.
2.

Mục đích của đề tài

Từ việc tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tư liệu và bắt tay vào việc viết chuyên đề
cũng như soạn hệ thống câu hỏi - đáp án có liên quan, chuyên đề Toàn cầu hóa và
tác động của nó với Việt Nam nhằm mục đích:
Làm rõ các kiến thức cơ bản về toàn cầu hóa và biểu hiện của toàn cầu hóa đối với
các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đánh giá được thời cơ và thách
thức (thuận lợi và khó khăn) quá trình hội nhập toàn cầu hóa. Liên hệ với thực tế
quá trình hội nhập và đổi mới ở Việt Nam. Đồng thời, khi triển khai chuyên đề này
ở trường THPT sẽ góp phần giáo dục các em học sinh trong việc nâng cao ý thức,
trách nhiệm của bản thân trong học tập và rèn luyện có đầy đủ những phẩm chất
cần thiết của thanh niên Việt Nam trong thời kì mới, góp phần xây dựng đất nước
Việt Nam ngày càng giàu mạnh và vững bước trong quá trình hội nhập hiện nay

3.

Phạm vi đề tài

Như đã nói ở trên, toàn cầu hóa là một nội dung rộng lớn, đề cập tới nhiều lĩnh vực
như kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội...chuyên đề này tôi tập trung chủ yếu phân
tích toàn cầu hóa ở lĩnh vực kinh tế; đồng thời trình bày một vài nét quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và tác động của xu thế toàn cầu hóa ở Việt Nam.
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Toàn cầu hóa
1.1.Khái niệm Toàn cầu hóa và một số khái niệm liên quan
1.1.1. Cách tiếp cận, quan niệm khác nhau về Toàn cầu hóa
* Quan điểm chống toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là kết quả của chiến lược siêu cường Mỹ, với sự đồng lõa của một số


nước tư bản đế quốc khác, hòng áp đặt cho toàn thế giới sự thống trị của kinh tế
Mỹ, đi cùng với sự thống trị của chính trị Mỹ, văn hóa Mỹ, lối sống Mỹ. Thực chất
của toàn cầu hóa là Mỹ hóa.
* Quan điểm thừa nhận tính tất yếu khách quan của toàn cầu hóa:
- Nhìn nhận trên cơ sở nhấn mạnh khía cạnh phát triển lực lượng sản xuất:
+ Toàn cầu hóa là biểu hiện, là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia, tạo ra mối quan hệ gắn kết, tương
tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên quy mô toàn cầu trong sự
vận động phát triển.
+ Toàn cầu hóa là giai đoạn cao của quá trình phát triển lực lượng sản xuất thế giới,
là kết quả phát triển tất yếu của kinh tế thị trường và khoa học công nghệ. Những
người theo quan điểm này nhấn mạnh khía cạnh phát triển lực lượng sản xuất khi
xem xét bản chất của toàn cầu hóa.
- Có ý kiến nhấn mạnh khía cạnh quan hệ sản xuất, xem toàn cầu hóa là một giải

pháp về quan hệ sản xuất để phù hợp với lực lượng sản xuất nhưng chưa làm rõ đó
là quan hệ sản xuất nào nên chưa rõ ràng về bản chất của toàn cầu hóa.
- Xem xét toàn cầu hóa trên cấp độ nền kinh tế thế giới:
+ Toàn cầu hóa là xu hướng bắt nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trường
là hệ thống mở, không bị giới hạn bởi các đường biên giới và ranh giới dân tộc,
chủng tộc và tôn giáo. Nói cách khác, toàn cầu hóa là quá trình tự nhiên đi tới cộng
đồng toàn thế giới của những người lao động tự do và phát triển toàn diện.
+ Ủy ban Châu Âu cho rằng: “Toàn cầu hóa có thể được định nghĩa như là một quá
trình mà thông qua đó, thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở nên
ngày càng phụ thuộc lẫn nhau do có sự năng động của việc buôn bán hàng hóa và
dịch vụ cũng như do có sự lưu thông tư bản và công nghệ. Đây không phải hiện
tượng mới mà là sự kế tục của một tiến trình đã được khơi mào từ khá lâu.” Theo


