Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức từ thực tiễn Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.31 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NÔNG BÍCH THỦY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN CƠ QUAN ĐẢNG ỦY KHỐI
CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH

HÀ NỘI, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng công chức từ thực tiễn Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ
quan Trung ương” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Nguyễn Khắc Bình các kết quả công bố trong luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nông Bích Thủy




MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO

8

TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC
1.1. Khái niệm

8

1.2. Nội dung thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức

18

1.3. Các bước tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

21

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

23


Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI

28

DƯỠNG CÔNG CHỨC TẠI CƠ QUAN ĐẢNG ỦY KHỐI CÁC CƠ
QUAN TRUNG ƯƠNG
2.1. Khái quát chung

28

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức

34

2.3. Kết quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức

46

2.4. Đánh giá thực trạng

51

Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI

56

DƯỠNG CÔNG CHỨC Ở CƠ QUAN ĐẢNG ỦY KHỐI CÁC CƠ
QUAN TRUNG ƯƠNG
3.1. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng


56

công chức
3.2. Các nguyên tắc, yêu cầu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức

60

3.3. Các giải pháp

61

KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANQP

An ninh quốc phòng

BTGTW

Ban Tuyên giáo Trung ương


CCLLCT

Cao cấp lý luận chính trị

CVC

Chuyên viên chính

CVCC

Chuyên viên cao cấp

ĐUK

Đảng ủy Khối các cơ quanTrung ương

ĐVM

Đảng viên mới

KNĐ

Kết nạp Đảng

NVCTĐ

Nghiệp vụ công tác đảng

NV


Nhân viên

TCLLCT - HC

Trung cấp lý luận chính trị - hành chính


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Trang
Bảng 2.1.

Biên chế Cơ quan ĐUK (2017)

30

Bảng 2.2.

Cơ cấu và trình độ chuyên môn

31

Bảng 2.3.

Cơ cấu về trình độ lý luận chính trị

31

Bảng 2.4.


Cơ cấu ngạch chức danh chuyên môn

31

Bảng 2.5.

Cơ cấu về độ tuổi

32

Bảng 2.6.

Số lượng công chức đăng ký tham dự các

39

loại hình đào tạo, bồi dưỡng
Bảng 2.7.

Số lượng công chức đã được cử đi đào tạo,

39

bồi dưỡng
Bảng 2.8.

Số lượng cán bộ, công chức được cử đi bồi

48


dưỡng nghiệp vụ
Bảng 2.9.

Số lượng cán bộ, công chức đã được cử đi

49

bồi dưỡng và thi nâng ngạch CVC, CVCC
Bảng 2.10.

Số lượng công chức được cử đi đào tạo sau
đại học

50


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ, công chức là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
hành chính nhà nước, là chủ thể xây dựng và triển khai các thủ tục hành chính
trong tất cả các lĩnh vực, là một mắt xích không thể thiếu trong bất cứ nền hành
chính nhà nước nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm
viêc” đã khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc - công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong”.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cũng được Người cũng nhấn mạnh “học để làm việc,
học để làm người, học làm cán bộ, học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân”.
Cán bộ, công chức trong các cơ quan Đảng ở Trung ương chính là người
tham mưu, hoạch định, tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra việc thực thi các
đường lối chính sách của Đảng ở tầm vĩ mô nên càng có vai trò vị trí quan trọng

cần được thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng đất nước.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán
bộ trong giai đoạn từ năm 2011 - 2020 là “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính
chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”. Ở Trung ương, đội ngũ cán bộ,
công chức đã có chuyển biến rõ rệt về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình
độ chính trị. Tuy nhiên, trước những thách thức của nền kinh tế thị trường, một
bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã bộc lộ những hạn chế,
yếu kém cả về năng lực chuyên môn lẫn ý thức chính trị. Hội nghị Trung ương 4
khóa XI đã nhấn mạnh “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số lãnh đạo cao cấp, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về
sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy

