Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Nghiên cứu ứng dụng ghép tế bào gốc tủy xương điều trị khớp giả thân xương dài chi trên ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.96 KB, 120 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khớp giả là hiện tượng xương gãy không được can hóa trong thời hạn thông
thường. Thời hạn 6 tháng kể từ khi thực hiện điều trị kết xương ban đầu vẫn được
coi là kinh điển với ổ gãy xương chi trên. Nếu quá thời hạn 6 tháng mà xương gãy
vẫn chưa liền thì gọi là “Khớp giả”, thống kê cho thấy biến chứng chậm liền xương
và khớp giả chiếm tỷ lệ 5-10% các gãy thân xương dài [72]. Việc điều trị khớp giả
không đơn giản, có thể để lại nhiều di chứng nặng nề, thậm chí cắt cụt chi, đặc biệt
với những trường hợp có phần mềm xấu, tiền sử nhiễm trùng, khuyết xương hoặc
diện gãy teo đét...
Có nhiều phương pháp để điều trị khớp giả bao gồm phẫu thuật và không
phẫu thuật với mục tiêu cuối cùng đem lại sự liền xương và phục hồi chức năng
cho người bệnh. Các phương pháp điều trị nhìn chung đều giúp cố định vững chắc
ổ khớp giả và tạo kích thích sinh học phát động quá trình liền xương. Ngày nay xu
hướng trong điều trị khớp giả không những phải đạt liền xương mà còn phải ít xâm
lấn, rút ngắn thời gian điều trị. Một trong các phương pháp tiên phong phẫu thuật ít
xâm lấn là khoan tạo đường hầm qua ổ khớp giả kiểu Beck với mục đích tăng cấp
máu tủy xương vào ổ khớp giả nhằm kích thích quá trình liền xương đã được
Pusitz công bố năm 1944 [74]. Các nghiên cứu về tế bào gốc đã đạt được nhiều
thành tựu cho thấy dòng tế bào gốc từ tủy xương tự thân có thể là nguồn cấy ghép
quan trọng để điều trị các bệnh lý về xương khớp dựa trên tính đa năng của chúng
(biến đổi thành các tế bào biệt hóa khác nhau) để hình thành và phát triển khối can
xương. Năm 2016, Mahdi và cộng sự điều trị khớp giả xương dài cho 24 bệnh
nhân bằng khoan ổ khớp giả với mũi khoan 4,5mm qua da từ nhiều hướng khác
nhau, sau đó ghép 100ml dịch tủy xương tự thân cho kết quả liền xương 87,5%.
Tác giả cho rằng dịch tủy xương và khoan ổ khớp giả là hai yếu tố tại chỗ quan


2


trọng giúp liền xương ổ khớp giả [60], tuy nhiên việc ghép trực tiếp dịch tủy xương
chưa qua xử lý cô đặc tế bào gốc với lượng dịch tủy xương lớn gây khó khăn trong
quá trình ghép. Ở Việt Nam, Phạm Đăng Nhật và cộng sự tiêm 10ml dịch tủy
xương cô đặc vào ổ chậm liền xương, khớp giả thân xương dài cho hiệu quả liền
xương cao [86]. Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Khánh điều trị khớp giả thân
xương dài bằng cách bơm vào ổ khớp giả khối tế bào gốc tủy xương là phương
pháp điều trị ít xâm lấn cho kết quả liền xương 88,9% [11]. Tuy nhiên trong thực
tế, cách tiêm trực tiếp vào ổ khớp giả có những điểm hạn chế do tổ chức xơ sợi tại
chỗ nên khó có thể bơm vào ổ khớp giả và phải bơm với áp lực lớn làm cho dịch tế
bào gốc tủy xương trào ra không theo ý muốn việc bơm khối dịch tủy xương vào ổ
khớp giả là rất khó khăn do khe khớp giả bị lấp đầy các tổ chức xơ sợi nên thường
phải bơm với áp lực lớn dễ gây tràn khối dịch ra ngoài da.
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi kết hợp khoan tạo các đường hầm xuyên
xương qua ổ khớp giả với ghép khối dịch tủy xương cô đặc có chứa tế bào gốc (gọi
tắt là ghép dịch tế bào gốc tủy xương) nhằm phát huy hiệu quả của cả hai phương
pháp là: Tạo khối máu đông tái khởi động quá trình liền xương và bơm khối dịch tế
bào gốc tủy xương, qua những đường hầm này nhằm khuyếch tán tốt hơn dung
dịch có chứa tế bào gốc trong ổ khớp giả và xung quanh để kích thích quá trình
liền xương. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “ Nghiên cứu ứng dụng ghép
tế bào gốc tủy xương điều trị khớp giả thân xương dài chi trên ” nhằm hai mục
tiêu:
 Xây dựng quy trình điều trị khớp giả thân xương dài chi trên bằng
phương pháp khoan tạo các đường hầm xuyên xương qua ổ khớp giả và
ghép khối dịch tế bào gốc tủy xương tự thân.
 Đánh giá kết quả điều trị khớp giả thân xương dài chi trên bằng phương
pháp khoan tạo các đường hầm xuyên xương qua ổ khớp giả và ghép
khối dịch tế bào gốc tủy xương tự thân.