quan niệm trên, thực chất toàn cầu hóa là toàn cầu hóa kinh tế.
+ Theo Asfan Kumssa, toàn cầu hóa là một sự liên kết kinh tế thế giới, theo đó
những gì đang diễn ra ở một phần thế giới đều có thể tác động đến môi trường kinh
tế, xã hội và cách sống của các cá nhân, cộng đồng ở những nơi khác trên thế giới.
Toàn cầu hóa là việc hình thành một chuỗi các mối liên kết và ràng buộc giữa các
chính phủ và các xã hội tạo lập nên hệ thống thế giới hiện đại.
- Toàn cầu hóa xem xét trên cấp độ của nền chính trị thế giới: hiện đang có ba loại
quan điểm chủ yếu về toàn cầu hóa.
+ Những người theo chủ thuyết thực tế và thực tế mới cho rằng toàn cầu hóa không
làm biến đổi sự phân chia lãnh thổ thế giới thành các quốc gia dân tộc. Mặc dù tính
liên kết ngày càng tăng giữa các nền kinh tế và xã hội có thể làm chúng phụ thuộc
lẫn nhau nhiều hơn nhưng điều này không thể áp dụng cho hệ thống các quốc gia.
Các quốc gia vẫn giữ được chủ quyền và toàn cầu hóa không làm mất đi cuộc tranh
giành thế lực chính trị giữa các quốc gia.
+ Những người theo thuyết tự do và tự do mới coi toàn cầu hóa là thành phẩm cuối
cùng của một số biến đổi lâu dài nền chính trị thế giới. Toàn cầu hóa đang làm đổ

vỡ căn bản những nhận định, đánh giá của những người theo chủ thuyết thực tế, vì
các quốc gia không còn là các tác nhân trung tâm như trước đây nữa. Họ quan tâm
đến cách mạng công nghệ và thông tin liên lạc, cho rằng các quốc gia không còn là
những đơn vị khép kín như trước đây nữa mà thế giới giống như một mạng lưới
quan hệ hơn là các mô hình quốc gia. Toàn cầu hóa báo hiệu sự đăng quang của
một trật tự toàn cầu mới và báo hiệu sự cáo chung của hệ thống các quốc gia.
+ Những người theo chủ thuyết hệ thống thế giới cho rằng toàn cầu hóa chỉ là một
hiện tượng bề ngoài, chẳng có gì mới mà chỉ là giai đoạn phát triển cuối cùng của
chủ nghĩa tư bản quốc tế. Toàn cầu hóa không đánh dấu bước chuyển về chất trong
nền chính trị thế giới. Nó là hiện tượng do phương Tây dẫn dắt với chức năng thúc


đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản quốc tế. Về thực chất, chủ thuyết hệ thống
thế giới gần giống chủ thuyết thực tế. Nhìn chung, cả ba chủ thuyết không mô tả
được sự thật của vấn đề mà chỉ là do cách nhìn nhận toàn cầu hóa theo các khía
cạnh khác nhau.
- Toàn cầu hóa xét trên cấp độ quan hệ giữa các tác nhân là quá trình gia tăng tốc
độ và quy mô phụ thuộc lẫn nhau giữa các tác nhân trên vũ đài quốc tế.
- Toàn cầu hóa xét trên những đặc tính cốt yếu của tiến trình toàn cầu hóa là sự
bành trướng và gia tăng mạnh mẽ các tương quan xã hội và ý thức xuyên qua thời
gian thế giới và không gian thế giới
1.1.2. Khái niệm Toàn cầu hóa và một số khái niệm liên quan
- Khái niệm Toàn cầu hóa:
Khái niệm “Toàn cầu hóa” là một khái niệm có nhiều tranh cãi. Hiện nay có nhiều
cách định nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa dựa trên các cách tiếp cận khác nhau,
thậm chí cùng một phương diện tiếp cận thì các học giả cũng đưa ra các định nghĩa
khác nhau.Ngày càng nhiều nhà khảo cứu đồng tình với hướng tiếp cận đa kích
thước đối với toàn cầu hóa, nghĩa là khẳng định toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực.
Toàn cầu hóa không nên hiểu là toàn cầu hóa kinh tế, không hoàn toàn là hiện
tượng kinh tế và tác động của nó không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế. Thực tế

cho thấy, toàn cầu hóa là hiện tượng phức tạp, sâu sắc và có tính bao trùm trên
nhiều lĩnh vực. Nói cách khác, toàn cầu hóa là một xu hướng bao gồm nhiều
phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Phần lớn các tác giả đều đi đến khẳng định:
- Toàn cầu hóa là một quá trình gắn liền với sự phát triển và tiến bộ xã hội diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu.
- Toàn cầu hóa là quá trình làm biến đổi sâu sắc, toàn diện các mối quan hệ kinh tế,
chính tri, quân sự, văn hóa, khoa học, môi trường…của thế giới.


