Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn trường đại học nội vụ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.45 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH TÂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH TÂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 834.04.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN MINH PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào.
Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 2018
Học viên

Nguyễn Minh Tâm


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1 ................................................................................................................... 10
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, ....... 10
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN .......................................................... 10
1.1. Nhận thức chung về thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho
sinh viên ......................................................................................................... 10
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về thực hiện chính sách
phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên .................................................... 21

1.3. Các bước thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên,
các yêu cầu cơ bản và phương pháp thực hiện chính sách phổ biến, giáo
dục pháp luật cho sinh viên ............................................................................ 25
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp
luật cho sinh viên............................................................................................ 34
Chương 2 ................................................................................................................... 39
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC ................ 39
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ............. 39
2.1. Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật cho
sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ...................................................... 39
2.2. Kết quả thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội...................................................................... 54
2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho
sinh viên tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ................................................. 60
Chương 3 ................................................................................................................... 64
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ................................... 64
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
SINH VIÊN .................................................................................................... 64
3.1. Mục tiêu và định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phổ biến,
giáo dục pháp luật cho sinh viên .................................................................... 64


3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục
pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............................... 68
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục
pháp luật cho sinh viên ......................................................................................
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 81



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng số sinh viên chia theo ngành đào tạo bậc Đại học hệ chính quy
Năm học 2017-2018 ....................................................................................... 40
Bảng 2.2: Chương trình môn học pháp luật đại cương ............................................. 46
Bảng 2.3: Khối kiến thức cơ sở ngành - Ngành Luật ............................................... 47
Bảng 2.4: Tỉ lệ cán bộ giảng viên có chuyên môn luật được phân bổ tại các cơ
sở của trường Đại học Nội vụ Hà Nội............................................................ 52
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp số liệu về tài liệu sách, báo, tài liệu điện tử liên quan
đến pháp luật tại Trung tâm Thông tin – Thư viện trường đại học Nội
vụ Hà Nội ....................................................................................................... 54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) cho công dân nói
chung và cho sinh viên nói riêng là một vấn đề quan trọng của mọi quốc gia
vì được coi là một phương thức để xây dựng, phát triển nền văn hóa pháp lý,
đảm bảo sự ổn định và bền vững của mỗi quốc gia. Trong đời sống xã hội,
pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Pháp luật là phương tiện không
thể thiếu để đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của xã hội. Ngoài chức năng là
một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, pháp luật còn là thước đo hành vi xã
hội của con người và là công cụ để chúng ta kiểm nghiệm nhận thức, điều
chỉnh xã hội. Công tác tuyên truyền, PBGDPL luôn có vị trí và vai trò vô
cùng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện
nay, là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là trách nhiệm
của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức,
đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành
động của từng chủ thể trong xã hội. PBGDPL là cầu nối để chuyển tải pháp

luật vào cuộc sống. Nói cách khác, quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống
được bắt đầu bằng hoạt động PBGDPL.
Thực hiện chính sách PBGDPL là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp
luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, tất cả mọi người đều phải “Sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật” thì việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như
một yếu tố khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội
có trật tự, kỷ cương, văn minh mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị
chân chính, trong đó ý thức pháp luật đóng một vai trò quan trọng.
1


Tại các trường đại học và cao đẳng, chính sách PBGDPL được thực hiện
thông qua các hoạt động, chương trình giáo dục chính khóa và ngoại khóa,
đây là hoạt động có vai trò to lớn đối với sự phát triển toàn diện của con
người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, trong đó có việc hình thành ý thức
pháp luật và văn hóa pháp lý trong nhân dân. Thực hiện chính sách PBGDPL
cho sinh viên nhằm trang bị tri thức pháp luật cơ bản, định hướng, phát triển
nhân cách và tư cách công dân, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành
vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp
luật và có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề lĩnh vực
mình được đào tạo.
Trong những năm qua, xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công
tác PBGDPL, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. Trong rất nhiều văn
kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác PBGDPL.
Nghị quyết số 08-NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, PBGDPL với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là

thông qua các phiên tòa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công
minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”.
Nhiều văn bản pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng
cường công tác PBGDPL như Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998
của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác PBGDPL trong giai đoạn
hiện nay, Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển
khai công tác PBGDPL từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng
phối hợp công tác PBGDPL… Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán
bộ, nhân dân đã khẳng định: “PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục
2


chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng”; Luật PBGDPL ngày 20/6/2012 và các văn bản hướng
dẫn tổ chức, thực hiện…
Thực hiện các văn kiện của Đảng và pháp luật của nhà nước về
PBGDPL, thời gian qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đại học đã chỉ
đạo, tổ chức, triển khai thực hiện chính sách PBGDPL cho sinh viên có trọng
tâm, trọng điểm gắn với các ngành nghề đào tạo đặc thù của từng trường. Về
cơ bản, sinh viên các trường đại học đã được học thì đều hiểu biết về pháp
luật. Đại bộ phận sinh viên có ý thức tôn trọng pháp luật, chấp hành nội quy,
quy chế của các nhà trường, thực hiện tốt các quy tắc và lối sống công cộng.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận sinh viên có biểu hiện xuống cấp về đạo đức,
lối sống, vi phạm pháp luật, thậm chí phạm tội nghiêm trọng làm cho cả xã
hội phải quan tâm, lo lắng.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trực thuộc Bộ Nội vụ, được thành lập tại
Quyết định số 2016/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, là
cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc

Bộ Nội vụ, có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình
độ đại học và sau đại học trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề
khác có liên quan; hợp tác quốc tế; nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng
tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Như các cơ sở
đào tạo khác trong hệ thống giáo dục, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tổ
chức thực hiện chính sách PBGDPL thông qua các hoạt động, chương trình
giáo dục chính khóa, giáo dục ngoại khóa và đạt được một số kết quả nhất
định. Đã có những thay đổi theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần từ truyền
thụ một chiều sang phát huy tính chủ động, tích cực của sinh viên; giảng viên
đưa ra nhiều tình huống cụ thể và sáng tạo phương pháp mới nhằm tăng tính
tích cực, sáng tạo của sinh viên, tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả PBGDPL.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc thực hiện PBGDPL vẫn
3


còn một số hạn chế như chưa kết hợp hài hòa giữa trang bị kiến thức pháp luật
với việc hình thành kỹ năng, ý thức pháp luật và thói quen chấp hành pháp
luật của sinh viên. Chính vì vậy, công tác PBGDPL trong những năm qua đã
được Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường cùng các đoàn thể và đặc biệt là đội
ngũ giảng viên chuyên ngành triển khai thực hiện sâu rộng nhằm nâng cao
nhận thức pháp luật cho sinh viên, góp phần ngăn chặn kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết nội bộ,
góp phần giữ vững trật tự trị an trong nhà trường.
Để việc thực hiện chính sách PBGDPL cho sinh viên thực sự mang lại
hiệu quả, có tác động tích cực nhằm nâng cao ý thức tuân thủ và xây dựng
thói quen chấp hành pháp luật cho sinh viên, thì việc tìm hiểu thực trạng thực
hiện chính sách PBGDPL và đưa ra những định hướng, giải pháp hoàn thiện
chính sách ấy là một đòi hỏi khách quan, cần có sự đi sâu nghiên cứu bài bản
và nghiêm túc. Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài “Thực hiện chính
sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn Trường Đại

học Nội vụ Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công có
ý nghĩa lý luận, thực tiễn, thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính sách PBGDPL là một chính sách mang tính cấp thiết ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học
pháp lý quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công
bố, như:
- Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật (2011)
của tác giả Trần Phúc Lộc: “Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành
phố Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp” [18] đã phân tích một số vấn
đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, luận văn phân tích rõ đặc điểm, vai trò
và nguyên tắc giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên; Nghiên cứu, đánh giá

4


thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng của công tác giáo dục pháp luật
cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội; Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường
công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ Triết học (2013) của tác giả Phạm Thị Thanh Huyền:
“Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua khảo
sát thực tế ở Hà Tĩnh)” [15] đã phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo
dục ý thức pháp luật; phân tích rõ đặc điểm, cấu trúc, tầm quan trọng và nội
dung của việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay; nêu
thực trạng và đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật
cho sinh viên ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Tác giả Vũ Thị Hồng Vân với bài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên
các trường đại học - Một yêu cầu cấp bách hiện nay” [37], Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật đã khái quát thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên các
trường đại học và nêu ra các giải pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên các

