Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Văn học viết với ảnh hưởng của văn học dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.19 KB, 9 trang )

Văn học viết với ảnh hưởng của văn học dân gian
Nguyễn Đình Chú
Đây là một trong những vấn đề cơ bản của lịch sử văn học dân tộc mà khoa nghiên
cứu văn học có nhiệm vụ phải làm sáng tỏ. Bởi lẽ lịch sử văn học dân tộc bao gồm
hai bộ phận chính dựa theo hai phương thức sáng tác khác nhau, truyền miệng và
thành văn, nhưng lại còn liên quan đến hai loại hình tác giả có vị trí xã hội, hoàn
cảnh sinh sống, quan niệm nhân sinh, tư tưởng, tình cảm, kể cả hoàn cảnh sáng tác,
tâm thế sáng tác, động cơ sáng tác có mặt khác nhau. Hai bộ phận văn học đó có
quan hệ với nhau. Nhưng việc nhận thức về mối quan hệ này trong thực tiễn nghiên
cứu lại có sự khác nhau và cũng có quá trình vận động tiến lên. Phần viết sau đây là
muốn đưa ra một cách nhận thức tối ưu trên cơ sở quan sát, tổng kết, rút kinh nghiệm
từ những gì đã có ở những người đi trước.
♦♦♦
Đúng là chưa bao giờ văn học dân gian cổ truyền của dân tộc lại sống dậy huy hoàng
và được nhận thức sâu sắc về giá trị và vai trò của nó như trong thời đại ngày
nay.Trong những thành tựu hiện đại về việc nghiên cứu văn học dân gian cổ truyền
của dân tộc, có một luận điểm khoa học cực kỳ quan trọng được nhiều người thừa
nhận là: chính văn học dân gian là nền tảng của sự phát triển, kết tinh của nền văn
học dân tộc. Luận điểm này vừa là sự khẳng định vai trò của văn học dân gian, vừa là
điều cốt lọi nhất khi nói về mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết,vừa là
phương pháp luận đối với việc nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc nói chung. Luận
điểm này xét đến cùng là dựa trên qui luật cơ bản về vai trò của nhân dân Việt Nam
trong lịch sử Việt Nam mà cũng đến thời đại cách mạng đã thành công, quan điểm
nhân dân làm chủ đất nước đã trổi dậy với tính chất chính thống, đặc biệt là trong giai
đoạn chống Mỹ cứu nước vừa qua mới như được phát hiện lại, nhận thức lại một cách
đầy đủ hơn. Dĩ nhiên nó còn phải được tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn trong tương lai.
Trước thời đại cách mạng thành công, một số vị thức giả như Võ Liêm Sơn(1),
Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Trọng Thuật(2)... đã nêu cao vai trò “tảng móng, tinh
tuý của văn học dân gian đối với nền quốc học của ta”. Nhưng những ý kiến quí báu
đó lại đang ở trạng thái trực cảm, chưa được nâng lên trình độ phân tích lý luận và do
đó chính các tác giả của nó cũng chưa hình dung được thật rõ những điều mình nói.


Còn với chúng ta hôm nay, muốn vượt qua giai đoạn nhận thức trực cảm để tiến vào
giai đoạn nhận thức lý tính, phải có lý luận khoa học hỗ trợ, mặc dù công việc nhận
thức lý tính này tự nó cũng lại phải có một quá trinh từ thấp lên cao. Nói vậy để thấy
công tác lý luận ở phương diện này là đang cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Có như
thế, luận điểm khoa học nói trên mới có khả năng được quán triệt trong công việc
nghiên cứu văn học dân tộc một cách sâu sắc và cụ thể. Ví như với Truyện Kiều chẳng