1


theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc”. Như vậy có thể thấy đội ngũ cán bộ, công chức kể cả cán bộ lãnh
đạo còn nhiều yếu kém.
Trong bối cảnh hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đang chủ động hội nhập quốc tế, đã đặt ra những yêu cầu mới đối với
đội ngũ cán bộ, công chức, đòi hỏi đội ngũ này phải nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, đồng thời phải vững vàng cả về ý thức chính trị, giữ được phẩm
chất đạo đức tốt, lối sống chuẩn mực, tránh được các tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức hiện nay đã có nhiều đổi
mới tuy nhiên chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, đôi
khi còn kìm hãm sự phát triển tài năng của cá nhân. Do đó, việc đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức trong các cơ quan
Đảng ở Trung ương nói riêng là một vấn đề quan trọng, cấp bách hiện nay.
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải là chính sách tổng hợp,
xuất phát từ nhiều góc độ như quy hoạch cán bộ, công chức; nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng, các quy định về việc cử cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng…và
phải luôn được cập nhật bổ sung cho phù hợp với tình hình mới của đất nước.
Xuất phát từ những lý do và yêu cầu trên, tác giả đã chọn đề tài “Thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức từ thực tiễn Cơ quan Đảng ủy
Khối các cơ quan Trung ương” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành chính sách
công tại Học viện Khoa học xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức không phải là một vấn đề
mới mẻ mà đã được nhắc đến trong nhiều công trình nghiên cứu, đặc biệt trong
những năm gần đây khi mà yêu cầu nâng cao chất lượng cán bộ, công chức là
một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của đất nước. Quan

2


tâm đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức những kiến thức về lý
luận chính trị, về lãnh đạo, quản lý, về khoa học xã hội, nhân văn và những kiến
thức chuyên môn phù hợp với công việc được giao. Đây là điều kiện quan trọng,
mang tính quyết định đến khả năng phân tích, luận giải những vấn đề thực tiễn từ
những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, trên cơ sở đó vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn của đơn vị, của lĩnh vực mà cá nhân đang được phân công phụ
trách. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng giúp cán bộ có khả năng phân tích, xử lý
các tình huống, hình thành phương pháp nhận thức khoa học và giải quyết các
vấn đề nhanh, nhạy và đạt hiệu quả cao nhất.
Cần đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn
nghiệp vụ công chức, viên chức và tập trung theo hướng chuyên nghiệp, chuyên

sâu; mỗi chức danh, mỗi vị trí việc làm được bồi dưỡng những kiến thức và kỹ
năng phù hợp, thiết thực với công việc đang đảm nhận, các chương trình cụ thể
như: kỹ năng dành cho công chức, viên chức lãnh đạo quản lý; nghiệp vụ cho
công chức, viên chức làm công tác nhân sự, cải cách hành chính, văn thư lưu trữ,
thực hành văn bản; ứng dụng công nghệ thông tin; xử lý tình huống... đặc biệt là
đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan Đảng trung ương.
NGƯT.Nguyễn Thanh Xuân - Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức theo
vị trí, chức danh, đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Nội vụ, 2006; tác giả đã nêu lên
tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức theo chức danh
gồm: Vụ trưởng các cơ quan Bộ, cơ quan ngang Bộ; Giám đốc sở thuộc ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương… Tác giả đã đánh giá được
thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức thông qua đó xác định nhu cầu và đưa ra
các giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức theo chức danh.
Cuốn sách “Quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức công” của Trường Đại
học Kinh tế quốc dân do PGS.TS Trần Thị Thu và PGS.TS Vũ Hoàng Ngân chủ
biên đã đưa ra nhiều nội dung trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực

3


trong tổ chức công như: xác định nhu cầu đào tạo, chuẩn bị đào tạo, chương trình
đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo và tổ chức thực hiện chương trình, đánh
giá hiệu quả đào tạo.
Tác giả Nguyễn Ngọc Vân đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Cơ sở
khoa học của việc đào tạo, bồi dưỡng công chức theo nhu cầu công việc” đã
đánh giá về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà
nước góp phần quan trọng trong việc nâng cao trình độ cán bộ, công chức đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ của từng đối tượng trong thời gian qua.
Cuốn sách “Đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý - Kinh nghiệm từ thực tiễn