- Xu thế nổi trội, trung tâm của toàn cầu hóa là toàn cầu hóa kinh tế.
Nhìn nhận toàn cầu hóa trên mọi phương diện, chúng ta có thể định nghĩa chung
nhất về toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa là sự gia tăngmạnh mẽ các mối quan hệ gắn
kết, tác động phụ thuộc lẫn nhau; là quá trình mở rộng quy mô và cường độ hoạt
động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự
vận động phát triển.
- Các khái niệm liên quan:
+ Quốc tế hóa: Là giai đoạn phát triển – giai đoạn cao hơn của toàn cầu hóa
+ Khu vực hóa: Cùng với toàn cầu hóa và bổ sung cho toàn cầu hóa là xu thế khu
vực hóa. Xu thế khu vực hóa vừa là sự thể hiện vừa là sự phản ứng đối với xu thế
toàn cầu hóa. Trong quan hệ với toàn cầu hóa thì khu vực hóa được xem là bước
chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hóa, mặt khác, khu vực hóa hiện nay phản ánh một
thực trạng co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương đồng giữa một vài quốc gia
trước nguy cơ và những tác động tiêu cực do toàn cầu hóa đặt ra.
+ Hội nhập quốc tế: Là quá trình tham gia vào xu hướng toàn cầu hóa.
+ Toàn cầu hóa kinh tế và Hội nhập kinh tế quốc tế: Toàn cầu hóa kinh tế đang là
xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy
các lĩnh vực khác của xu hướng toàn cầu hóa.Toàn cầu hóa kinh tế chính là sự gia
tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực,
tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển

hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể
hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các
dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.
Hội nhập kinh tế là việc các nước đi tìm những điều kiện nào đó mà họ có thể
thống nhất được với nhau, kể cả dành cho nhau những ưu đãi, tạo ra những điều
kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau… nhằm khai thác các


khả năng lẫn nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinnh tế của mình.
1.2. Bản chất, đặc trưng và các biểu hiện của toàn cầu hóa
1.2.1. Bản chất và đặc trưng của toàn cầu hóa
- Bản chất của toàn cầu hóa làsự gia tăng mối liên hệ giữa các quốc gia, tổ chức,
các nhân trên mọi lĩnh vực.Toàn cầu hóa ngày nay có bản chất chủ yếu là toàn cầu
hóa kinh tế với những tác động của nó đền các mặt của đời sống xã hội như quân
sự, chính trị, văn hóa, môi trường... Toàn cầu hóa kinh tế gồm 3 quá trình chính là
tự do thương mại, tự do tài chính và tự do đầu tư.
- Đặc trưng của toàn cầu hóa:
+ Toàn cầu hóa là giai đoạn cao của quốc tế hóa.
+ Toàn cầu hóa gắn liền với khu vực hóa.
+ Toàn cầu hóa gắn liền với sự cạnh tranh, không đối xứng.
+ Toàn cầu hóa là một xu hướng tất yếu, khách quan nhưng lại chịu tác động lớn
của Mĩ và một số nước tư bản lớn.
+ Toàn cầu hóa là một quá trình mang tính hai mặt (vừa đặt ra cơ hội vừa đặt ra
thách thức).
1.2.2. Biểu hiện của toàn cầu hóa
- Về kinh tế:
+ Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.
Một đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa đó là sự phát triển nhanh chóng của quan
hệ kinh tế thương mại và chu chuyển trên phạm vi quốc tế. Hiện nay riêng thị
trường tư bản quốc tế có tổng mức vốn luân chuyển lên tới 400 ngàn tỷ USD trong

một ngày, thị trường này trao đổi khối lượng vốn cao hơn mức vốn của tổng tất cả
các ngân hàng trên thế giới.
+ Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia. Theo số liệu của
Liên hợp quốc, trong những thập niên 90 đã có 53 ngàn doanh nghiệp hoạt động