hạn. Từ lâu, các nhà nghiên cứu đã nói đến mối quan hệ giữa Truyện Kiều với văn học
dân gian. Nhưng từ chỗ chỉ giới hạn mối quan hệ đó trong phạm vi một số yếu tố nghệ
thuật là thể tài lục bát và thành ngữ tục ngữ... như lâu nay vẫn thấy đến chỗ kết luận
rằng: Truyện Kiều đã kết tinh trên cơ sở văn học dân gian(3) quả là một điều hoàn
toàn không đơn giản bởi nó đã thay đổi chất lượng của sự nhận thức, có thể nói là thay
đổi qui mô của vấn đề. Chúng ta sẽ cố gắng góp phần vào việc giải quyết yêu cầu trên
bằng cách làm sáng rõ hơn mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết để từ
đó xác định rõ hơn vai trò làm nền của văn học dân gian trong lịch sử văn học dân tộc.
Khi nói đến vai trò làm nền của văn học dân gian trong lịch sử văn học dân tộc, chúng
ta dễ nghĩ ngay đến bộ phận văn học dân gian ra đời có thể nói là cùng với sự ra đời
của lịch sử dân tộc và tồn tại, phát triển trong một thời gian dài trước khi có văn học
viết. Bộ phận văn học dân gian nguyên thuỷ này bao gồm chủ yếu là các thể loại thần
thoại, thần thoại pha truyền thuyết, truyền thuyết, truyền thuyết pha thần thoại ,truyện
cổ, dân ca cổ, ca dao tục ngữ cổ.. .chắc đã bị mai một đi không ít trong thời gian,
nhưng gần đây với sự hỗ trợ tích cực của những thành tựu khoa học lịch sử như dân
tộc học lịch sử, ngôn ngữ học lịch sử, đặc biệt là khảo cổ học, nó đang được sưu tầm
lại ngày một phong phú, bề thế. Từ đó vấn đề cần kết luận là: chính kho tàng văn học
dân gian sơ khai, nguyên thuỷ đó đã là nền tảng vững chãi, đã là ngọn nguồn trong
mát đầu tiên của lịch sử văn học dân tộc. Vấn đề tiếp theo ở đây là làm sao miêu tả,
chứng minh, khôi phục lại được dấu vết cụ thể của văn học dân gian nguyên thuỷ từng
tồn tại và chi phối, từng làm cơ sở kết tinh tư tưởng thẩm mỹ trong nền văn học viết ra
đời và phát triển về sau. Chắc chắn là có trạng thái đơn giản, trực tiếp dễ thấy, có

trạng thái tinh vi, phức tạp, gián tiếp khó thấy hơn nhưng chưa hẳn đã kém quan trọng
hơn. Thật ra ở đây cũng không thể hiểu vấn đề vai trò của văn học dân gian nguyên
thuỷ đối vơí nền văn học viết về sau một cách hẹp hòi theo hướng hạn chế nội hàm
của khái niệm văn học dân gian chỉ còn lại là những văn bản được ghi chép lại như là
cái bóng của một hình thức vốn tồn tại như một cơ thể sống và có quan hệ chằng
chịt,gắn bó với nhiều hình thái của văn hoá sơ khai như trò chơi,lễ hội,kể cả phong
tục.
Sự xuất hiện của nền văn học dân gian trước khi có nền văn học viết và tính chất ngọn
nguồn, làm nền của nó đối với nền văn học viết ra đời sau nó, thật ra là qui luật phổ
biến trong lịch sử văn học của mọi nước trên thế giới.Lịch sử văn học Việt Nam ở
phương diện này không có gì là đặc thù. Nhưng lịch sử văn học Việt Nam sẽ có qui
luật đặc thù ở chỗ: sau khi có văn học viết rồi thì văn học dân gian đã không teo đi,
ngược lại vẫn tồn tại như một giòng riêng và phát triển, do đó vẫn tiếp tục và tăng
cường vai trò làm nền cho sự kết tinh của văn học viết. Tại sao có hiện tuợng đó? Có
lý do xã hội nhưng trực tiếp là thuộc lý do văn tự. Nền văn học viết Việt Nam bắt đầu
bằng văn học chữ Hán(4). Chữ Hán vốn là chữ viết của Trung Hoa, được bọn xâm
lược nhà Hán du nhập vào nước ta từ đầu công nguyên nhằm làm công cụ văn hoá nô
dịch. Từ lâu chúng ta vẫn chưa biết gì đáng kể về tình hình người Việt Nam tiếp nhận
thứ chữ Hán đó trong suốt thời kỳ bị Bắc thuộc, ngoài một số sự kiện từng được sử


sách ghi chép gồm: việc một số quan lại Trung Hoa trên đất Việt như Nhâm Diên, Sĩ
Nhiếp, Tích Quang truyền bá Hán học,việc một số người Việt sang học hành và làm
quan ở Trung Hoa như Lý Tiến, Lý Cầm..., việc xuất hiện một số tác phẩm Phật giáo
được viết bằng chữ Hán. Do đó, đến nay khoa văn học sử vẫn đang tạm phải ghi nhận
sự xuất hiện của nền văn học viết bằng chữ Hán ở nước ta là từ thế kỷ 10(5). Nhưng ai
là người Việt Nam có thể sáng tác văn học chữ Hán trong thời đại phong kiến xưa? Dĩ
nhiên, về cơ bản, không phải là đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Đến khi có
chữ Nôm và văn học chữ Nôm ra đời từng được tính từ cuối thế kỷ 13 trở đi, tình hình
có khác nhưng vẫn không đơn giản.Bởi chữ Nôm đúng là một sáng tạo độc đáo của