3



4

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN
1.1. Sinh lý quá trình liền xƣơng
1.1.1. Sinh lý quá trình liền xƣơng
Quá trình liền xương là một quá trình phức tạp liên quan tới nhiều yếu tố từ
mức phân tử, tế bào, vùng tổn thương tới toàn cơ thể [26]. Phẫu thuật viên chấn
thương chỉnh hình cần am hiểu thấu đáo quá trình này để có những điều chỉnh phù
hợp đưa tới kết quả liền xương tốt.
Về tổ chức học, quá trình liền xương bình thường diễn ra qua 4 giai đoạn
như sau [5], [25], [63].
- Giai đoạn đầu còn gọi là pha viêm: Xuất hiện ngay sau khi xương gãy
giai đoạn này kéo dài trong thời gian 3 tuần với đỉnh điểm là ngày thứ 3 tới ngày
thứ 5 sau chấn thương.
Lực tác động làm gãy xương sẽ đồng thời làm tổn thương cả 2 hệ thống cấp
máu của màng xương và tủy xương dẫn tới hoại tử các tế bào tại ổ gãy, các tế bào
này sẽ giải phóng các yếu tố hoạt hóa thành mạch gây tăng quá trình giãn mạch và
thẩm thấu thành mạch. Quá trình này làm tăng lưu lượng máu tới ổ gãy và đỉnh
điểm là 2 tuần sau chấn thương. Trên nền của cục máu đông hình thành từ các tế
bào viêm, các nguyên bào sợi xuất hiện tạo ra collagen dần thay thế cục máu đông
bằng tổ chức hạt.
Hiện tượng tăng tốc vùng (RAP: regional acceleratory phenomenon): được
mô tả lần đầu trong y văn bởi Frost năm 1983 [101]. Khoảng 3% ca gãy xương
không có hiện tượng này và dẫn đến không liền xương. Nếu chỉ dựa vào các
nguyên bào xương sẵn có tại ổ gãy thì phải cần từ 200-1000 năm để xương liền,
trong khi đó các tế bào chỉ sống từ 2 đến 3 tháng. Vì vậy, cần phải có một cơ chế



