Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức từ thực tiễn Bảo tàng Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 115 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THU

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TỪ THỰC TIỄN
BẢO TÀNG HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC ..........................................................9
1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào tạo công chức, viên chức ...9
1.2. Nội dung thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ..22
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo công chức,
viên chức ..............................................................................................................28
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TẠI BẢO TÀNG HÀ NỘI ..................38
2.1. Tổng quan về bảo tàng hà nội .....................................................................38
2.3. Đánh giá chung hoạt động thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng
công chức, viên chức Bảo tàng Hà Nội giai đoạn 2011 – 2017 ....................55
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
TẠI BẢO TÀNG HÀ NỘI ......................................................................................59


3.1. Nhu cầu, mục tiêu và định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức tại Bảo tàng Hà Nội ..............59
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ..........................................................64
3.2.1. Nâng cao tính khả thi kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo
công chức, viên chức ...........................................................................................64
3.3. Kiến nghị giai đoạn 2020 -2025...................................................................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng công chức, viên chức Bảo tàng Hà Nội giai đoạn 2011-2017 .......41
Bảng 2.2.a. Cơ cấu trình độ học vấn của công chức, viên chức làm việc ở Bảo tàng ...40
Bảng 2.2.b. Cơ cấu ngạch viên chức làm việc ở Bảo tàng Hà Nội .................................43
Bảng 2.2.c. Bảng cơ cấu theo trình độ lý luận chính trị ...................................................43
Bảng 2.2.d. Bảng cơ cấu theo trình độ tin học..................................................................44
Bảng 2.2.e. Bảng cơ cấu theo trình độ ngoại ngữ ............................................................44
Bảng 2.4: Đào tạo bồi dưỡng công chức, viên chức năm 2011.......................................50
Bảng 2.5. Đào tạo bồi dưỡng công chức, viên chức năm 2012.......................................50
Bảng 2.6. Đào tạo bồi dưỡng công chức, viên chức năm 2013.......................................51
Bảng 2.7. Đào tạo bồi dưỡng công chức, viên chức năm 2014.......................................52
Bảng 2.8. Đào tạo bồi dưỡng công chức, viên chức năm 2015.......................................53


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”. Quốc gia nào quan tâm, chăm lo đến nguồn nhân lực, sử dụng

hợp lý và có hiệu quả nguồn nhân lực thì kinh tế đất nước đó phát triển nhanh
chóng và bền vững. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc xây dựng một
nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của việc
quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp bách.
Chiến lược phát triển của mỗi quốc gia đều coi trọng việc tập trung xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, coi đó là mấu chốt của sự phát triển. Xây
dựng nguồn nhân lực cao thực chất là nói đến xây dựng và phát huy sức mạnh cán
bộ, công chức, viên chức. Chính sách đào tạo công chức, viên chức là chiến lược
mang tính thời đại, là một vấn đề xã hội có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của
nhiều quốc gia.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật những kiến
thức cần thiết về quản lý nhà nước, cải cách hành chính, kiến thức về hội nhập và
kỹ năng thực thi công việc để phục vụ yêu cầu của công dân, tổ chức ngày càng tốt
hơn. Thông qua đó, giúp họ nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm được giao, đồng thời hoàn thiện các tiêu chuẩn của ngạch và của từng
vị trí chức danh đang đảm nhiệm. Thời gian qua, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đã
được thực hiện tương đối tốt, song vẫn còn không ít những hạn chế cần được tiếp
tục đổi mới, khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu của tình hình mới hiện nay.
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức trong những năm qua
không chỉ là mối quan tâm chung của tất cả các cấp, các ngành, từng cơ quan, đơn
vị; mà còn là mối quan tâm thiết thực của bản thân mỗi công chức. Hoạt động đào
tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực làm việc cho đội ngũ công chức, đặc biệt là

1


công chức, viên chức các cơ quan chuyên môn; là con đường giúp họ không ngừng
hoàn thiện về phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính Nhà
nước. Có thể nói, với tầm quan trọng của mình, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức thuộc các cơ quan chuyên môn luôn là vấn đề cấp thiết được Đảng
và Nhà nước quan tâm ưu tiên hàng đầu.
Bảo tàng Hà Nội là cơ quan trực thuộc Sở Văn hóa và Thể Thao Hà Nội có
chức năng nghiên cứu, sưu tầm, quản lý, bảo quản, trưng bày, giới thiệu di sản văn
hóa, tài liệu, hiện vật về lịch sử Thăng Long – Hà Nội nhằm phục vụ nhu cầu
nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của công chúng. Do đó, Bảo
tàng cần một đội ngũ công chức, viên chức có chất lượng cao phù hợp với đòi hỏi
cấp thiết của sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của Thủ đô ngàn
năm văn hiến nhằm xây dựng đội ngũ công chức, viên chức đồng bộ, có chất lượng,
đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hiện nay, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức thực sự có đủ đức, đủ tài, giữ vững vai trò nòng cốt, là “cái
gốc của mọi công việc” như lời Bác Hồ đã dạy.
Tổ chức thực hiện chủ trương trên, trong những năm qua, Bảo tàng Hà Nội
luôn quan tâm đến việc xây dựng, phát triển đội ngũ công chức, viên chức thật sự
có trình độ, năng lực đảm đương được nhiệm vụ, đảm bảo chất lượng, hiệu quả
trong công việc; tổ chức bộ máy cơ quan từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả;
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ đi vào nề nếp; trình
độ lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kiến thức các mặt của
công chức, viên chức được nâng lên, từng bước đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Đội ngũ công chức, viên
chức trưởng thành về nhiều mặt, là lực lượng nòng cốt góp phần quan trọng vào
việc phát triển thành phố.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu bước đầu đó, đội ngũ công chức, viên
chức của Bảo tàng Hà Nội nhìn chung vừa thừa, vừa thiếu và không đồng bộ, vẫn
còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi nhiệm vụ dẫn đến kết