xuyên quốc gia với 450 ngàn cơ sở sản xuất và chiếm gần 2/3 tổng khối lượng buôn
bán trên toàn thế giới, kiểm soát 2/3 thương mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực
tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trên thế
giới.
+ Sự sáp nhập, hợp nhất các công ti vừa và nhỏ thành các tập đoàn lớnnhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và nước ngoài. Một trong
những xu hướng mới toàn cầu hóa hiện nay (chẳng hạn: Kinh tế là việc sáp nhập và
hợp nhất các công ty thành các tập đoàn lớn, nhất là các công ty khoa học kỹ thuật,
công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Ví
dụ: Vào thập niên 90, các vụ sáp nhập đã lên đến 2500 tỷ USD. Ở Mỹ, năm 1998,
Exon đã sáp nhập Mobile trị giá 86 tỷ USD; Travelers Group sáp nhập Citi Corp trị
giá 73,6 tỷ USD; SBC sáp nhập Communications Americantech trị giá 72,3 tỷ
USD; Bell Atlantic sáp nhập GTE trị giá 71,7 tỷ USD; AT&T sáp nhập Media
online trị giá 63 tỷ USD...). Vào đầu những năm 2000, các cuộc cạnh tranh và sáp
nhập các tập đoàn lớn đã diễn ra gay gắt và quyết liệt với quy mô chưa từng có. Ví
dụ: Công ty truyền thông hàng đầu thế giới American Online (AOL) đã quyết định
mua lại công ty thông tin giải trí thông tin đại chúng lớn nhất thế giới Time Wanner
với giá khoảng 160 tỷ USD, đổi tên mới là AOL Time, có tổng giá trị trên thị
trường là 360 tỷ USD và doanh thu hàng năm đạt lên tới 30 tỷ USD.
+ Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu
vực. Trong quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế
dẫn đến sự ra đời của tổ chức kinh tế, chính trị, thương mại, tài chính quốc tế và
khu vực như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam

Á (ASEAN), khu thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), thị trường tự do Nam Mỹ (Mercosur)...


Cũng trong quá trình toàn cầu hóa về kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến chính trị
dẫn đến sự ra đời của các tổ chức chính trị quốc tế như Liên hợp quốc và các tổ
chức của nó như UNDP, UNFPA, UNESCO, UNICEP, INCTAD, FAO... đang tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển của các nước trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự
hình thành các tổ chức chính trị quốc tế, quá trình toàn cầu hóa đã hình thành luật
pháp quốc tế như công ước quốc tế về luật biển năm 1982, tuyên bố thế giới về
nhân quyền, công ước LHQ về quyền trẻ em mà Việt nam là nước tham gia ký kết
sớm nhất châu Á.
- Về chính trị:
+ Các quốc gia, khu vực tuân thủ định chế toàn cầu
+ Hình thành các tổ chức quốc tế, liên kết khu vực mang tính chính trị
+ Các vấn đề chính trị, quốc phòng an ninh toàn cầu được giải quyết
- Về văn hóa – xã hội:
+ Sự tăng cường đi lại, trao đổi, giao lưu: Đó là quá trình giao lưu, trao đổi, hội
nhập và cả đấu tranh một cách tự nhiên giữa các nền văn hóa. Thông qua các hình
thức liên kết kinh tế, chuyển giao công nghệ, luân chuyển vốn và mở rộng thị
trường, các nền văn hóa khác nhau có điều kiện giao lưu, truyền bá, lan tỏa và thẩm
thấu lẫn nhau làm cho văn hóa phong phú, đa dạng.
+ Sự gia tăng di dân, di cư
Như vậy, không có toàn cầu hóa kinh tế một cách thuần nhất, Toàn cầu hóa còn là
quá trình được mở rộng tới mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong đó có văn
hóa.
1.3. Tác động của toàn cầu hóa
1.3.1. Kinh tế thế giới
- Tích cực:
+ Mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại



+ Thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa lại
sự tăng trưởng cao.
+ Góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi phải tiến hành cải cách sâu rộng để
nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
- Hạn chế:
+ Nền kinh tế toàn cầu mất cân đối: Gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các
quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong một đất
nước. Năm 1982 GDP bình quân thu nhạp các nước phát triển gấp 43 lần các nước
thu nhập thấp, đến năm 1994 là gấp 62 lần.
+ Nền kinh tế toàn cầu ngày càng không ổn định (chứng minh qua các cuộc khủng
hoảng 1929-1933, 1973, 2007)
1.3.2. Chính trị
- Tích cực:
+ Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên
thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người.
+ Xây dựng sự ổn định, hòa bình của nền chính trị quốc tế (giảm xung đột, giải
quyết xung đột theo quan điểm quốc tế).
- Hạn chế:
+ Đòi hỏi thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó thay thế cho hệ thống
chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia
+ Tạo ra nguy cơ đánh mất độc lập tự chủ của các quốc gia.
1.3.3. Văn hóa, xã hội và ngôn ngữ
- Tích cực:Toàn cầu hoá sẽ tạo ra:
+ Một sự đa dạng trong văn hóa mỗi con người, mỗi quốc gia do được tiếp xúc với
các nền văn hoá và văn minh khác nhau.
+ Một sự đồng nhất (tính thống nhất) trong văn hóa giữa các khu vực.