5

thu hút các tế bào gốc và tiền thân, đảm bảo quá trình nhân lên và biệt hoá chúng
thành tạo cốt bào, huỷ cốt bào, kiểm soát sự khoáng hoá, sửa chữa hình thể can và
cuối cùng là hồi phục hình thể xương. Quá trình này được khởi động bởi những tín
hiệu chưa được biết rõ và bắt đầu ngay sau khi gãy xương, đạt cực đại giữa tháng
thứ 1-2 và kết thúc vào khoảng tháng thứ 6-24 hoặc muộn hơn.
Thu hút tế bào gốc và tế bào tiền thân: Giai đoạn này diễn ra trong 8 giờ
đầu. Theo Nakahara trong dịch tuỷ xương và màng xương có sẵn những tế bào tiền
biệt hoá, khi gãy xương các tế bào này sẽ biệt hoá thành các tế bào sinh xương để
tạo can [69]. Theo Lindholm (1980), các tế bào gốc và tiền thân chỉ là tế bào bình
thường, không có đặc tính tạo xương nhưng khi có những kích thích phù hợp
chúng được cảm ứng và trở thành các tế bào sinh xương [59]. Trueta (1974) lại cho
rằng những tế bào nội mạc của mạch máu bị đứt do gãy xương là tế bào tiền thân
[92]. Theo Friedenstein, trong dịch tuỷ xương có những tế bào tiền thân tạo xương
(DOPC: determinal osteogenic precursor cells) [40]. Theo Meyrueis và Cazenave
(2004), tế bào gốc có nguồn gốc từ dịch tuỷ xương và sau chấn thương có sự nhân
lên của tế bào trung mô đa hình thái trong dịch tuỷ xương tại ổ gãy [101].
Quá trình cảm ứng tạo xương diễn ra tại dịch tuỷ xương và màng xương. Số
lượng tế bào tiền thân ở dịch tuỷ xương khá ít: 1/100.000 tế bào có nhân. Theo
Hernigou, thiếu hụt số lượng tế bào gốc và tế bào tiền thân ở dịch tuỷ xương dường
như có vai trò hình thành nên khớp giả [100]. Do vậy, trong nhiều trường hợp
chậm liền xương, khớp giả một số tác giả đề xuất ghép dịch tuỷ xương tự thân đơn
thuần hoặc phối hợp để kích thích quá trình liền xương.
Di chuyển tế bào: Tế bào tiền thân chưa biệt hoá sẽ di chuyển tới ổ gãy.
Những yếu tố hoá học được giải phóng từ những tế bào hoại tử kích thích sự di
chuyển này.
Sinh sản tế bào: Các tế bào tiền thân không tồn tại đơn lẻ mà tạo thành

những cụm tế bào và bám vào để sinh sản. Mỗi cụm tế bào từ một tế bào ban đầu


6

được gọi là đơn vị tạo cụm nguyên bào sợi (CFU-F: colony forming unit
fibroblastic) [38].
Theo Mizuno và cộng sự (1990) thì các tế bào bị tổn thương khi gãy xương
nhanh chóng giải phóng nhiều chất hoá học. Trong số này đáng kể nhất là các chất
phân bào tác động lên tế bào tiền thân và khiến chúng nhanh chóng nhân lên, đặc
biệt là PDGF (yếu tố phát triển nguồn gốc tiểu cầu) và TGF-β (yếu tố phát triển
chuyển dạng β) được tiết ra từ tiểu cầu. Quá trình phân bào bắt đầu khoảng 8 giờ
và đạt mức cao nhất 24 giờ sau chấn thương [64].
Biệt hoá tế bào: Các yếu tố cảm ứng xương là những yếu tố lý sinh và hoá
sinh chịu trách nhiệm cảm ứng, biệt hoá các tế bào tiền thân thành những tế bào có
khả năng tạo xương. Các yếu tố cảm ứng xương hoá học được biết đến là TGF-β,
PDGF, FGF (yếu tố phát triển nguyên bào sợi), IGF (yếu tố phát triển dạng
insulin), BMP (protein di truyền hình thái xương) [22], [91]. Đây là cơ sở để nhiều
tác giả bổ sung các yếu tố này trong điều trị chậm liền xương, khớp giả.
- Giai đoạn hai là giai đoạn tạo can xƣơng: Diễn ra từ 1 đến 4 tháng, gồm
hai giai đoạn như sau:
+ Hình thành can xƣơng mềm: Diễn ra trong 1- 3 tuần đầu. trong giai đoạn
này hình thành nhiều các mạch máu tân tạo được tạo ra bởi các tế bào gốc tủy
xương. Các tế bào gốc này xâm nhập vào vùng tổn thương và biệt hóa tùy thuộc
vào điều kiện tại chỗ: nồng độ oxy tổ chức, sức căng giãn và các yếu tố kích thích
phát triển tại chỗ (GF).
Sức căng giãn tại chỗ sẽ hoạt hóa tế bào gốc sinh các nguyên bào sợi. Ở
những nơi có nồng độ oxy thấp và căng giãn thường xuyên các tế bào gốc sẽ tạo
các nguyên bào sụn, sau đó các can sụn sẽ tạo cầu nối giữa hai đầu xương gãy,
cũng chính các can sụn này sẽ làm giảm độ căng giãn và đưa tới sự liền xương.