2



quả giải quyết công việc chưa đạt yêu cầu. Hơn nữa nhiệm vụ lớn, cấp bách hiện
nay của Bảo tàng Hà Nội là thực hiện việc tổ chức nghiên cứu trưng bày cùng các
hoạt động kèm theo để đến cuối năm 2019 chính thức khai trương hệ thống trưng
bày thường xuyên. Đây là một nhiệm vụ chính trị rất quan trọng. Tuy nhiên, đội ngũ
cán bộ của Bảo tàng Hà Nội hiện nay còn yếu; công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa tập
trung, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, cách thức đào tạo và sử dụng cán bộ còn hạn
chế về tầm nhìn chiến lược, đổi mới công tác cán bộ còn chậm, chưa theo kịp với sự
đổi mới về kinh tế, chưa đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài; chưa ngang tầm với
thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; chưa đủ khả năng để
hoàn thành nhiệm vụ mà cơ quan đã đề ra.
Vì vậy, Bảo tàng một mặt cần có kế hoạch trước mắt tập trung thực hiện
công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức để
từng bước hoàn thiện và phát triển đội ngũ công chức, viên chức Bảo tàng Hà Nội
theo hướng chuyên nghiệp đủ khả năng quản lý Bảo tàng theo mô hình hiện đại,
theo kịp với xu thế phát triển của các bảo tàng trong nước và quốc tế.
Để đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách đào tạo công chức, viên
chức ở Bảo tàng Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách đào tạo công chức, viên chức Bảo tàng, học viên chọn vấn đề: “Thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức từ thực tiễn Bảo tàng
Hà Nội” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung
là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm và cũng là vấn đề được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu.
Đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức đã được một số bài viết, công trình
nghiên cứu nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, các bài viết, công
trình đó đã nêu được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cán bộ, công chức cũng
như đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức. Ngoài ra, có thể thấy nhiều luận văn, luận án cũng đã quan


3


tâm tìm hiểu về đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức. Điểm chung nhất là các
tác giả đã dựa vào lý thuyết đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong tổ chức nói
chung để vận dụng vào trong từng tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Về lý thuyết đào tạo, bồi dưỡng, thường được trình bày trong nhiều sách, tài
liệu khác nhau:
Năm 2001, tác giả Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm trong Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội đã tổng kết
thực tiễn, đưa ra các quan điểm lý luận, phân tích, lý giải, hệ thống hóa các căn cứ
khoa học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.[45]
Trong bài viết “ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở - vấn đề và giải
pháp” in trên Tạp chí Cộng sản số 20/2002, tác giả Lê Chi Mai nhấn mạnh: Công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cần phải được đổi mới một cách cơ
bản, toàn diện, đồng bộ, có hệ thống, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thực sự trở thành giải pháp hữu hiệu nhất
nhằm đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện chính quyền cơ sở hiện nay.[16]
Tác giả Bùi Văn Nhơn, Học viện Hành chính Quốc gia trong công trình Các
giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay thực hiện năm 2005 đã phân tích thực trạng và đề xuất các giải
pháp xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn cuộc sống.[25]
Năm 2008, tác giả Nguyễn Minh Đường với công trình Bồi dưỡng và đào
tạo lại nhân lực trong điều kiện mới đã đánh giá thực trạng đội ngũ nhân lực và
đề xuất các chính sách tuyển dụng, sử dụng cũng như đào tạo lại và bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ.[10]
Tác giả Nguyễn Ngọc Vân trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Cơ sở

khoa học của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính theo nhu cầu công
việc, thực hiện năm 2008 đã đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học của đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu công việc.[47]

4


Trong bài viết“Cải cách quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
nhằm nâng cao năng lực thực thi công vụ, công bố trên Tạp chí Tổ chức nhà nước,
tác giả Ngô Thành Can đã giới thiệu quy trình 4 bước đào tạo, bồi dưỡng trong đó
nhấn mạnh đến việc xác định nhu cầu đào tạo như là khâu then chốt.[3]
Trên Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Nội vụ tháng 6/2014, tác giả Nguyễn
Minh Phương có bài “Tiếp tục đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước”. Bài viết làm rõ việc đổi mới
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh mới
nhằm nâng cao hiệu quả bộ máy hành chính.[26]
Nguyễn Thị La trong bài “Đào tạo, bồi dưỡng, công chức trong quá trình cải
cách hành chính” trên Tạp chí Cộng sản 04/09/2015 đã tổng kết, khái quát một số vấn
đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức trong tiến trình cải cách hành chính nhà
nước.[15]
Trong luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị Đào tạo, bồi dưỡng công chức trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta (qua thực tiễn ở Thành phố Hà Nội), Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 2006, tác giả Tạ Quang Ngải dựa trên cơ sở lý luận
và thực trạng công tác, đào tạo, bồi dưỡng công chức ở thành phố Hà Nội đã đề xuất
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, công chức ở thành
phố Hà Nội và cả nước trong nền kinh tế thị trường.[17]
Công trình Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay, Nguyễn Lan Hương đăng trên Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER)
là một tài liệu cung cấp khá nhiều thông tin liên quan đến hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức, viên chức với những số liệu dẫn chứng khá phong

phú.[14]
Dựa vào lý thuyết chung về đào tạo bồi dưỡng, các công trình nghiên cứu
trên đưa ra cách tiếp cận về đào tạo bồi dưỡng riêng cho nhóm đối tượng quan tâm.
Tuy đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn ở lĩnh vực đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào bàn về đề
tài thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức từ thực tiễn tại