Thành phố Hồ Chí Minh” của TS.Trần Xuân Bảo, NXB Chính trị Quốc gia Sự
thật, năm 2012 đã khái quát nội dung, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi
dưỡng lãnh đạo quản lý để làm căn cứ đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lãnh
đạo quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố hiện nay.
Tác giả Phạm Thế Hùng có luận văn thạc sỹ năm 2007 với đề tài “Tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong các cơ quan của Đảng (từ thực tiễn
ở Ủy ban Kiểm tra Trung ương)” đã chỉ ra thực trạng đào tạo, bồi dưỡng về quản
lý nhà nước đối với cán bộ, công chức trong cơ quan kiểm tra của Đảng, từ đó
đưa ra phương hướng, giải pháp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về Quản lý Nhà
nước cho cán bộ, công chức trong các cơ quan của Đảng. Tuy nhiên, tác giả mới
chỉ nhấn mạnh về công tác đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ quan kiểm tra của Đảng mà
chưa nhấn mạnh đến các chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức và các
giải pháp để hoàn thiện các chính sách đó trong các cơ quan Đảng ở Trung ương.
Các công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chủ
yếu mới chỉ đề cập tới chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao hiệu quả, cơ sở
khoa học của đào tạo, bồi dưỡng chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu, đề xuất các
chính sách mới về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và cán bộ,
công chức trong cơ quan Đảng Trung ương nói riêng. Vì vậy, luận văn có những
điểm mới khác biệt với các đề tài nghiên cứu, các bài viết đã công bố.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận về tổ chức thực thi chính
sách đào tạo, bồi dưỡng công chức và thực trạng tổ chức thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng công chức tại Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung
ương để đề ra một số giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức thực thi chính sách
đào tạo, bồi dưỡng công tại Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương
trong những năm tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về công tác tổ chức thực thi chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Đánh giá thực trạng công tác tổ chức thực thi chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức trong Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương.
- Đề xuất những giải pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ trong Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương trong những
năm tiếp theo.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp tổ chức thực thi chính sách đào tao, bồi dưỡng công chức trong
Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Công tác thực thi chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức ở các cơ quan
Đảng Trung ương.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Các ban, đơn vị thuộc Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan
Trung ương và các cơ quan ban Đảng Trung ương (Văn phòng Trung ương; Ủy
ban Kiểm tra Trung ương; Ban Tổ chức Trung ương; Ban Tuyên giáo Trung

5


ương; Ban Nội Chính Trung ương; Ban Kinh tế Trung ương; Ban Đối ngoại
Trung ương; Ban Dân vận Trung ương…)
Thời gian nghiên cứu: từ 03 năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, quan điểm về quản lý

giáo dục, về quản lý và phát triên nguồn nhân lực của Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và luận văn triệt
để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy
phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến tổ chức thực hiện
và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tiếp cận hệ thống, phương pháp thống
kê, so sánh
- Phương pháp chuyên gia và một số phương pháp bổ trợ khác
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống hóa có bổ sung và hoàn thiện cơ sở khoa học cho
việc thực thi chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức qua đó đánh giá
đúng thực trạng của việc thực thi chính sách trong các cơ quan Đảng Trung
ương. Qua đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức thực thi
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.

6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ được ứng dụng, triển khai trong việc
hoạch định chính sách, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong Cơ
quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương.
Đối với bản thân nhà nghiên cứu: qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực
tế nhà nghiên cứu có cơ hội áp dụng những lý thuyết và phương pháp đã được
học vào thực tiễn cuộc sống, đặc biệt là những kỹ năng tổ chức thực thi chính

sách công nói chung. Từ đó giúp nhà nghiên cứu nắm vững kiến thức, rèn luyện
kỹ năng và có thêm nhiều kinh nghiệm trong những nghiên cứu tiếp theo và
trong quá trình công tác của bản thân.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn này ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, nội dung chính chia làm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
tại Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương
Chương 3. Giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
tại Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC
1.1. Khái niệm
1.1.1. Chính sách công
Chính sách công có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội. Chính sách công được dùng để định hướng phát
triển, là động lực thúc đẩy các quá trình phát triển trong xã hội; đồng thời phát
huy các mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực trong xã hội, nâng cao chất lượng
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Chính sách công có vai trò quan
trọng trong việc tạo lập sự cân đối hài hòa, bền vững trong tiến trình phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Muốn hiểu thế nào là chính sách công, trước hết ta cần hiểu về chính sách
nói chung. Theo từ điền giải thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách là sách

lược và kế hoạch cụ thể để đạt được mục đích nhất định, dựa vào đường lối
chính trị chung và tình hình thực tế”
Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp những biện pháp
được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong
đó tạo ra sự ưu đãi một hoặc một nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động
của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển
một hệ thống xã hội”.
Dù bất cứ khái niệm như thế nào đi chăng nữa thì khi đề cập đến phạm trù
chính sách đều phải làm rõ: Chính sách là gì? Ai là người tạo ra nó? Nó tác động
đến ai, đến cái gì? Từ yêu cầu trên có thể hiểu rằng, chính sách là công cụ, là
biện pháp can thiệp của Nhà nước vào một ngành, một lĩnh vực hay toàn bộ nền
kinh tế theo một mục tiêu nhất định, với những điều kiện thực hiện nhất định và
trong một thời gian xác định.