+ Tạo sự ổn định xã hội thế giới, có sự cộng tác hỗ trợ nhau trong giải quyết các
vấn đề xã hội.
- Hạn chế:
+ Làm cho mọi mặt của cuộc sống con người kém an toàn, tạo ra nguy cơ đánh mất
bản sắc dân tộc của các quốc gia.
+ Gia tăng những vấn đề toàn cầu: tình trạng nghèo đói, tệ nạn, khủng bố, tội phạm
xuyên quốc gia...
- Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mĩ (NAFTA
- Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC)
- Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
1.4. Toàn cầu hóa là quá trình mang tính hai mặt, nó vừa đưa lại những cơ hội
phát triển đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức đối với các quốc gia.
1.4.1. Những cơ hội của tham gia toàn cầu hóa kinh tế.
- Thứ nhất, sự phát triển của toàn cầu hóa kinh tế phá bỏ những cản trở, những
hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển quan hệ kinh tế quốc tế, từ đó các quốc gia có thể tận dụng cơ hội cho phát
triển từ thị trường bên ngoài.
- Thứ hai, toàn cầu hóa kinh tế mở ra khả năng cho các quốc gia chậm phát triển
nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành
một cơ cấu kinh tế - xã hội hiệu quả, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hóa.
- Thứ ba, quá trình toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các quốc gia tiếp cậnvới nguồn vốn
và công nghệ kỹ thuật cũng như công nghệ quản lý.
+ Toàn cầu hoá làm gia tăng các hoạt động đầu tư quốc tế, chủ yếu là FDI, với
những đặc điểm chính là nguồn vốn đầu tư ngày càng tăng; chủ thể đầu tư và chủ
thể thu hút đầu tư ngày càng đa dạng; lượng lưu động vốn cho vay tăng rất nhanh;
tự do hoá đầu tư trở thành mục tiêu, chính sách đầu tư quốc tế của tất cả các nước.


+ Toàn cầu hoá thực hiện chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành tựu
của khoa học công nghệ, tổ chức, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, sản xuất cho

các nước được đầu tư phát triển.
- Thứ tư, hội nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực cho phép các quốc
gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thuế quan, hàng hóa có thể nhanh
chóng tiếp cận được thị trường thế giới. Đối với các nước đang phát triển thì hội
nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế cũng chính là tham gia vào diễn đàn cho phép
mình bình đẳng bày tỏ quan điểm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Các tổ chức
khu vực và toàn cầu là nơi tập hợp lại sức mạnh của phương Nam vốn rất dễ bị
phân tán để đấu tranh cho sự bình đẳng.
- Thứ năm, toàn cầu hóa kinh tế thực chất là quá trình mở cửa hội nhập của quốc
gia. Trong quá trình hội nhập, các quốc gia đều nhanh chóng được tiếp nhận những
thông tin, tri thức mới. Quá trình này góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở
nền tảng cho sự phát triển. Bởi lẽ dân chủ sẽ chỉ là hình thức khi nó dựa trên nền
tảng dân trí thấp và ngược lại.
- Thứ sáu, toàn cầu hóa mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia dân
tộc để giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu như: vấn đề môi trường, dân số, chiến
tranh và hòa bình...
1.4.2. Những thách thức đặt ra trong quá trình tham gia toàn cầu hóa kinh tế
- Thứ nhất, toàn cầu hóa đã không phân phối một cách công bằng các cơ hội và lợi
ích giữa các khu vực, quốc gia và trong mỗi quốc gia và từng nhóm dân cư. Trên
thực tế trong toàn cầu hóa những nước phát triển giàu có, những cá nhân giàu có
mới được hưởng phần lớn những lợi thế. Vì vậy toàn cầu hóa đã làm gia tăng thêm
tình trạng bất công làm sâu sắc sự phân hóa giàu nghèo.
+ Các mối lợi từ toàn cầu hoá kinh tế được phân phối không đồng đềuvà không


×