5


Bảo tàng Hà Nội. Đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ
thống, chuyên sâu để đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính
chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức tại Bảo tàng Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ở Bảo tàng Hà Nội, luận văn đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức Bảo tàng Hà Nội cho những năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức.
Thứ hai, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức từ thực tiễn Bảo tàng Hà Nội dưới góc độ khoa học chính sách công.
Thứ ba, đề xuất định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức cho Bảo tàng Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức Bảo tàng

Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về khách thể: Công chức, viên chức tại Bảo tàng Hà Nội.
Về không gian: Nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức ở Bảo tàng Hà Nội.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu, tập trung đánh giá thực hiện chính sách sách
đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ở Bảo tàng Hà Nội từ năm 2011 đến năm

6


2017 và đề xuất định hướng giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ở Bảo tàng Hà Nội giai đoạn 2018 -2025.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp trong đó tập trung vào một số phương pháp sau:
+ Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan để có
những luận cứ khoa học cho việc đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức Bảo tàng Hà Nội.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu để nhận diện, khảo sát và tìm
kiếm thông tin về bối cảnh và lịch sử của vấn đề nghiên cứu. Tác giả phỏng vấn sâu
đối với cấp lãnh đạo, các trưởng phòng, ban chuyên môn, các viên chức thuộc Bảo
tàng Hà Nội. Bằng cách ghi chép lại các cuộc phỏng vấn sâu này để làm rõ những
chiều cạnh phong phú việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên
chức Bảo tàng Hà Nội, từ đó phân tích toàn diện hơn vấn đề nghiên cứu.

+ Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài đã tiến hành phân tích, đánh giá
thực trạng công tác thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng từ đó chỉ ra được
những mặt mạnh, mặt yếu trong chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức.
+ Phương pháp thống kê: Được tác giả sử dụng để xử lý các số liệu thu thập
được từ kết quả điều tra, khảo sát.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp quan sát, so sánh, tổng hợp,..để
thu thập thêm những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích, đánh giá thực trạng
công tác thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức tại Bảo tàng
Hà Nội.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận
Đề tài sẽ góp phần lý giải nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến
công tác thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức tại Bảo tàng
Hà Nội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn làm cơ sở bước đầu cho việc đánh giá chính sách đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức của Bảo tàng Hà Nội, tổng kết rút kinh nghiệm từ đó
cung cấp những vấn đề có giá trị tham khảo cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách đào tạo công chức, viên chức Bảo tàng Hà Nội.
Luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường chất lượng công tác
đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức tại Bảo tàng Hà Nội.
Luận văn còn chỉ ra một số hạn chế trong việc thực thi chính sách như: Xây
dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo; phổ biến, tuyên truyền chính
sách đào tạo; phân công phối hợp thực hiện chính sách đào tạo.
Đánh giá đúng thực trạng về đội ngũ viên chức, công chức của Bảo tàng Hà Nội
chỉ ra được các ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng đến nguồn nhân lực.

Sản phẩm nghiên cứu còn có thể là tài liệu tham khảo có ích cho những
người tham gia vào việc xây dựng các chiến lược và quản lý, công tác đào tạo, bồi
dưỡng viên chức ngành Bảo tàng ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các biểu và tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận liên quan đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức,
viên chức tại Bảo tàng Hà Nội.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức Bảo tàng Hà Nội.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào tạo công chức, viên chức
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Công chức, viên chức
- Công chức:
Công chức là một khái niệm mang tính lịch sử. Nội hàm của khái niệm này
phụ thuộc rất nhiều vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia và trong từng giai đoạn
lịch sử. Bởi vậy không có một định nghĩa chung về công chức cho tất cả các quốc
gia. Ngay đối với một quốc gia trong từng thời kỳ phát triển khác nhau thuật ngữ
“Công chức” cũng mang những nội dung khác nhau.
Luật Công chức Cộng hòa Liên bang Đức năm 1977 quy định: “Các công
chức Cộng hòa Liên bang Đức đều là những nhân viên làm việc trong cơ quan nhà