8


Khái niệm chính sách công trên thế giới hiện nay, nhất là ở các nước phát
triển được sử dụng rất phổ biến với nhiều cách thức tiếp cận khác nhau. Khái
niệm chính sách công phụ thuộc vào chế độ chính trị, quan điểm và điều kiện
hoàn cảnh cụ thể về lịch sử, văn hóa, xã hội…. của từng quốc gia. Đứng dưới
góc độ nghiên cứu, tùy thuộc vào từng mục tiêu nghiên cứu khác nhau, các góc
độ nghiên cứu khác nhau, người ta đưa ra những quan niệm khác nhau về chính
sách công:
Theo William Jenkin: Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên
quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với
việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó. Theo quan
điểm của Wiliam N.Dunn thì: Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự
lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các
cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra. Còn Peter Aucoin lại cho

rằng Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành,
B.Guy Peter đưa ra định nghĩa: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của
Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công
dân”.
PGS.TS Lê Chi Mai cho rằng chính sách công có những đặc trưng cơ bản
nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công không
chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi
thực tiễn (chính sách công không chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính
sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm hành vi thực hiện các dự định nói
trên); chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời
sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định, chính sách công được đề ra và thực
hiện nhằm giải quyết một số vấn đề liên quan lẫn nhau trong đời sống xã hội;
chính sách công bao gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau,
khái niệm quyết định ở đây không hoàn toàn đồng nhất với các quyết định hành
chính, càng không thể coi đó chỉ là các văn bản quy phạm pháp luật của nhà

9


nước. Khái niệm quyết định ở đây mang ý nghĩa rộng hơn, nó có thể được coi
như một sự lựa chọn hành động của nhà nước.
Khái niệm chính sách công còn được định nghĩa một các ngắn gọn như
sau: “Chính sách công là những đường hướng ứng xử cơ bản của nhà nước với
những vấn đề chính sách phát sinh trong đời sống cộng đồng bằng nhiều hình
thức khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển xã hội và quản lý xã hội” (Võ Khánh
Vinh, chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công năm 2013 Học viện Khoa
học xã hội). Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, PGS.TS Đỗ Phú Hải - Học
viện Khoa học xã hội đã đưa ra định nghĩa một cách chung nhất về chính sách
công như sau: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên
quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ

thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng
chính trị cầm quyền”[26].
Chính sách công tập trung giải quyết vấn đề xã hội đang đặt ra trong đời
sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu tổng thể đã được xác định, không chỉ đề ra
mục tiêu và các giải pháp với công cụ hành động thực hiện nhằm giải quyết một
hoặc một số vấn đề có mối quan hệ biện chứng đang đặt ra trong đời sống xã hội,
mà còn giải quyết mối quan hệ giữa các bên tham gia chính sách.
Nói tóm lại qua phân tích khái niệm trên ta thấy dù dưới bất kỳ định nghĩa
nào thì chính sách công vẫn là những chính sách do Nhà nước ban hành, Nhà
nước chính là chủ thể xây dựng chính sách và các chính sách là công cụ để Nhà
nước quản lý, đưa xã hội phát triển. Chính sách công có thể chi phối chung, song
cũng có thể chi phối cụ thể đối với từng ngành, từng lĩnh vực trong đời sống xã
hội.
1.1.2. Khái niệm chu trình chính sách công, tổ chức thực hiện chính công
Chu trình chính sách công là một chuỗi các giai đoạn kế tiếp có liên quan
với nhau từ khi lựa chọ vấn đề chính sách công đến khi kết quả được đánh giá.