dân tộc ta trên quá trình phát triển tinh thần tự cường tự chủ trong đó phải ly khai dần
hiện tượng Hán hoá. Nhưng trong điều kiện ngặt nghèo của hoàn cảnh lịch sử dân tộc,
chữ Nôm vẫn chưa phải là một sản phẩm thuần tuý dân tộc. Nó được cấu tạo từ những
yếu tố của chữ Hán. Và như thế thì với chữ Nôm, đông đảo quần chúng nhân dân
cũng chỉ mới chiếm lĩnh được âm và nghĩa chứ không thể chiếm lĩnh được tự. Trong
xã hội xưa,muốn biết chữ Nôm,trước hết phải biết chữ Hán. Sau này từ cuối thế kỷ 17
bắt đầu có chữ quốc ngữ do các cố đạo phương Tây trong đó đặc biệt có vai trò của cố
đạo người Pháp Alêchdăng Đơ Rôt sáng chế ra bằng cách dùng mẫu tự la tinh phiên
âm tiếng Việt để có công cụ truyền giáo và ít nhiều có liên quan tới kế hoạch bành
trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây trong đó có tư bản Pháp. Đối với chữ quốc
ngữ, buổi đầu bị một sồ sĩ phu yêu nước từ chối (Nguyễn Đình Chiểu không cho con
học chữ quốc ngữ, Nguyễn Trường Tộ đề nghị xây dựng chữ quốc ngữ bằng cách
dùng chữ Hán nhưng đọc theo âm Việt), nhưng sau đó thì dần dần sử dụng, đặc biệt
với các chí sĩ Đông kinh nghĩa thục(6) thì còn có chủ trương phổ biến trong toàn dân,
tạo điều kiện nâng cao dân trí nhưng bị thực dân Pháp ngăn chặn. Riêng đối với thực
dân Pháp thì trước sau vẫn dùng chính sách nhỏ giọt, cho phổ biến chữ quốc ngữ
trong chừng mực cần cho công cuộc đô hộ của chúng mà thôi. Cho nên chữ quốc ngữ,
dù là thứ văn tự quần chúng đông đảo có thể chiếm lĩnh, nhưng trong điêu kiện như
vậy, về cơ bản cũng chưa thể chiếm lĩnh để sáng tác văn học.
Tóm lại, tình hình văn tự như trên vừa nói chính là nguyên nhân trực tiếp làm phát
sinh qui luật: trong lịch sử văn học Việt Nam,sau khi đã có văn học viết ra đời, văn
học dân gian vẫn tiếp tục tồn tại, phát triển và do đó vẫn tiếp tục đóng vai trò làm
nền cho sự phát triển và kết tinh của văn học viết. Tuy nhiên để cho quan điểm “làm
nền” này được triển khai thực sự, lại còn phải làm sáng tỏ một loạt vấn đề sau đây:
1) Vấn đề định nghĩa về văn học dân gian.
Định nghĩa về văn học dân gian có lịch sử riêng của nó. Từ một cách gọi, một cách
duy danh nhưng chưa định nghĩa như Nguyễn Du là “thôn ca”, là “tang ma ngữ” (thôn
ca sơ học tang ma ngữ - Thanh minh ngẫu hứng) đến một chương “Dẫn luận” gồm
phần “Giới thuyết - Những đặc trưng của văn học dân gian” trong giáo trình Văn học
dân gian của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên thuộc tủ sách Đại học Tổng hợp Hà

nội (nay là Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà nội), xuất bản
năm 1972, rõ ràng công việc định nghĩa về văn học dân gian đã trải qua hai giai đoạn