trường đại học như: nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy giáo dục pháp luật
cho sinh viên; hoàn thiện pháp luật về giáo dục pháp luật cho sinh viên; chuẩn
hóa nội dung chương trình, giáo trình giảng dạy chính khóa; đổi mới phương
pháp dạy và học pháp luật trong chương trình chính khóa; xây dựng chương
trình giáo dục pháp luật ngoại khóa và đổi mới cách thức hoạt động giáo dục
pháp luật ngoại khóa; nâng cao chất lượng giảng viên giảng dạy pháp luật
trong các trường đại học; tăng cường công tác xã hội hóa trong các hoạt động
giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học.
- Tác giả Dương Thị Thanh Mai với luận án Phó Tiến sĩ Luật học
(1996): “Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam – hình thức
đặc thù của giáo dục pháp luật” [21] đã phân tích vai trò của giáo dục pháp
luật trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam. Luận án nêu
rõ những đặc trưng của công tác giáo dục pháp luật và đưa ra những giải pháp
5


nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp.
- Tác giả Lê Thị Thùy với luận văn thạc sĩ Luật học (2015): “Giáo dục
pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”
[27] đánh giá khách quan về thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên
trường cao đẳng nghề Thanh Hóa, thông qua đó có phương pháp đổi mới
chương trình dạy và học bộ môn giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng
công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường.
- Tác giả Đinh Xuân Thảo với Luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996):
“Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề ở nước ta hiện nay”[26] đã nêu thực trạng giáo dục pháp luật trong
các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, từ đó rút ra kinh
nghiệm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho
sinh viên.
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Trung Nghĩa (2000): “Giáo

dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay”[22] đã nêu việc phổ biến, giáo dục pháp luật là công tác thường xuyên,
quan trọng nhằm nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật quân đội, pháp luật của
nhà nước của cán bộ, chiến sĩ. Trước yêu cầu cao của sự nghiệp xây dựng
quân đội, bảo vệ tổ quốc, công tác này cần tiếp tục được coi trọng, đổi mới.
- Bài viết trên Trang Web của Trường Đại học Vinh: “Giáo dục pháp
luật kết hợp giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Vinh” của ThS.
Đinh Văn Liêm và SV Trương Hồ Khánh Ly (2016)[16] đã tập trung tìm hiểu
thực trạng kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên
Trường Đại học Vinh, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên nói chung,
sinh viên Trường Đại học Vinh nói riêng.
- Tác giả Phùng Thị Loan với bài viết “Tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong các trường Đại học nhằm nâng cao ý thức pháp luật
6


cho sinh viên hiện nay”[17] đưa ra một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật trong các trường đại học hiện nay nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho xã
hội không những đảm bảo yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn
có ý thức: sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội.
Nhận xét chung: Đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn
đề về phổ biến, giáo dục pháp luật. Mỗi đề tài nghiên cứu, cách tiếp cận và mục
tiêu khác nhau, đưa ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong
hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ, nhưng cho đến nay chưa công
trình nào được công bố nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về việc thực hiện
chính sách PBGDPL cho sinh viên từ thực tiễn Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Tuy nhiên, các công trình trên là những tài liệu tham khảo giá trị để tác giả kế
thừa và hoàn thiện luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về chính sách PBGDPL cho sinh viên
đại học đồng thời kết hợp với phân tích thực trạng và đánh giá chất lượng
PBGDPL cho sinh viên của trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian từ
năm 2014 - 2017, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách PBGDPL cho sinh viên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách PBGDPL
cho sinh viên đại học ở nước ta hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách PBGDPL cho
sinh viên của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội; chỉ rõ những thành tựu, hạn
chế, nguyên nhân;
- Đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách PBGDPL cho sinh viên trong thời gian tới.
7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách
PBGDPL cho sinh viên và thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL
cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội dưới góc độ khoa học chính
sách công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách
PBGDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng việc thực hiện chính sách
PBGDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội từ năm 2014 - 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên.
Luận văn sử dụng các phương pháp chính sách công để nghiên cứu quy trình
thực thi chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa
nghiên cứu lý thuyết và thực tế; phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp,
so sánh.
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập, phân tích
và khai thác thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn
kiện, tài liệu của Đảng, Nhà nước; các công trình nghiên cứu, các báo cáo,
tài liệu thống kê của các tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến chính sách PBGDPL nói chung và cho sinh viên nói riêng.
Đồng thời, luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, khái quát
8