10


Có nhiều cách thức để nhìn nhận các giai đoạn của một quá trình chính sách như
vậy. Về tổng thể, chính sách công được coi là một chu trình gồm nhiều giai
đoạn:
- Xác định vấn đề là khâu đầu tiên của chính sách công. Dựa trên những
mâu thuẫn từ thực tế đời sống hoặc những vấn đề cấp bách cần giải quyết để xác
định vấn đề chính sách. Vấn đề đã xác định cần được xem xét cẩn thận các mặt
để thấy được vấn đề cốt lõi để đảm bảo tính phổ biến, tính bản chất của chính
sách, ước tính rủi ro có thể gặp phải và hiệu quả sẽ đạt được.
- Xây dựng chính sách là soạn thảo chính sách thành văn bản, tiếp thu ý
kiến của các bên tham gia soạn thảo và các đối tượng sẽ được hưởng hoặc sẽ liên

quan đến chính sách.
- Ban hành chính sách: trước khi ban hành chính sách thì chính sách cần
được phê duyệt; nguyên tắc ban hành chính sách là tự do, công bằng, dân chủ…
thông tin tuyên truyền về chính sách để đảm bảo chính sách được minh bạch và
đến với tất cả các đối tượng liên quan. Khi ban hành chính sách thường các cơ
quan ban hành sẽ kèm theo hướng dẫn thực hiện đối với các chính sách mới.
- Đánh giá chính sách: Sau khi thực hiện chính sách cần được đánh giá để
kiểm tra kết quả thực hiện chính sách, đánh giá những vấn đề chưa được giải
quyết tận gốc để xoay vòng chính sách cho tới khi vấn đề được giải quyết.
Trong các khâu của chu trình chính sách công thì việc tổ chức thực hiện
chính sách công là khâu quan trọng nhất, quyết định trực tiếp đến hiệu quả của
chính sách công.
Tổ chức thực hiện chính sách công chính là hiện thực hóa các vấn đề đã
được xác định trong khâu hoạch định chính sách hay xác định vấn đề đã được
xây dựng thành văn bản ban hành.
Tổ chức thực hiện chính sách công là áp dụng các quyết định để giải quyết
vấn đề lên một đối tượng nhất định đã được xác định trước. Song song với việc

11


áp dụng các quyết định là tuyên truyền chính sách đến các đối tượng có liên
quan. Quá trình thực hiện chính sách có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật
để thực hiện chính sách như đưa ra quy trình thực hiện, hướng dẫn…
1.1.3. Khái niệm công chức
Công chức là một khái niệm được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên
thế giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên
trong các cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Nhưng do đặc thù
của từng quốc gia nên quan niệm công chức ở các nước không hoàn toàn đồng
nhất. Có nước chỉ giới hạn công chức trong phạm vi những người tham gia hoạt

động quản lý nhà nước. Một số nước khác có quan niệm rộng hơn, công chức
bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức có tính chất
công quyền.
Ở nước ta, khái niệm công chức được hình thành gắn liền với sự phát triển
của nền hành chính nhà nước. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công
chức là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 của Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, tại Điều 1 quy định: “công chức là những công dân
Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ chức vụ thường xuyên trong
các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước, trừ trường hợp đặc biệt do
Chính phủ quy định”
Trong một thời gian khá dài, khái niệm công chức ít được sử dụng mà
thay vào đó là khái niệm cán bộ, công nhân viên chức nhà nước, không phân biệt
công chức, viên chức với công nhân.
Khi thực hiện công cuộc đổi mới, trước yêu cầu khách quan của quá trình
cải cách nền hành chính nhà nước đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức,
khái niệm công chức lại được sử dụng trở lại. Tại Nghị định số 169/HĐBT ngày
25 tháng 5 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng, tiếp đó là Nghị định số
95/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 1998 của Chính phủ, Nghị định số

12


117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, khái niệm công
chức được đề cập một cách rõ ràng, cụ thể; xong vẫn chưa phân biệt rõ công
chức hành chính với công chức sự nghiệp.
Trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của đời sống
chính trị pháp lý, Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua ngày 13 tháng 12 năm 2008 quy định
rõ: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,

chức vụ, chức danh trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong các cơ quan,
đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân
mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập thì lương được bảo đảm từ quy lương của đơn vị sự nghiệp công lập
theo quy định của pháp luật” [34, tr.1]
1.1.4. Khái niệm công chức làm công tác đảng
Hướng dẫn thực hiện Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Nghị định số
06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ quy định căn cứ xác
định công chức: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước hoặc được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị và chia thành 7
nhóm: Công chức trong các cơ quan Đảng; công chức trong Văn phòng Chủ
tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước; Công chức trong Bộ, cơ
quan ngang Bộ, tổ chức khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập;