của nhận thức: cảm tính và lý tính, phản ánh hai giai đoạn phát triển khoa học ở nước
ta nói chung: trực cảm hỗn hợp và duy lý phân tích. Riêng về giai đoạn nhận thức lý
tính đối với văn học dân gian, tự nó cũng có một quá trình từ đơn giản đến phong phú,
từ phiến diện đến hoàn chỉnh. Thông thường các định nghĩa được triển khai trên hai
bình diện chính: những thuộc tính nội tại (tính truyền miệng, tính tập thể...) và những
thuộc tính liên quan tới đời sống văn hoá xã hội đã góp phần sản sinh ra văn học dân
gian. Gần đây, khái niệm văn học dân gian đã được giới thuyết với một nội hàm có
tính tổng hợp,nguyên hợp. Văn học dân gian không chỉ có phần lời mà còn có sự gắn
bó giữa lời với nhạc và vũ, với văn hoá dân gian nói chung. Do việc giới thuyết văn
học dân gian với một nội hàm được mở rộng và có tính tổng hợp, nguyên hợp như vậy
mà dường như có sự khập khiễng giữa thuật ngữ “văn học dân gian” với nội hàm mà
nó phải chứa. Phải chăng, để tránh sự khập khiễng đó mà nhiều người lại chuyển sang
dùng thuật ngữ “văn hoá dân gian”, “ phôncơlo”.
Luận điểm về vai trò làm nền của văn học dân gian đang cần làm sáng tỏ ở đây quả là
có liên quan mật thiết tới định nghĩa về văn học dân gian như trên. Nếu định nghĩa
văn học dân gian chỉ là một số thể tài quen thuộc và chỉ là ở lời mà không thấy tính
chất toàn diện, tính tổng hợp, nguyên hợp, trạng thái tồn tại của nó như một cơ thể
sống thì làm sao nhìn rõ được mối quan hệ giữa nó với nền văn học viết để từ đó mà
phát hiện tiếp về vai trò làm nền của nó. Ví như với vấn đề đã đặt ra ở Truyện Kiều
chẳng hạn, nếu quan niệm hẹp như vậy, một câu hỏi đơn giản thế này đặt ra: liệu
Nguyễn Du đã biết những tác phẩm văn học dân gian gì mà bảo Truyện Kiều đã kết
tinh trên cơ sở văn học dân gian? Thì câu trả lời chắc chắn gặp lúng túng. Còn theo
quan niệm mở rộng, tổng hợp tương ứng với thuật ngữ “văn hoá dân gian”,
“phơncơlo” thì dễ có khả năng nhìn được mối quan hệ bề thế, đa diện giữa Truyện
Kiều với văn học dân gian và từ đó cũng dễ có khả năng nhìn ra vai trò làm nền của
văn học dân gian trong sự kết tinh giá trị Truyện Kiều trên cả hai phương diện nội

dung và hình thức. Trên phương diện nội dung,một trong những điều lớn lao nhất của
Truyện Kiều là tình thương bao la bát ngát cho những kiếp người đau khổ, đặc biệt là
phụ nữ: “Đau đớn thay phận đàn bà”. Vậy thử hỏi, cái tình cảm lớn lao đó, một khi
đã không phải trên trời rơi xuống cho Nguyễn Du, thì từ đâu đến là chính? Từ cuộc
sống và tâm lý trưởng giả hay từ cuộc sống và tâm lý dân gian? Từ nền văn học bác
học đã có trước Nguyễn Du hay từ nền văn học dân gian truyền thống? Không cần nói
ra thì kết luận thế nào chúng ta đã biết, nhất là với ai đã quen với phương pháp hệ
thống trong khoa học. Có thể dẫn ra đây thêm một trường hợp để tham khảo. Đó là
trường hợp nhà nghiên cứu văn học của Liên Xô cũ là giáo sư tiến sĩ Niculin. Trong
bài giới thiệu cho bản dịch thơ Hồ Xuân Hương ra tiếng Nga, ông cũng đã triển khai
quan điểm thơ Hồ Xuân Hương kết tinh từ văn học dân gian thông qua việc phân tích
một số bài thơ cụ thể như bài Đánh đu. Tác giả đã gắn bài thơ với tục chơi đu trong
đời sống văn hoá dân gian ở các lễ hội, đặc biệt vào dịp đầu xuân với ý nghĩ rằng:
không có hiện tượng văn hoá dân gian đó thì không có bài thơ Đánh đu như đã có với
Hồ Xuân Hương. Nếu chiều hướng như thế được chấp thuận thì rõ ràng quan điểm


làm nền của văn học dân gian đối với nền văn học viết sẽ có cơ sở để triển khai thực
sự trong nhiều trường hợp khác của lịch sử văn học dân tộc.
2) Vấn đề tác giả văn học dân gian.
Vấn đề tác giả của văn học dân gian cũng liên quan mật thiết tới việc triển khai luận
điểm khoa học về vai trò làm nền của văn học dân gian.Chung quanh vấn đề tác giả
văn học dân gian tưởng là đơn giản nhưng thực ra vẫn có vấn đề.Có tình trạng chỉ chú
ý đến vai trò của tập thể trong sáng tác văn học dân gian theo quan điểm trừu tượng
phi giai cầp về con người.Có tình trạng xác định tác giả theo quan điểm đẳng cấp,giai
tầng mà ở đấy lại có sự tranh chấp trong nôị dung kết luận cụ thể.Trước 1975,trong
khi phần đông các nhà nghiên cứu theo quan điểm mác-xit ở miền Bắc gần như đã
thống nhất với nhau trong kết luận tác giả văn học dân gian là nhân dân, là bình dân,
là quần chung, là dân chúng lao đông thì đó đây ở miền Nam lại có kết luận cho rằng
tác giả văn học dân gian chỉ là các nhà nho, các sĩ phu.Vậy bên nào đúng, bên nào sai?