thực tiễn, phân tích định lượng, suy luận logic, diễn giải trong quá trình phân
tích, đánh giá chính sách và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: hệ thống hóa các lý thuyết về chính sách công, làm rõ vị trí,
vai trò, nội dung, các bước cơ bản thực hiện chính sách PBGDPL cho sinh
viên; đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về công tác PBGDPL cho
sinh viên.
Về thực tiễn: Luận văn đề xuất các giải pháp thiết thực góp phần nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách PBGDPL cho sinh viên nói chung và sinh
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật
cho sinh viên.
- Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp
luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
1.1. Nhận thức chung về thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục
pháp luật cho sinh viên
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm “chính sách” và “chính sách công”
- Khái niệm “chính sách”
"Chính sách" là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu
và trên các phương tiện truyền thông, tuy nhiên đến nay vẫn khó có thể đưa ra
một định nghĩa duy nhất. Theo cách hiểu thông thường, chính sách là chương
trình hành động do các nhà lãnh đạo, quản lý đưa ra để giải quyết một vấn đề
nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Chính sách là khái niệm thường
được đề cập trong khoa học hành chính, nhưng thực sự nó còn là phạm trù của
khoa học chính trị.
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau, có thể có các định nghĩa khác nhau về
chính sách:
Theo từ điển tiếng Anh, chính sách (policy) là một đường lối hành động

được thông qua và theo đuổi bởi chính quyền, đảng phái, nhà cai trị, chính
khách... Theo sự giải thích này thì chính sách không phải là một quyết định
mà nó là một đường lối hay phương hướng hành động.
David Easton (1953) cho rằng chính sách là chuỗi các quyết định và các
hành động phân phối các giá trị [39].
Hugh Hécslo (1972) định nghĩa một chính sách có thể được xem như là
một đường lối hành động hoặc không hành động thay vì những quyết định
hoặc những hành động cụ thể [40].
Theo Smith (1976), khái niệm chính sách bao hàm sự lựa chọn có chủ
định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của những lực
lượng có quan hệ với nhau [42].
10


Như vậy, từ các định nghĩa của các tác giả trên, có thể hiểu Chính sách
là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải
quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Cấu trúc của chính sách gồm 3 bộ phận: Một là: Những đường hướng
hành động ứng xử (là quan điểm và định hướng chính sách). Hai là: Biện
pháp thực hiện chính sách, các công cụ của chính sách. Ba là: Mục tiêu mà
chính sách hướng tới.
- Khái niệm “chính sách công”
Trên thế giới "chính sách công" hiện là một khái niệm được tranh luận từ
nhiều góc độ và chưa đạt được sự thống nhất rộng rãi. Một số định nghĩa tiêu
biểu của các học giả nước ngoài có thể kể đến là:
William Jenkin trong tác phẩm "Policy Analysis: A Political and
Organisatinonal Perspective" (1978) cho rằng: "Chính sách công là một tập
hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm
nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt
được các mục tiêu đó" [44].

Tác giả của "Understanding Public Policy" (1984) Thomas R. Dye lại
đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công, song định nghĩa này lại
được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách công là cái mà Chính
phủ lựa chọn làm hay không làm" [43].
Theo Peter Aucoin trong tác phẩm "The New Public Management:
Canada in Comparative Perspective" (1995) cho rằng "chính sách công bao
gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành". Aucoin cho rằng, chính
sách có thể vừa là hành động riêng biệt của Chính phủ (quyết định của chính
quyền thành phố về sự phát triển ở một vùng cụ thể) vừa là kết quả của hàng
loạt quyết định đa dạng (chính sách môi trường là sự kết hợp của một số
lượng lớn các quyết định hành động và quyết định không hành động của