nước, trong các cơ quan, tổ chức văn hóa, nghệ thuật, giáo dục và nghiên cứu khoa
học quốc gia gồm: nhân viên các tổ chức công, nhân viên công tác trong các xí
nghiệp nhà nước, các công chức làm việc trong các cơ quan Chính phủ, nhân viên
lao động công, giáo sư đại học, giáo viên trung học hay tiểu học, bác sĩ, hộ lý bệnh
viện, nhân viên lái xe lửa…”
Theo Điều lệ tạm thời về công chức nhà nước của nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, “Công chức nhà nước bao gồm công chức lãnh đạo và không lãnh đạo
và phải thông qua một chế độ tuyển dụng hết sức nghiêm ngặt.
Chức danh không lãnh đạo (công chức nghiệp vụ) bao gồm: Cán sự, chuyên
viên, chuyên viên tổ trưởng, chuyên viên tổ phó, trợ lý chuyên viên nghiên cứu,
chuyên viên nghiên cứu, trợ lý chuyên viên thanh tra, chuyên viên thanh tra.
Chức danh lãnh đạo gồm: Thủ tướng Quốc vụ viện, Phó Thủ tướng Quốc vụ
viện; chức Trưởng, phó cấp bộ, cấp tỉnh; chức phó cấp vụ, cấp sở; trưởng, phó
phòng (trong các vụ, sở, huyện); Tổ trưởng, tổ phó; Trưởng, phó cấp xã”.
Hiện nay, Trung Quốc đã bỏ chế độ công chức theo chức nghiệp mà chuyển
sang công chức theo chế độ hợp đồng.

9


Ở nước Pháp, “Công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ chức
dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa phương
nhưng không kể đến các công chức địa phương thuộc các hội đồng thuộc địa
phương quản lý”.
Quy định trên cho thấy phạm vi khái niệm công chức theo Luật Cộng hòa Liên
bang Đức cũng như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có điểm hẹp hơn so với khái niệm
này trong pháp luật nước ta. Sở dĩ vậy là vì phạm trù công chức của ta không giới hạn
trong phạm vi nền hành chính nhà nước mà nó bao hàm cả hệ thống chính trị.
Ở Việt Nam, công chức là một thuật ngữ được dùng từ rất sớm trong quản lý

nhà nước. Ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII, đã thông qua Luật
cán bộ, công chức[28]. Theo đó. Tại Khoản 2, Điều 4 của Luật cán bộ, công chức
quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội”.
Năm 2010, căn cứ vào Nghị định số 06/2010/NĐ – CP, ngày 25/01/2010 của
Chính phủ có thể xác định: “ Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng,
bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách
nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật”[30].
- Viên chức:
Thuật ngữ “công chức”, “viên chức” thường được hiểu một cách khái quát là
những người được Nhà nước tuyển dụng, nhận một công vụ hoặc một nhiệm vụ
nhất định, do Nhà nước trả lương và có nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân dân, phục
vụ Nhà nước theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, phạm vi rộng hẹp khi xác
định đối tượng là công chức hoặc là viên chức lại không giống nhau đối với các

10


quốc gia khác nhau. Trong điều kiện thể chế chính trị của Việt Nam, có một điểm
đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn có sự liên thông với nhau.
Theo yêu cầu nhiệm vụ, cơ quan có thẩm quyền có thể điều động, luân chuyển họ
giữa các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Với điểm
đặc thù này, việc nghiên cứu để xác định rõ cán bộ, công chức, viên chức một cách
triệt để rất khó và phức tạp.

Thuật ngữ “viên chức” đã được nêu trong Hiến pháp năm 1992. Điều 8 Hiến
pháp quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến
của nhân dân…”. Như vậy, Hiến pháp quan niệm những người phục vụ trong các
cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ, viên chức. Thuật ngữ “viên chức” được
hiểu theo nghĩa rất rộng gồm tất cả những người trong biên chế của các cơ quan, tổ
chức sự nghiệp của Nhà nước thực hiện các công việc của cơ quan, tổ chức đó.
Ngày 15/11/2010, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XII, đã thông qua Luật
viên chức cụ thể hóa đối tượng là viên chức. Theo đó, điều 2 Luật này quy định:
“Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại
đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”[30].
1.1.1.2. Đào tạo, bồi dưỡng
- Đào tạo
Đào tạo được hiểu là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm
trang bị kiến thức cho người học một cách hệ thống để nâng cao năng lực, chuyên
môn, đủ khả năng công tác độc lập theo yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hay nói cách
khác, đào tạo được xem như một quá trình làm cho người được đào tạo trở thành
người có kiến thức và năng lực theo tiêu chuẩn nhất định đề ra.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2004: “Đào tạo có nghĩa là quá trình làm con
người trở nên có năng lực, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất
định”[39].
Các nhà giáo dục cho rằng: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận tương
đối có hệ thống những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên môn, đồng

11


thời rèn luyện về phẩm chất đạo đức, nhân cách chuẩn bị cho con người đi vào cuộc
sống với khả năng lao động nhất định góp phần vào việc phát triển xã hội, duy trì và

phát triển văn minh nhân loại”.
Theo Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ – CP ngày 05/03/2010 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức thì đào tạo được hiểu như sau: “Đào tạo là quá
trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của
từng cấp học, bậc học”[18].
Đào tạo được xem là quá trình làm cho người ta trở thành có năng lực theo
tiêu chuẩn nhất định, trang bị những kiến thức, kỹ năng mới và có khả năng nhận
được một sự phân công lao động, góp phần công sức của mình vào sự phát triển xã
hội nói chung. Quá trình đào tạo, tùy theo mỗi cấp học mà mục tiêu đào tạo phải có
một chương trình, nội dung và thời gian tương ứng, cuối khóa học, nếu người học
đáp ứng những yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp. Thời gian đào tạo tương đối
dài ( từ 1 năm học trở lên) và có cấp bằng, chứng chỉ.
Mặc dù các khái niệm trên tiếp cận đào tạo ở nhiều góc độ khác nhau nhưng
đều có những điểm chung, đào tạo là quá trình huấn luyện, trang bị cho con người
những kiến thức, kỹ năng, thái độ, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để học có thể tự
tạo được việc làm hoặc làm việc trong những ngành nghề nhất định.
- Bồi dưỡng
Bồi dưỡng có thể hiểu là một quá trình liên tục nâng cao trình độ chuyên
môn, nâng cao kiến thức, nâng cao năng lực, phẩm chất và nghiệp vụ trên cơ sở
những kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo trước đó.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Bồi dưỡng là làm tăng thêm trình độ, năng lực
hoặc phẩm chất”[39].
Theo Đại từ điển do GS. Nguyễn Như Ý chủ biên [38], giải thích “bồi dưỡng”:
1. Làm khỏe thêm, mạnh thêm, bồi dưỡng sức khỏe; 2. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn, bồi
dưỡng đạo đức, bồi dưỡng nghiệp vụ. Hoặc “bồi dưỡng”: 1. Làm cho tăng thêm sức
của cơ thể bằng chất bổ; 2. Làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất.