13


công chức trong cơ quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện; công chức trong hệ
thống Tòa án nhân dân; công chức trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân; công
chức trong các cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội”[13, tr.2]
Cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại Cơ quan Đảng ủy
Khối các cơ quan Trung ương được hiểu như sau: người giữ chức vụ, chức danh
đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong Văn phòng, Cơ

quan Ủy ban Kiểm tra, Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận, Trung tâm
Bồi dưỡng chính trị và Cơ quan Đoàn Thanh niên của Cơ quan Đảng ủy Khối
các cơ quan Trung ương.
Như vậy công chức làm công tác đảng cũng là một bộ phận cấu thành đội
ngũ công chức nói chung. Trong đó công chức làm công tác đảng có vai trò tham
mưu, giúp việc cho cấp ủy đảng các cấp và công tác tại các ban xây dựng đảng ở
Trung ương, ở tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã, thị trấn…
Tóm lại, có thể hiểu công chức làm công tác đảng là những người làm
công tác đảng tại các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội hưởng
lương từ ngân sách, có chức năng tham mưu cho lãnh đạo trong việc nghiên cứu,
xây dựng, thẩm định, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước.
1.1.5. Khái niệm chính sách đào tạo, bồi dưỡng
1.1.5.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng
Thông thường, đối với nhiều quốc gia trên thế giới đào tạo là quá trình
diễn ra trước khi một người trở thành công chức.Đào tạo rồi mới sử dụng, người
ta gọi đó là giai đoạn tiền công vụ. Ở các nước đó người ta sử dụng thuật ngữ “tu
nghiệp” thay vì “đào tạo, bồi dưỡng”.Tuy nhiên, họ cũng không quan niệm rằng
trong quá trình tham gia công vụ không có đào tạo. Bồi dưỡng là quá trình diễn
ra sau khi người lao động đã có một nghề về lĩnh vực chuyên môn để lập nghiệp.

14


Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc
hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp
theo các chuyên đề. Các hoạt động này nhằm tạo điều kiện cho người lao động
có cơ hội củng cố và mở mang một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng
chuyên môn, nghiệp vụ để lao động nghề nghiệp một cách có hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, trong thời đại ngày nay, kỹ thuật công nghệ thay đổi nhanh chóng, nhiều

lĩnh vực tiếp cận với nhau để hình thành nên các lĩnh vực mới…thì mặc dù
không đổi nghề nhưng mỗi công chức cần được trang bị thêm những kiến thức,
kỹ năng của một số lĩnh vực mới để có thể làm việc hiệu quả hơn. Ví dụ đối với
công chức làm công tác Đoàn chuyên trách, trước khi được tuyển dụng, mặc dù
đã được đào tạo các chuyên ngành nhưng khi vào làm việc vẫn phải bồi dưỡng
thêm các kiến thức về Đoàn Thanh niên và công tác Đoàn.
Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng công chức còn có nội hàm khác với đào tạo
thuần túy.Đào tạo công chức là các hoạt động học tập cung cấp những kiến thức,
kỹ năng nhằm giúp công chức có thể thực hiện hiệu quả hơn chức năng, nhiệm
vụ vị trí việc làm của mình. Đó là quá trình truyền thụ khối kiến thức mới một
cách có hệ thống để người công chức thông qua đó trở thành người có văn bằng
mới hoặc cao hơn trình độ trước đó, “đào tạo là các hoạt động học tập để nâng
cao trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện có hiệu quả hơn chức
năng và nhiệm vụ của mình”. Có thể thấy đào tạo là hoạt động làm cho công
chức trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định gắn với vị trí
việc làm, khung năng lực của tổ chức. Quá trình đào tạo được tiến hành trong
khoảng thời gian dài và được hiểu là quá trình chuẩn bị cho nguồn nhân lực phát
triển trong tương lai. Đặc trưng của đào tạo là phải gắn liền với những thay đổi
của môi trường, đáp ứng đòi hỏi của công việc và môi trường trong hiện tại và
tương lai.
Bồi dưỡng công chức là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức,
kỹ năng làm việc trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Có nhiều hình thức bồi