11


nhiều Chính phủ). Thông thường, thuật ngữ "chính sách" được sử dụng theo
nghĩa thứ hai – một chính sách được cấu thành từ một loại quyết định [41].
B. Guy Peter trong : "American Public Policy: Promise and
Performance" (2006) đưa ra định nghĩa: "chính sách công là toàn bộ các hoạt
động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của
mọi công dân". Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính
sách công là Nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công
đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng đồng [38].
William N. Dunn trong "Public Policy Analysis: An Introduction" (2007)
cho rằng "chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên
quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan
nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra". Ông dùng thuật ngữ "sự lựa
chọn" - đây là điểm đáng lưu ý để tránh sự nhầm lẫn giữa chính sách với các
khái niệm khác như quyết định hành chính [45].
Ở nước ta, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra các quan niệm về chính

sách công, như:
PGS.TS. Lê Chi Mai cho rằng: "Chính sách công có những đặc trưng cơ
bản nhất như: Chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công
không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành
động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải
quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu
xác định; chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn
nhau [20].
TS. Đặng Ngọc Lợi cho rằng chính sách công là chính sách của nhà
nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra) là một bộ phận thuộc
chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước [19].
PGS. TS. Đỗ Phú Hải định nghĩa một cách chung nhất về chính sách
công như sau: "Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có
12


liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và
công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định
của đảng chính trị cầm quyền” [14].
Từ những vấn đề trên có thể quan niệm: Chính sách công là một tập hợp
các quyết định chính trị của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với
giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu
đã xác định của đảng chính trị cầm quyền.
1.1.1.2. Khái niệm “Thực hiện chính sách”
Thực hiện chính sách có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau,
theo Thomas Dye, “thực thi bao gồm tất cả các hoạt động được thiết kế để
thực hiện chính sách công đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp. Vì các
chính sách công có những tác động mong muốn hoặc có chủ định, nên chúng
phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà sau đó được thực
hiện để đạt được một tập hợp các mục tiêu hoặc mục đích”[43]. William N.

Dunn quan niệm “Các hành động chính sách công có hai mục đích chính: điều
chỉnh và phân bổ”, trong đó các hành động điều chỉnh là những hành động
được thiết kế để bảo đảm sự tuân thủ các tiêu chuẩn hoặc thủ tục nhất định,
các hành động phân bổ đòi hỏi đầu vào như tiền bạc, thời gian, nhân sự và
thiết bị. Các hành động điều chỉnh và phân bổ có thể có kết quả là phân phối
và phân phối lại, được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước đối với các chương
trình và dự án”[45].
Như vậy, có thể hiểu thực hiện chính sách là “Toàn bộ quá trình đưa
chính sách công vào thực tiễn cuộc sống thông qua việc ban hành các văn
bản, chương trình, dự án và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục
tiêu chính sách công”
1.1.1.3. Khái niệm “pháp luật”
Pháp luật dưới góc độ luật học được hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự có
tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí chung
13


của một quốc gia, khu vực, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện
pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế.
Pháp luật thông thường được thực thi thông qua một hệ thống tòa án
trong đó quan tòa sẽ nghe tranh tụng từ các bên và áp dụng các quy định để
đưa ra phán quyết công bằng và hợp lý. Cách thức mà pháp luật được thực thi
được biết đến như là một hệ thống pháp lý, thông thường phát triển trên cơ sở
tập quán tại mỗi quốc gia. Phần lớn các quốc gia dựa vào cảnh sát pháp lý để
thi hành pháp luật. Cảnh sát pháp lý nói chung phải được đào tạo chuyên
nghiệp về các kiến thức, kỹ năng thực thi pháp luật trước khi được cho phép
có các hành vi nhân danh pháp luật, chẳng hạn như đưa ra các cảnh báo và
trát đòi hầu tòa, thực thi việc tìm kiếm hay ra các lệnh khác cũng như thực
hiện việc tạm giam, tạm giữ.
Xuất phát từ các vấn đề đã phân tích ở trên có thể hiểu định nghĩa pháp

luật như sau: "Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình".
Hoặc có thể hiểu ngắn gọn như trong từ điển tiếng Việt thì "Pháp luật là
tổng hợp các quy tắc xử sự có tính bắt buộc do nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế"
1.1.1.4. Khái niệm “phổ biến, giáo dục pháp luật”
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép giữa “phổ biến pháp luật” và
“giáo dục pháp luật”.
Phổ biến pháp luật:
Theo từ điển Tiếng Việt, “Phổ biến là làm cho đông đảo mọi người biết
đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua
hình thức nào đó hoặc làm cho mọi người đều biết đến” [23]
Phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội
14


và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành
nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà
nước dùng để trị dân. Bên cạnh đó phổ biến pháp luật còn mang tính tác nghiệp,
truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những mức độ khác
nhau, phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu thấu suốt
các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế. Phổ biến pháp
luật thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn...
Giáo dục pháp luật
Theo Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt "Giáo dục là quá trình hoạt động có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người
những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng
tham gia mọi mặt của đời sống xã hội".