12



UNESCO định nghĩa: Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao trình độ nghề nghiệp. Quá
trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng
chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp.
Cũng tại Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ – CP ngày 05/03/2010 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức: “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật,
nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”[18].
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm bồi dưỡng như sau: Bồi dưỡng là
quá trình làm gia tăng và bổ sung, cập nhật những tri thức mới, kinh nghiệm thực
tiễn và phẩm chất nghề nghiệp nhằm mục tiêu giúp cho người lao động hoàn thiện
những kỹ năng, kỹ xảo để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao phục vụ
cho sự phát triển của tổ chức.
Từ những quan niệm, khái niệm trên chúng ta thấy khó có thể phân biệt một
cách rạch ròi giữa “đào tạo” và “ bồi dưỡng” bởi trong nội hàm của “ đào tạo” có
chứa đựng yếu tố “ bồi dưỡng” và ngược lại, tuy nhiên “đào tạo”, “bồi dưỡng”
không phải là một mà có những điểm khác biệt như: “ Đào tạo” lấy việc trang bị
kiến thức làm chủ yếu, đối tượng chủ yếu là những người tốt nghiệp trung học phổ
thông, sản phẩm sau đào tạo thường gắn với một trình độ nghề nghiệp nhất định
thông qua tấm “bằng” tốt nghiệp, không mang tính thường xuyên, liên tục trong mỗi
con người và chủ yếu do các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân đảm
nhiệm. Ngược lại, “bồi dưỡng” lấy cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, phương
pháp thực hiện là chủ yếu, đối tượng chủ yếu là công chức, viên chức, sản phẩm sau
“ bồi dưỡng” là sự gia tăng về phẩm chất và năng lực thực hiện nhiệm vụ cùng với
tấm “chứng chỉ” bồi dưỡng, nó gắn với từng vị trí việc làm trong suốt quá trình làm
công ăn lương của công chức, viên chức, “bồi dưỡng” chủ yếu gắn với hệ thống các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thực hiện.
Khi sử dụng cụm từ “đào tạo, bồi dưỡng” là thể hiện mối quan hệ giữa “đào
tạo” và “bồi dưỡng”. Đào tạo bồi dưỡng chỉ liên quan đến yêu cầu đòi hỏi những
kiến thức, kỹ năng, hành vi cần thiết để thực thi công việc được giao.Vì vậy, trong

13



các tổ chức, công tác đào tạo bồi dưỡng cần phải được thực hiện một cách có tổ
chức và có kế hoạch.
1.1.1.3. Chính sách và chính sách đào tạo, bồi dưỡng
“Chính sách” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu và
trên các phương diện truyền thông, tuy nhiên cho đến nay vẫn khó có thể đưa ra một
định nghĩa duy nhất. Theo cách hiểu thông thường, chính sách là chương trình hành
động do các nhà lãnh đạo, quản lý đưa ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc
phạm vi thẩm quyền của mình. Chính sách là khái niệm thường được đề cập trong
khoa học hành chính, nhưng thực sự nó còn là phạm trù của khoa học chính trị.
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau, có thể có các định nghĩa khác nhau về
chính sách:
Hugh Hecslo (1972) định nghĩa một chính sách có thể được xem như là một
đường lối hành động hoặc không hành động thay vì những quyết định hoặc hành
động cụ thể.
David Easton (1953) cho rằng chính sách là chuỗi các quyết định và các
hành động phân phối các giá trị. Theo Smith (1976), khái niệm chính sách bao hàm
sự lựa chọn có chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động
của những lực lượng có quan hệ với nhau.
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính sách
công” được sử dụng rất phổ biến. Theo tác giả Đỗ Phú Hải trong công trình
“Nghiên cứu thể chế chính sách công tại Việt Nam” thì: Chính sách công bao gồm
các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành [Peter Aucoin, 1971]. Chính sách công
là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một
nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để
đạt các mục tiêu đó [ William Jenkin, 1978]. Chính sách công là cái mà chính phủ
lựa chọn làm hay không làm [Thomas T. Dye,1984]…
Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:
Chính sách công là một trong những công cụ quan trọng của quản lý nhà nước,

thông qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước
được thực hiện hóa. Chủ thể ban hành chính sách công chính là Nhà nước thông qua