15


dưỡng như: bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt
động công vụ cho ngạch công chức; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo,
quản lý là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc cho từng vị trí lãnh
đạo, quản lý; bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ

năng, phương pháp cẩn thiết để làm tốt công việc được giao. Quá trình bồi
dưỡng được thực hiện trong thời gian ngắn, mục tiêu là đáp ứng ngay nhu cầu
cần cập nhật, nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng quản lý cho người học.
Khối lượng kiến thức, kỹ năng được quy định tại các chương trình bồi dưỡng
phù hợp với từng đối tượng công chức. Kết quả của các khóa bồi dưỡng là người
học thu nhận được những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho vị trí việc làm đang
đảm nhận, được nhận chứng chỉ ghi nhận kết quả bồi dưỡng.
Luật cán bộ, công chức năm cũng 2008 nêu rõ:
Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ
năng theo từng cấp học, bậc học.
Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng
làm việc.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức vụ, chức danh
cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoach cán bộ.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ do cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định.
Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động
theo chương trình quy định theo ngạch công chức.
Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang bị
kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho từng
chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng,
phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao.

16


Đào tạo, bồi dưỡng thường đan xen và có khi là thành tố của nhau, bởi lẽ
nó đều nhằm mục đích là đáp ứng nhu cầu phát triển của các cá nhân trong tổ
chức và sự phát triển của tổ chức trong sự phát triển chung.

Trong điều kiện hiện nay, hoạt động đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công
chức đóng vai trò quan trọng để nâng cao năng lực thực thi công vụ và nâng cao
chất lượng đội ngũ công chức. Muốn vậy, cần xác định rõ vai trò trong đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ công chức, cụ thể:
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả thực thi công vụ. Trong quá trình làm việc,
cùng với sự thay đổi ngày càng mạnh mẽ về yêu cầu chất lượng công việc; sự
phát triển của khoa học, công nghệ,... đòi hỏi mỗi công chức phải hoàn thiện bản
thân, nâng cao lý luận chính trị, cập nhật tri thức mới và kỹ năng để thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. “Mục đích của đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực là nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có và
nâng cao tính hiệu quả của tổ chức thông qua việc giúp người lao động hiểu rõ,
nắm vững hơn về công việc, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách
tự giác với thái độ tốt hơn” [38]. Trong nền hành chính công vụ, nguồn nhân lực
chính là công cụ để thực hiện các mục tiêu chức năng hành chính, do vậy năng
lực, chất lượng của đội ngũ công chức là một trong những điều kiện quan trọng,
cần thiết để xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và phục vụ nhân dân
ngày càng tốt hơn.
Thứ ba, quy hoạch, phát triển đội ngũ công chức, nhằm đáp ứng những
thay đổi bên ngoài nền công vụ và sự đòi hỏi phát triển của tổ chức và cá nhân
công chức bên trong nền công vụ. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng giúp cho tổ
chức quy hoạch được nguồn cán bộ quản lý, đảm bảo nguồn nhân lực có số
lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý.

17


Thứ tư, đánh giá nhân lực. Công chức được đào tạo, bồi dưỡng biết tiếp
thu và vận dụng những kiến thức, kỹ năng được học vào công việc, làm cho chất
lượng công việc được nâng lên, mang lại hiệu quả chung cho tổ chức và cá nhân.

Thông qua đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, người lãnh đạo và cơ quan chủ
quản có thể đánh giá được sự tiến bộ, thái độ và hành vi của công chức.
1.1.5.2. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Chính sách đào tạo, bồi
dưỡng công chức là một chính sách trong hệ thống các chính sách nhằm phát
triển đội ngũ công chức. Chính sách là tập hợp các quyết định chính trị của Nhà
nước tác động đến đối tượng công chức bao gồm nhiều hoạt động từ xây dựng
chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn người đi học, phương pháp
tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ đối với người học và công tác kiểm
tra công tác cử công chức đi học sao cho công tác đào tạo công chức đảm bảo
về chất lượng, phù hợp về số lượng để công chức sau khi được đào tạo, bồi
dưỡng đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức là phương tiện thể chế hóa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng công chức. Dựa vào văn bản quy phạm pháp luật quy định chính
sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức để xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của từng ngành, từng cấp, từng cơ quan về đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức.
1.2. Nội dung thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
1.2.1. Xây dựng về số lượng
Công chức làm công tác đảng là lực lượng nòng cốt, một trong những
nhân tố quyết định việc thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy đảng và các cơ quan của
Đảng các cấp, mỗi công chức trong các cơ quan Đảng đều sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Ban Chấp hành mà trực tiếp là Ban Thường vụ cấp ủy cấp mình. Thực tế đó