So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm
song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác
định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là
các phương thức giáo dục cụ thể.
Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả
đã khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật: Giáo dục pháp luật là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác
động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm
mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù
hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành.
Tóm lại, phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) hiểu theo nghĩa rộng là
công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc
thực hiện PBGDPL (xây dựng chương trình, kế hoạch PBGDPL; triển khai
chương trình, kế hoạch PBGDPL thông qua việc áp dụng các hình thức, biện
pháp PBGDPL; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
chương trình, kế hoạch PBGDPL) và hiểu theo nghĩa hẹp là: truyền đạt tinh

15


thần, nội dung pháp luật giúp cho đối tượng tác động hiểu và hình thành ở họ
tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định
pháp luật hiện hành.
1.1.1.5. Khái niệm “sinh viên”
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh “Student” có nghĩa
là người làm việc, học tập, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. “Sinh viên”
là để chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh đang
học ở bậc phổ thông.
Theo ngôn ngữ Hán Việt, từ “sinh viên” được diễn nghĩa ra là người
bước vào cuộc sống, cuộc đời. Còn theo từ điển tiếng Việt, khái niệm “sinh

viên” được dùng để chỉ người học ở bậc đại học.
Từ đó có thể hiểu, sinh viên là những người đang học tập tại các trường
đại học, nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của xã hội.
1.1.1.6. Khái niệm “thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật
cho sinh viên”
- Khái niệm chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên
Từ các quan niệm về sinh viên, pháp luật, chính sách và chính sách công
nêu trên, có thể quan niệm: Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh
viên là tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các
mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện việc truyền đạt tinh thần, nội
dung pháp luật giúp cho sinh viên hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật,
tình cảm, hành vi phù hợp với đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành.
Chính sách PBGDPL cho sinh viên gồm các bộ phận hợp thành quan
trọng là: những đường hướng, hành động hay còn gọi là những quan điểm,
định hướng, mục tiêu và biện pháp thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo
việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên đạt hiệu quả, giúp sinh viên
hiểu rõ về pháp luật và có ý thức tự giác tuân thủ, chấp hành pháp luật. Đây là
hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách từ khởi động, phân tích,
soạn thảo ban hành, thực thi và đánh giá chính sách.
16


- Khái niệm thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên
Thực hiện chính sách PBGDPL cho sinh viên là “toàn bộ quá trình đưa
chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật vào thực tiễn. Việc thực hiện chính
sách PBGDPL cho sinh viên là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ
thể chính sách thành hiện thực nhằm đạt được mục tiêu nhất định”. Thực hiện
tốt chính sách PBGDPL cho sinh viên sẽ giúp các nội dung công việc được
triển khai theo đúng kế hoạch, đạt được mục đích giúp chính sách đi vào thực
tiễn, theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước: “Đổi mới căn bản và toàn

diện giáo dục, đào tạo”, trong đó “mục tiêu giáo dục phải chuyển mạnh từ
chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang tập trung phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất người học”
1.1.2. Vai trò, nội dung và hình thức thực hiện chính sách phổ biến,
giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.1.2.1. Vai trò của thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật
cho sinh viên
Thực thi chính sách công có vị trí đặc biệt quan trọng trong chu trình
chính sách, bởi sự thành công của một chính sách phụ thuộc vào kết quả của
thực thi chính sách. Có thể có 4 khả năng xảy ra, (1) chính sách công tốt và
thực hiện tốt dẫn đến thành công; (2) chính sách công tốt, nhưng thực hiện tồi
dẫn đến thất bại; (3) chính sách công tồi nhưng thực hiện tốt dẫn đến thành
công; (4) chính sách công tồi và thực hiện tồi dẫn đến thất bại kép [46]
Có thể thấy, đối với chính sách PBGDPL cho sinh viên, việc tổ chức thực
hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách, nó là giai
đoạn hiện thực hóa mục tiêu chính sách. Vai trò của tổ chức thực hiện chính sách
PBGDPL cho sinh viên được thể hiện ở những phương diện sau:
- Thứ nhất, từng bước hiện thực hóa mục tiêu của chính sách PBGDPL
cho sinh viên. Các mục tiêu chính sách chỉ có thể đạt được thông qua quá
trình thực thi chính sách, bởi thực thi chính sách bao gồm các hoạt động có tổ
17