14


các cơ quan quyền lực và các cơ quan quyền lực và các cơ quan thực hiện chức
năng quản lý nhà nước. Do đó, khái niệm chính sách công được diễn đạt như sau:
“Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước
nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các
vấn đề của xã hội theo mục tiêu xác định của đảng chính trị cầm quyền”.[11]
Như vậy, theo quan điểm của chính sách công nói chung ở trên và nhiệm vụ của
công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức có thể đưa ra quan điểm “chính sách
đào tạo, bồi dưỡng là một tập các quyết định có liên quan của nhà nước nhằm biến đổi
thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị”.
1.1.1.4. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
Thực hiện chính sách là quá trình thực thi các chương trình hoặc các chính
sách; nó biểu thị việc chuyển các kế hoạch thành thực tế. Nói cách khác, “thực hiện
chính sách bao gồm các hoạt động có tổ chức được chính phủ thực hiện hướng tới
đạt được các mục đích và mục tiêu tuyên bố trong chính sách [12]
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức Bảo tàng Hà
Nội là quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ dưới các
hình thức khác nhau cho công chức, viên chức phù hợp với yêu cầu giải quyết có
chất lượng công việc được các cơ quan nhà nước giao, do các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức thực hiện.
1.1.2. Vai trò của thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên
chức Bảo tàng Hà Nội
1.1.2.1 Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhằm biến ý đồ chính sách
thành hiện thực

Trong quá trình quản lý, điều hành nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải đối xử với nhiều
đối tượng có quan hệ khác nhau. Có những đối tượng quan hệ với Nhà nước là đồng
sở hữu như các đối tượng thuộc các thành phần kinh tế nhà nước; có những đối
tượng mà tính chất sở hữu gần với sở hữu nhà nước, được nhà nước kết hợp với
thành phần kinh tế nhà nước để xây dựng nền tảng của nền kinh tế. Trong hệ thống

15


các thành phần hiện có, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Do địa vị kinh tế,
chính trị, xã hội và pháp lý của từng đối tượng thuộc các thành phần này không
giống nhau, nên vai trò của chúng đối với sự nghiệp phát triển xã hội ở nước ta
cũng khác. Để phát huy tác dụng của các đối tượng trong quá trình vận động đến
mục tiêu, nhà nước có thái độ ứng xử một cách thích hợp với mỗi vấn đề phát sinh
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Trong quản lý xã hội, công cụ được nhà
nước dùng để chuyển tải thái độ ứng xử của mình đến các đối tượng quản lý là
chính sách. Tùy theo yêu cầu quản lý phát triển nền kinh tế ở từng thời kỳ, nhà nước
chủ động ban hành các chính sách công để thể hiện ý chí trong quan hệ với các
thành phần kinh tế theo định hướng. Như vậy có thể nói, thực thi chính sách công là
giai đoạn biến thái độ ứng xử của nhà nước, ý đồ chính sách thành hiện thực.
Trong những năm qua, đội ngũ công chức, viên chức Bảo tàng Hà Nội đã có
những đóng góp rất quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đặc biệt
là đội ngũ công chức, viên chức Bảo tàng ngày càng được trưởng thành qua thử
thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần độc lập tự chủ, trung thành với
lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Tuy nhiên, do quá
trình phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, do quá trình hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay yêu cầu
đặt ra với đội ngũ công chức, viên chức Bảo tàng hiện nay là cần phải có kiến thức
và năng lực toàn diện, trong đó bao gồm 4 vấn đề cơ bản là trình độ văn hóa, chính

trị; kiến thức kinh tế xã hội; am hiểu về pháp luật và quản lý nhà nước. Do đó công
chức, viên chức đáp ứng được yêu cầu Nhà nước đã xây dựng nhiều chính sách hỗ
trợ đào tạo, bồi dưỡng, công chức, viên chức nhằm giúp họ nắm vững hơn về công
việc và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, xây dựng công chức, viên chức
Bảo tàng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn ngày càng cao, có
năng lực và khả năng thích ứng trong công việc.
1.1.2.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhằm từng bước thực hiện
các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung.
Mục tiêu chính sách được xác định là linh hồn của chính sách, thực hiện ý
chí của chủ thể hoạch định chính sách. Từ lý do hoạch định đến các căn cứ hoạch

16


định chính sách đều nhằm mục đích đạt được mục tiêu do nhà nước đề ra, thỏa mãn
được mong muốn của các đối tượng chính sách và cả xã hội. Tùy theo từng loại
chính sách mà mục tiêu chính sách có mục tiêu dài hạn và trước mắt, mục tiêu định
tính và định lượng, mục tiêu chung và mục tiêu riêng. Một chính sách có thể có
nhiều mục tiêu trong đó có mục tiêu trọng tâm và các mục tiêu bộ phận
Mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức có liên quan
đến nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo những cấp độ khác nhau, nên
không thể cùng một lúc giải quyết tất cả các vấn đề có liên quan và cũng không thể
đốt cháy giai đoạn của mỗi quá trình. Thực hiện chính sách đào tạo công chức, viên
chức để giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng với mục tiêu cơ bản
nhất để đẩy nhanh quá trình vận động của cả hệ thống đến mục tiêu chung. Mục tiêu
chính sách đào tạo công chức, viên chức chỉ có thể đạt được thông qua thực hiện
chính sách đào tạo công chức, viên chức đồng thời giữa các mục tiêu chính sách đào
tạo công chức, viên chức có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng rất lớn đến nhau và đến
mục tiêu chung.
Tùy mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ của đất nước mà việc xác định mục tiêu đào

tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ở Việt Nam cũng khác nhau, việc đào tạo, bồi
dưỡng ở từng thời kỳ phải phù hợp với sự đổi mới tư duy về chức năng của hoạt
động đào tạo, phù hợp với sự phát triển của công chức, viên chức và tình hình phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực hiện mục tiêu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
là để trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ và quản lý nhằm xây dựng đội ngũ công chức, viên chức Nhà nước thành
thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa, tận tụy
với công vụ; có trình độ, quản lý tốt, đáp ứng yêu cầu của việc kiện toàn và nâng
cao hiệu quả của bộ máy Nhà nước; thực hiện chương trình cải cách một bước nền
hành chính Nhà nước.
Mục tiêu của thực hiện chính sách đào tạo phải xác định được học viên đạt
được những gì sau khi kết thúc khóa đào tạo, mức độ kiến thức kỹ năng và khả năng
thực hiện công việc sau khi đào tạo. Mục tiêu chính sách đào tạo phải cụ thể có khả

17


năng đạt được, đo lường được và mô tả toàn bộ kết quả của khóa học bao gồm
những kỹ năng cụ thể cần được dạy, trình độ kỹ năng có được sau đào tạo nhằm
giúp học viên thực hiện công việc tốt hơn, thỏa mãn nhu cầu phát triển cho học
viên. Được trang bị những kỹ năng chuyên môn cần thiết sẽ kích thích học viên
thực hiện công việc tốt hơn, đạt được nhiều thành tích tốt hơn, muốn được trao
những nhiệm vụ có tính thách thức cao hơn. Chuẩn bị đội ngũ quản lý, công chức,
viên chức kế cận, giúp cho công chức, viên chức có được những kỹ năng cần thiết
cho các cơ hội thăng tiến trong công việc.
Trên cơ sở quy hoạch công chức, viên chức cần xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng kể cả đào tạo, bồi dưỡng lại công chức, viên chức theo đúng chức danh
nghề nghiệp; chú ý đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức nguồn và công chức,
viên chức dự bị kế cận các chức danh lãnh đạo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

phải chú ý cả hai mặt, học tập ở trường lớp và rèn luyện qua thực tiễn công tác để
nâng cao kiến thức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo
quản lý, kỹ năng xử lý tình huống. Phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cả chuyên
môn nghiệp vụ và lý luận chính trị. Khuyến khích phong trào tự học tập, tự rèn
luyện để nâng cao trình độ của công chức, viên chức.
Khi xem xét vấn đề này, cần chú ý đánh giá Sở Văn hóa và Thể thao, Sở
Nội vụ, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức cho Bảo tàng Hà Nội hàng năm không; việc cử đi học có căn cứ
vào quy hoạch cán bộ không; kế hoạch, thời gian, nội dung, chương trình bồi
dưỡng công chức, viên chức của Bảo tàng Hà nội có đảm bảo yêu cầu đổi mới,
phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với Bảo tàng Hà Nội không; kết quả các
lớp bồi dưỡng, tập huấn đó như thế nào; xem xét việc phối hợp giữa đơn vị với
các cơ quan cấp trên trực thuộc và có quyền quản lý với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức để quản lý cán bộ trong thời gian học tập tại trường; chế độ
chính sách cho cán bộ đi học.
Như vậy, mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức nhà
nước không chỉ nhằm bổ sung, khắc phục sự thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng,
phương pháp của công chức, viên chức mà phải nâng cao năng lực quản lý, điều

18


hành và thực thi công vụ nhằm xây dựng đội ngũ công chức, viên chức Bảo tàng Hà
Nội vững mạnh, từng bước phát triển theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp đáp
ứng được mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội, đẩy mạnh quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, thực sự đóng góp vào công cuộc đổi mới của đất nước.
1.1.2.3 Thực hiện chính sách nhằm khẳng định tính đúng đắn của chính sách
Chính sách đúng đắn là chính sách đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của một chính
sách tốt. Tuy nhiên, một chính sách sau khi hoạch định được coi là tốt thì giá trị của
nó cũng mới chỉ dừng lại ở phương diện nguyện vọng, mong muốn mà thôi, là sự

thừa nhận của chủ thể ban hành chính sách. Một chính sách được triển khai thực hiện
rộng rãi trong đời sống xã hội, thì tính đúng đắn của nó được khẳng định ở mức cao
hơn, tức là cả xã hội thừa nhận, nhất là các đối tượng thừa hưởng chính sách.
Công chức, viên chức Bảo tàng là những người trực tiếp tổ chức thực hiện
mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do vậy,
việc xây dựng đội ngũ công chức, viên chức Bảo tàng là yêu cầu cơ bản và cấp bách
nhằm tạo ra động lực mới để giải quyết khối lượng công việc của tổ chức, phát huy
nội lực cơ sở, đáp ứng đòi hỏi nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần vào
công cuộc đổi mới đất nước. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay,
công tác đào tạo, bồi dưỡng, công chức, viên chức luôn là vấn đề được quan tâm và
đang được tiếp tục hoàn thiện những quy định về quyền và nghĩa vụ của công chức,
viên chức phù hợp với đặc điểm, tính chất hoạt động nghề nghiệp của họ.
Xác định rõ vai trò và tầm quan trọng chiến lược của công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức trong thực thi nhiệm vụ, Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách để tạo bước chuyển biến đột phá trong công tác
này và đẩy mạnh triển khai các giải pháp thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ công
chức, viên chức chuyên nghiệp, năng động, minh bạch và hiệu quả hơn.
Đảng và Nhà nước định hướng tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý công chức
bảo đảm phát huy tối đa các tiềm năng tri thức và tài năng của công chức, viên chức
phù hợp với cải cách khu vực dịch vụ công, phát triển và hội nhập quốc tế. Thực
hiện chính sách tuyển dụng vị trí việc làm và quản lý công chức theo chuyên môn
nghiệp vụ. Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ ba, khóa