18


yêu cầu mỗi công chức phải được thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng về về lý luận
chính trị, nghiệp vụ công tác đảng, chuyên môn nghiệp vụ. Công tác đào tạo, bồi

dưỡng công chức phải là việc làm thường xuyên và không ngừng đổi mới. Tuy
nhiên, đào tạo, bồi dưỡng công chức không thể diễn ra ồ ạt mà cần căn cứ theo
yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị để việc cử công chức đi học không làm
ảnh hưởng đến việc thực thi nhiệm vụ của tổ chức. Do đó, cơ quan quản lý, sử
dụng công chức hàng năm phải xây dựng kế hoạch với số lượng công chức cụ
thể cử đi đào tạo, bồi dưỡng trong từng năm để công chức chủ động bố trí sắp
xếp thời gian cũng như đề đạt nguyện vọng đi đào tạo, bồi dưỡng phù hợp.
1.2.2. Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng (phối hợp thực hiện)
Đào tạo, bồi dưỡngcông chức làm công tác đảng tại Cơ quan Đảng ủy
Khối các cơ quan Trung ương ngoài đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức trong
chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức chung thì cũng cần xây dựng những
nội dung chương trình phù hợp với đặc thù của cơ quan công tác.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XII của Đảng đã
chỉ rõ: “Công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng cần
được đổi mới mạnh mẽ. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến
thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc
biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả
và phù hợp với từng đối tượng” [17, tr.135].
Việc xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho công chức làm công
tác đảng tại Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương cần có sự phối hợp
của tất cả các ban, đơn vị trong Cơ quan Đảng ủy Khối để làm rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng vị trí việc làm, từ đó mới đưa ra được chương trình hoặc phối
hợp với các đơn vị đào tạo bồi dưỡng xây dựng được chương trình cho phù hợp
với yêu cầu của từng nhóm đối tượng công chức cụ thể.

19


1.2.3. Xây dựng đội ngũ giảng viên để đào tạo, bồi dưỡng

Đối với đào tạo, bồi dưỡng công chức thì yếu tố giảng viên giữ vai trò vô
cùng quan trọng. Đặc biệt đối với đối tượng học viên là công chức trong Cơ
quan Đảng ủy Khối có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương đối cao thì đội ngũ
giảng viên tham gia đào tạo, bồi dưỡng phải có kiến thức chuyên sâu, giàu kinh
nghiệm nghiên cứu thực tiễn, có phương pháp giảng dạy phù hợp. Chú trọng xây
dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức, các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực
để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu công việc đạt kết quả. Cần
tăng cường hoạt động nghiên cứu thực tiễn cho giảng viên có cơ hội cọ sát thực
tiễn, đúc kết kinh nghiệm phục vụ thiết thực, hiệu quả, gắn sát với thực tiễn cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng.
1.2.4. Xây dựng chính sách đãi ngộ cho người đi học
Chế độ, chính sách đối với người đi học là những quy định cụ thể về
nhiều mặt nhằm tạo điều kiện cho người học được đào tạo, bồi dưỡng theo
nguyện vọng cá nhân và yêu cầu công tác. Chế độ đãi ngộ đối với người học mà
cụ thể ở đây là công chức làm công tác đảng là đảm bảo lợi ích vật chất và tinh
thần để công chức yên tâm đi học có vai trò hết sức quan trọng.Chế độ đãi ngộ
phù hợp sẽ giúp công chức yên tâm, phấn khởi nhiệt tình trong học tập. Khi đã
có chính sách đúng đòi hỏi người thực hiện chế độ chính sách phải thực hiện
đúng, vận dụng đúng, phải công bằng và thống nhất, công khai, chính xác, khoa
học mới có tác dụng thúc đẩy công chức hăng say và có ý thức học tập.
1.2.5. Tuyển chọn đối tượng người đi học
Đào tạo, bồi dưỡng công chức có hiệu quả là đào tạo đúng người, đúng
thời điểm và đúng yêu cầu công việc của công chức được giao phù hợp với yêu
cầu chung của cơ quan, đơn vị. Tuyển chọn đối tượng đi học là tránh việc cử
công chức đi học một cách ồ ạt hoặc không đúng đối tượng, không phù hợp với

20



×