chức được thực hiện bởi các chủ thể giáo dục, các tổ chức xã hội… trong nhà
trường hướng tới đạt được các mục tiêu và mục đích đã tuyên bố trong chính
sách. Trong quá trình thực hiện chính sách PBGDPL cho sinh viên, nhà
trường phải ban hành các văn bản, hoặc các chương trình để hiện thực hóa các
mục tiêu, mục đích của chính sách và tiến hành các hoạt động để thực hiện
các văn bản, chương trình đó.
- Thứ hai, khẳng định tính đúng đắn của chính sách PBGDPL cho sinh

viên. Quá trình hoạch định chính sách cho ra đời một chính sách. Tuy nhiên,
chính sách đó có thực sự đúng đắn hay không chỉ có thể được nhận thức đầy
đủ hơn trong giai đoạn thực thi chính sách. Thực thi chính sách PBGDPL cho
sinh viên cung cấp những bằng chứng thực tiễn về mục tiêu chính sách có
thích hợp hay không và các giải pháp chính sách có thực sự phù hợp với vấn
đề mà nó hướng tới giải quyết hay không. Về phương diện lý thuyết, chính
sách PBGDPL cho sinh viên được ban hành đã phải đáp ứng đầy đủ những
tiêu chuẩn của một chính sách tốt và mới chỉ được thừa nhận bởi các chủ thể
ban hành, nhưng khi triển khai vào thực tiễn, thì tính đúng đắn của chính sách
mới được khẳng định một cách chắc chắn bởi các chủ thể thực hiện và đối
tượng thụ hưởng chính sách.
Thứ ba, thực thi chính sách PBGDPL cho sinh viên giúp cho chính sách
ngày càng hoàn thiện hơn. Chính sách PBGDPL ban đầu chỉ được mang tính
định hướng về mục tiêu và giải pháp để giải quyết vấn đề. Chính sách này sẽ
được cụ thể hóa cho phù hợp với bối cảnh và điều kiện cụ thể của trong quá
trình thực thi của cơ quan nhà nước các cấp. Căn cứ vào mục tiêu và giải pháp
chính sách ban đầu, các cơ quan nhà nước các cấp có thẩm quyền thiết kế và
ban hành các quy định, thủ tục hoặc chương trình, dự án để cụ thể hóa các
mục tiêu và giải pháp cho phù hợp bối cảnh, điều kiện thực thi cụ thể. Hơn
nữa, thông qua quá trình thực thi chính sách, những chủ thể thực thi đưa ra
những đề xuất điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tiễn và rút ra bài
18


học kinh nghiệm cho thiết kế chính sách trong tương lai.
1.1.2.2. Nội dung thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho
sinh viên
Căn cứ Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Quyết định số
1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà

trường”; Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 20172021; Quyết định số 3957/QĐ-BGDĐT ngày 28/9/2017 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành Kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao chất
lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường” đến năm 2021,
thực hiện chính sách PBGDPL cho sinh viên gồm các nội dung sau:
- Trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật
Việc PBGDPL cho sinh viên có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp sinh
viên nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và
quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật; giúp sinh viên nắm các kiến
thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, quyền và lợi ích của công dân. Tập trung tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục các quy định mới liên quan đến giáo dục, các hành vi bị nghiêm cấm và
chế tài xử lý; chú trọng giáo dục ý thức tôn trọng, chấp hành, bảo vệ pháp
luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; tác động của chính sách pháp luật;
nội dung chính sách pháp luật về hỗ trợ và khởi nghiệp, về phòng chống bạo
lực học đường, về cải cách hành chính, về an toàn thực phẩm, về bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng…
Việc trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật cho sinh viên
của các nhà trường nhằm góp phần đào tạo lực lượng sinh viên có phẩm chất
đạo đức tốt, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, tích cực học tập, rèn luyện để sau
khi ra trường, trên các cương vị của mình cơ bản thực hiện tốt chức trách,
19


×