19


VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Quy định số 54/QĐ – TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về chế độ học tập
lý luận chính trị trong Đảng; Quyết định 874/TTg của Thủ tướng Chính phủ về
công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nhà nước,….là những định

hướng quan trọng để để xác định nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức.
Với tầm quan trọng chiến lược của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức,
viên chức trong thực thi nhiệm vụ. Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã
trực tiếp chỉ đạo hướng dẫn Bảo tàng Hà Nội thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức để tạo bước chuyển biến đột phá trong công tác này và
đẩy mạnh triển khai các giải pháp thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức,
viên chức chuyên nghiệp, năng động, minh bạch và hiệu quả. Trên cơ sở đó, Bảo
tàng Hà Nội cũng rất chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên
chức theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp.
1.1.3. Các chủ thể thực hiện chính sách đối với công chức, viên chức Bảo tàng
1.1.3.1. Bộ Nội vụ
Theo Nghị định số 18/2010/NĐ – CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào
tạo, bồi dưỡng công chức [18] Điều 9 có ghi rõ Bộ Nội vụ quản lý chương trình bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu
chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ quản lý chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.
Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về các ngành, lĩnh vực: Tổ chức hành chính, sự nghiệp nhà nước; chính quyền địa
phương, địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; đào tạo, bồi
dưỡng về chuyên ngành hành chính và quản lý nhà nước; hội, tổ chức phi chính
phủ; thi đua, khen thưởng; tôn giáo; văn thư, lưu trữ nhà nước; thanh niên và quản
lý nhà nước đối với các dịch vụ công tác đào tạo bồi dưỡng các cán bộ công chức,
Bộ Nội vụ hướng dẫn các quy định của Chính phủ về tổ chức của cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ.

20


Bộ Nội vụ có nhiệm vụ trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của

Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ theo
chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Bộ đã được phê duyệt và
các dự án, đề án theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; trình Thủ
tướng Chính phủ dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác thuộc ngành, lĩnh
vực do Bộ Nội vụ quản lý hoặc theo sự phân công ban hành thông tư, quyết định chỉ
thị và các văn bản khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; hướng dẫn, kiểm
tra việc thực hiện các văn bản.
1.1.3.2. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
Ủy ban nhân dân cấp thành phố Hà Nội ban hành các chính sách về công
chức, viên chức. Cân đối ngân sách phục vụ cho việc thực hiện chính sách công
chức, viên chức.
1.1.3.3. Sở Nội vụ thành phố Hà Nội
Sở Nội vụ tham mưu với Ủy ban nhân dân thành phố ban hành chế độ, chính
sách khuyến khích công chức, viên chức học tập để nâng cao trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ; phối hợp với các cơ quan có liên quan trình Ủy ban nhân dân thành phố
quyết định việc bố trí, phân bổ kinh phí đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức theo quy định thống nhất quản lý và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức sau khi được Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt. Phối
hợp với Sở Tài chính thực hiện trợ cấp đi học cho công chức, viên chức theo quy định.
Tham mưu với Ủy ban nhân dân thành phố ban hành quy hoạch, kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý; giúp Ủy ban thành
phố tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức,
viên chức sau khi được phê duyệt; Giúp Ủy ban nhân dân thành phố hướng dẫn,
kiểm tra thực việc thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng, công chức, viên chức; tổng
hợp, báo cáo kết quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức hằng năm
gửi Bộ Nội vụ theo quy định.
1.1.3.4. Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội (sau đây gọi tắt là Sở) là cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội; thực hiện chức năng tham


21


mưu, giúp Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội quản lý nhà nước về văn hóa, gia
đình, thể dục, thể thao, quảng cáo (trừ quảng cáo trên báo chí, trên môi trường
mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu
chính, viễn thông, công nghệ thông tin) trên địa bàn thành phố theo quy định của
pháp luật; các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số
nhiệm vụ, quyền hạn theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân thành
phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố và theo quy định của pháp luật.
1.1.3.5 Bảo tàng Hà Nội
Bảo tàng Hà Nội là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể
thao thành phố Hà Nội. Là chủ thể trực tiếp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng công chức, viên chức tại Bảo tàng Hà Nội.
1.2. Nội dung thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
1.2.1.Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức
Tổ chức thực thi chính sách đào tạo là quá trình phức tạp và diễn ra trong
một thời gian dài, vì vậy việc lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan liên quan
triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động hoàn toàn. Do đó cần phải xây
dựng kế hoạch cụ thể trước khi đưa chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên
chức bảo tàng triển khai đến các đối tượng.
Cần có kế hoạch theo sát thực tế cho việc xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực. Việc xây
dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng phải theo sát
với thực tế đảm bảo đúng với chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước.
Đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch
công chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị [18]. Đào tạo, bồi dưỡng phải đảm bảo tiêu

chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý trước khi đề bạc, bổ nhiệm. Đào tạo, bồi dưỡng có

22


×