Hay bên nào cũng vừa có cái đúng vừa có cái chưa đúng? Ơ đây, quả lại có một số
còn điều phải làm rõ thêm:
 Nội hàm có tính lịch sử cụ thể của khái niệm bình dân(hoặc dân chúng,
hoặc quần chúng, hoặc nhân dân lao động) là gì?
<LI dir=ltr>
Vai trò của trí thức bình dân có hay không trong việc sáng tác văn học
dân gian?Có ở mức độ nào trong tương quan với vai trò của quần chúng
lao động?
 Những trí thức khác không thuộc trí thức bình dân liệu có vai trò gì trong
việc sáng tác văn học dân gian?
Chúng ta vẫn bắt gặp tình trạng nói tác giả văn học dân gian là bình dân, là quần
chúng lao đông... nhưng bỏ không giới thuyết nội hàm khái niệm hoặc có giới thuyết
thì lại chưa chú ý đầy đủ đến tính lịch sử cụ thể của nội hàm khái niệm .Trong bài “
Để có thể nắm bắt được thực chất của văn học dân gian”,tác giả Đinh Gia Khánh đã
cố gắng giới thuyết chu đáo và phù hợp với thực tiễn sinh động hơn. Tuy vậy, sự chú ý
của ông cũng đang tập trung ở phạm vi thời đại phong kiến mà chưa chú ý đến những
thời “tiền phong kiến”, “hậu phong kiến” cũng như nội dung lịch sử cụ thể của khái
niệm “các tầng lớp dân chúng” trong đó có vai trò của tầng lớp trí thức bình dân như
thế nào.
Việc nhận thức vế tác giả của văn học dân gian thực ra có liên quan mật thiết tới một
vấn đề quan trọng hơn, bao trùm hơn về đời sống xã hội và lịch sử là vấn đề nhận thức
về các quan hệ giai cấp trong xã hội, trong lịch sử như thế nào cho chính xác, cho phù
hợp với thực tế vốn có ngoài đời mà không máy móc, đơn giản, phi lịch sử. Đơn giản,
máy móc, phi lịch sử trong nhận thức về quan hệ giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến sự máy


móc, đơn giản, phi lịch sử trong việc nhận thức về vấn đề tác giả văn học dân gian, về
mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết, và như thế cũng khó nhận rõ vai
trò làm nền của văn học dân gian đối với văn học viết. Thông thường khi xác định
thành phần giai cấp, chúng ta dựa vào địa vị kinh tế và địa vị chính trị làm căn cứ chủ

đạo. Nhưng nghiên cứu tác giả văn học mà không chú ý đúng mức tới đời sống tâm
lý, nhất là tâm lý cá thể, vốn rất sinh động, đa dạng, tinh vi, thậm chí là phức tạp thì
hẳn là hiểu sai lệch tác giả và do đó là hiểu sai lệch văn học rất nhiều. Một Nguyễn
Du chẳng hạn. Về chính trị, về kinh tế- dù có lâm vào cảnh mười năm gió bụi, ta vẫn
không thể không nhắc đến cái thành phần quí tộc như lâu nay vẫn nhắc. Nhưng khi
đọc câu thơ Kiều “Đau đớn thay phận đàn bà” mà cứ tự trói mình trong định kiến
Nguyễn Du là quí tộc (dù là quí tộc phá sản) thì làm sao hiểu được “con mắt trông
thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời”của Nguyễn Du như lời Mộng Liên Đường,
làm sao hiểu nổi mối quan hệ giữa thi phẩm của Nguyễn Du với nhân dân, với văn
học của nhân dân, với văn học dân gian như chúng ta đang muốn hiểu.
3)Vấn đề quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết
Vấn đề này cũng liên quan trực tiếp đến việc nhận thức về vai trò làm nền của văn học
dân gian đối với văn học viết. Từ lâu đã xuất hiện hai khái niệm văn học truyền miệng
(hay văn học truyền khẩu) và văn học viết (hay văn học thành văn). Sau này lại xuất
hiện thêm khái niệm văn chương bác học để sánh với khái niệm văn chương bình dân.
Cặp khái niệm trên xuất hiện chủ yếu là dựa trên phương thức tồn tại của hai loại hình
văn học. Cặp khái niệm sau chủ yếu lại muốn bộc lộ bản chất giai cấp của hai loại
hình văn học đó. Loại thứ nhất là của quần chúng bị áp bức. Loại thứ hai là của tầng
lớp trên trong xã hội xưa. Trong thực tế nghiên cứu văn học lâu nay, đó đây hình như
có xu hướng đối lập một cách cực đoan, giả tạo hai loại hình văn học này. Sự thật thì
quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết là quan hệ hai mặt: vừa đối lập vừa
tương hỗ. Trong thực tiễn nghiên cứu, từng có khuynh hướng chú ý nhiều và chú ý
một cách máy móc tới mặt thứ nhất mà không thấy hoặc coi nhẹ mặt thứ hai. Để thấy
rõ mặt thứ hai, cần biết cùng với thuật ngữ phôncơlo (folklor) còn có thuật ngữ
phôncơlôric (folklorique: tính chất dân gian) để chỉ hiện tượng những tác phẩm văn
học viết (văn học bác học) có nội dung, có yếu tố văn học dân gian, ghi chép nội dung
văn học dân gian ví như Việt Điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái
của Trần Thế Pháp...Thuật ngữ phôncơlôridê (folkloríser: dân gian hoá) để chỉ hiện
tượng một tác phẩm văn học viết hoặc một bộ phận của một tác phẩm văn học viết
chuyển nhập vào kho tàng văn học dân gian.Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ví dụ

tiêu biểu cho hiện tượng một tác phẩm văn học bác học đã được dân gian hoá một
cách cao độ hiếm có. Nó được dân gian hoá bằng nhiều phương diện, nhiều hình thức
biểu hiện trong đó chuyện bói Kiều là điều đáng nói nhất. Một số tác phẩm từng được
coi là ca dao như bài Cảnh Tây Hồ (Gíó đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ
canh gà Thọ Xương...) mà nay đã biết tác giả của nó là Dương Khuê, bài “Anh đi anh
nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương...) mà nay biết tác giả của nó là


Trần Tuấn Khải... chính là hiện tượng một tác phẩm văn học viết đã được dân gian
hoá. Sơ bộ có thể nói mối quan hệ tương hỗ giữa văn học dân gian với nền văn học
viết đã diễn ra theo qui luật này: lúc nào sức sống của dân tộc, của nhân dân trổi dậy
thì lúc đó văn học dân gian và những bộ phận tiến bộ trong văn học viết xích gần lại
với nhau.Hiện tượng phôncơloric và phôncơloridê càng có điều kiện bộc lộ rõ rệt.
Thực tiễn văn học viết và văn học dân gian ở giai đoạn nửa sau thế kỷ 18, ở nửa sau
thế kỷ 19 chứng minh cho điều chúng ta đang nói. Vấn đề là cần tổng kết một cách
đầy đủ các dạng phôncơloric và phôncơloridê trong lịch sử văn học dân tộc cụ thể là
gì? Điều này có liên quan tới quan điểm về thể tài văn học trong lịch sử văn học Việt
Nam mà ở đấy quả có vấn đề số phận của một số thể tài như: bi ký, thần tích,ngọc
phả, văn phong tục,văn gắn voi tín ngưỡng dân gian,với hoạt động tôn giáo...Những
thể tài đó có thuộc văn học hay không? Chắc chắn là giữa cách nghĩ của người xưa và
người nay không phải là một. Với quan niệm có tính chất hiện đại hoá và phi lịch sử
thì những thể tài đó sẽ bị gạt ra ngoài lãnh vực văn học. Nhưng gần đây trong khoa
nghiên cứu văn học dân gian theo hướng mở lại đang có khuynh hướng tìm đến với
các thể tài đó. Mà như thế là chúng ta có thêm một phương diện tư liệu để thấy rõ hơn
mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết. Nhưng vấn đề chính đang cần tìm
hiểu lại là trong phạm vi văn học đích thực, văn học mỹ học. Ở đấy, mối quan hệ giữa
văn học dân gian và văn học viết lại có quan hệ mật thiết với vấn đề văn tự. Với văn
học viết bằng chữ Hán, trong hoàn cảnh quần chúng không chiếm lĩnh được văn tự thì
dường như chỉ có hiện tượng phôncơloric do vai trò tích cực của tầng lớp trí thức bình
dân và những phần tử trí thức tiến bộ khác giàu tâm huyết và có hiểu biết về văn học

dân gian. Còn hiện tượng phôncơloridê về cơ bản không có. Như thế thì quan hệ giao
lưu giữa văn học dân gian và văn học viết đã có nhưng còn bị hạn chế ở một chiều.
Đến khi có văn học chữ Nôm, dù quần chúng chỉ mới chiếm lĩnh được âm và nghĩa
mà chưa chiếm lĩnh được tự thì cũng đã xuất hiện một khả năng mới có ý nghĩa nâng
cấp chất lượng quan hệ giữa văn học viết và văn học dân gian. Hiện tượng
phôncơloric sẽ đi đôi với hiện tượng phôncơloridê và cả hai đều có khả năng phong
phú hơn lên. Chính nhìn thấy đặc điểm đó trong sự vận động của lịch sử văn học dân
tộc, của mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết mà nhà nghiên cứu văn
học quá cố Cao Huy Đỉnh đã gọi thể loại truyện nôm bình dân là “văn học thành văn
của quần chúng” trong khi nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Yên trong giáo trình Lịch sử
văn học Việt Nam thuộc tủ sách Đại học Tổng hợp Hà Nội cũ xuất bản năm1963 thì
coi đó là văn học dân gian và nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Dũng (sau này lấy bút
danh Từ Sơn) lại cho là sai, bởi theo ông nó là văn học viết. Văn học chữ quốc ngữ ra
đời. Xét trên lý thuyết thì khả năng tăng cường mối quan hệ giữa văn học dân gian và
văn học viết sẽ cao hơn vì với văn tự chữ quốc ngữ dù sao đối với quần chúng cũng dễ
chiếm lĩnh hơn so với chữ Nôm đặc biệt là so với chữ Hán. Mà về thực tế, sơ bộ cũng
thấy như vậy qua mấy hiện tượng tiêu biểu như sau:
- Dùng chữ quốc ngữ để sưu tầm ghi chép văn học dân gian. Công việc này bắt đầu
với Trương Vĩnh Ký từ nửa sau thế kỷ XIX bằng các tác phẩm như Chuyện đời xưa,


Chuyện khôi hài,được tiếp tục với một số người ở nửa đầu thế kỷ XX như Nguyễn
Văn Ngọc (ví dụ Truyện cổ nước Nam, Đông Tây ngụ ngôn, Để mua vui). Đặc biệt từ
sau 1954 thì công việc này đã đạt tới những thành tựu bề thế chưa từng có. Trong lịch
sử Việt Nam chưa bao giờ văn học dân gian bao gồm văn học dân gian của người
Kinh, đặc biệt là văn học dân gian của các dân tộc ít người lại được sưu tầm,thành văn
hoá như trong thời đại ngày nay do có chữ quốc ngữ nhưng quan trọng hơn là do ý
thức của con người một khi đã tự giác sâu sắc về kho báu văn học dân gian.
- Khai thác kho tàng văn học dân gian trong khi sáng tác văn học hiện đại. Điều này
thể hiện rõ ở hai hình thức sau: a) Tìm nguồn cảm hứng cho thơ ca bằng cách đưa thơ

ca trở về tắm mát trong suối dân ca. Phong dao trong thơ ca Tản Đà, Trần Tuấn Khải...
là tiêu biểu cho hai hiện tượng phôncơloric và phôncơloridê trong mối quan hệ giữa
văn học viết và văn học dân gian. b) Viết tiểu thuyết huyền thoại và tiểu thuyết lịch sử
bằng cách khai thác nguồn dạ sử vốn là sản phẩm thuộc phạm trù văn học dân gian.
Tiểu thuyết Qủa dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật, hầu hết các tiểu thuyết lịch sử ở
nửa đầu thế kỷ XX tiêu biểu là của Nguyễn Tử Siêu, đã nói lên điều đó. Hiện tượng
này sẽ được tiếp tục trong tình hình văn học sau ngày cách mạng thành công.

Những gì được trình bày trên đây thực tế chỉ mới là sự luận bàn trên cơ sở văn học
của dân tộc Kinh với tư cách là nền văn học chủ công của lịch sử văn học dân tộc. Do
đó một câu hỏi vẫn phải đặt ra là: với một số dân tộc ít người khác đã có chữ viết
riêng và ít nhiều có văn học viết riêng thì mối quan hệ giữa v ăn học dân gian và văn
học viết đó là thế nào? Thêm nữa giữa văn học dân gian của các dân tộc ít người nói
chung với nền văn học viết của dân tộc Kinh có hay không? Có tới mức nào? Đây là
những câu hỏi rất lý thú. Nhưng xin được treo lại chưa có trả lời vì chưa có sự nghiên
cứu. Mong được các bạn đồng nghiệp bổ cứu tiếp sức cho. Tuy vậy thì vẫn muốn dự
đoán rằng: trên đại thể, những gì đã diễn ra trong văn học của dân tộc Kinh, ít nhiều
cũng diễn ra trong văn học của một số dân tộc đã có chữ viết và văn học chữ viết. Sơ
bộ nhìn vào văn học viết của dân tộc Thái ở Tây Bắc bằng chữ Thái riêng và chữ Nôm
đã có chút căn cứ bước đầu để dự đoán như thế đối với câu hỏi thứ nhất.
Cuối cùng,một vấn đề nữa cũng có thể đặt ra để suy nghĩ là trong nền văn học Việt
Nam hiện đại, mối quan hệ giữa văn học viết và văn học dân gian là thế nào? Văn học
dân gian có còn đóng vai trò làm nền kết tinh cho văn học viết nữa không? Qủa thật
đây cũng lại là một vấn đề rất thú vị, nhưng rất phức tạp. Bởi lẽ chung quanh vấn đề
có hay không có văn học dân gian trong thời hiện đại, và nếu có thì việc đánh giá nó
thế nào đã là có chuyện tranh chấp nhau khá gay gắt, thậm chí có thể qui kết nhau khá
nặng nề. Không phải không có người đã cho rằng duới chế độ mới mà nhân dân được
làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ đất nước trong đó có sự làm chủ về văn hoá thì
còn gì phải có văn học dân gian. Nếu có thì đó chỉ là tiếng nói phản động cần lên án,
cần loại bỏ. Đây là cách nói của một vài người trên báo chí mà trong bối cảnh xã hội

một thời, nó dường như là tiếng nói chính thống do đó không phải không có người


đồng tình, ít ra thì cũng không dám phản bác. Đến hôm nay thì chắc là không ai nghĩ
đơn giản và thô thiển như thế nữa một khi đã thấy sự có mặt của văn học dân gian
hiện đại dưới hình thức ca dao hò vè, nhất là giai thoại, truyện kể với đủ nội dung
trong đó có cả nội dung chọc trời, nói là táo bạo cũng được, nói là trắng trợn được. Có
điều là dường như với các nhà nghiên cứu văn học dân gian vẫn chưa hết ngợp trước
hiện tượng vốn dĩ nhạy cảm, phức tạp đó. Cho nên ở đây cũng khó nói được gì hơn.
Nhưng vẫn có thể nghĩ rằng, gì thì gì, mối quan hệ giữa văn học dân gian (nếu có thừa
nhận) với văn học viết trong thời hiện đại này về cơ bản đã khác trước. Bởi trong thời
hiện đại này, dù còn nhiều hạn chế trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
nhưng không có nghĩa là nhân dân chưa làm chủ được gì trong cuộc sống nói chung,
trong văn hoá,văn học nói riêng. Từ thực tế đó, sẽ có sự hoà quyện giữa văn học của
mọi tầng lớp nhân dân trong một đất nứơc.Và như thế thiết tưởng cũng khó nói đến
cái gọi là vai trò làm nền của văn học dân gian đối với nền văn học viết như ở các thời
đại trước.
Chú thích:
1. Xem: Văn hoá và xã hội,viết 1927,in 1934. In lại trong Hợp tuyển văn
học Việt Nam (1920-1945).Tập V-quyển I, Văn học,1987, tr 397-402.
2. Xem: Việt Nam tổ quốc tuý ngâm, xuất bản 1932.
3. Xem: Vai trò của văn học dân gian trong văn học Việt Nam nói chung
trong Truyện Kiều nói riêng-Nguyễn Khánh Toàn- Tạp chí văn học số
tháng 11-1965.
4. Còn có loại chữ “ Thập châu” được Vương Duy Trinh ghi lại trong
Thanh hoá quan phong mà theo Nguyễn Đổng Chi trong Việt Nam cổ
văn học sử là “ chữ viết đời thượng cổ”.V ề hiện tượng này cần nghiên
cứu thêm.
5. Có người tính từ thế kỷ 2-3 sau công nguyên.
6. Xem Văn minh tân học sách của Đông kinh nghĩa thục.




×