Nguyên bào xương sẽ tăng sinh nhanh chóng ở môi trường giàu oxy và ít bị
căng giãn cơ học, những vùng này tạo nên can xương cứng trực tiếp.


7

Can xương mềm được tạo ra nhờ sự biến đổi từ tổ chức hạt sang tổ chức
canxi hoá tạm thời, bao gồm các nguyên bào xương và nguyên bào sụn cùng hệ
thống các sợi collagen. Các nguyên bào xương và nguyên bào sụn tổng hợp các
chất gian bào dạng xương và sụn. Sự khoáng hoá can mềm xuất hiện đầu tiên ở chỗ
tiếp giáp giữa các đầu xương gãy, tuần tự từ đầu này sang đầu kia của ổ gãy cho
đến khi hai đầu xương gãy được nối liền nhau. Can ở giai đoạn này rất mềm và dễ
gãy [35].
+ Hình thành can xƣơng cứng: Thường bắt đầu từ tháng thứ 3 sau khi gãy
xương. Can xương mềm tiếp tục phát triển, các tế bào sụn cùng hệ thống sợi
collagen lắng đọng canxi tạo môi trường cho các tế bào gốc đi vào biến đổi thành
các nguyên bào xương, các tế bào này biến đổi sụn đã khoáng hóa thành các bè
xương cứng sắp xếp dọc theo các vi quản. Sự cốt hoá tạo thành các bè xương cứng
đảm bảo nối liền ổ gãy vững chắc.
- Giai đoạn ba là giai đoạn sửa chữa hình thể can: Xương Havers thích
hợp được định hướng thay thế can xương cứng (quá trình này kéo dài từ một đến
vài năm, trả lại cho xương cấu trúc tổ chức học bình thường). Dưới sự tác động của
các lực cơ học tổ chức can xương tại đây có sự thay đổi về hình thể để thích hợp
với chức năng của xương. Sự sửa chữa được thực hiện bởi các đơn vị tái tạo xương
gồm có các huỷ cốt bào và tạo cốt bào và diễn ra theo một trình tự được lặp đi lặp
lại [5], [63].
- Giai đoạn hồi phục hình thể xƣơng nhƣ ban đầu: Chỉ có ở trẻ em, kéo
dài từ một đến nhiều năm, hình thể xương phục hồi hoàn toàn. Giai đoạn này liên
quan đến sự chỉnh sửa hình thể chung của xương, giúp cho xương trở lại hình thể
ban đầu của nó, ống tuỷ được tái lập, những chỗ lồi lõm trên bề mặt của xương

được sửa chữa.
Các biến đổi về mặt sinh hoá học cũng đồng thời diễn ra. Tại vùng ổ gãy
xuất hiện các chất trung gian hoá học như histamine, acetylcholine làm giãn mạch,


8

giảm chất calcium ở hai đầu xương gãy khiến xương bị thưa loãng. Nhiều men
photphataza cũng xuất hiện tại ổ gãy có tác dụng cầm giữ chất calcium để tạo
thành can ở vùng ổ gãy. Hai quá trình đồng và dị hoá này diễn ra song song, dần
dần quá trình đồng hoá chiếm ưu thế. Về phương diện thăng bằng kiềm toan, trong
vòng 2 tuần đầu pH toan tính dần trở về bình thường rồi chuyển sang kiềm tính.
Nếu ổ gãy được nắn chỉnh và cố định tốt thì pH tại ổ gãy sẽ chuyển sang kiềm tính
nhanh hơn, tạo điều kiện cho quá trình thành lập can xương. Ngược lại, pH toan sẽ
gây đau kéo dài và làm chậm quá trình hình thành can.
Trên lâm sàng và X quang, tương ứng với giai đoạn viêm và hình thành tổ
chức hạt, biểu hiện bằng sưng, nóng, đỏ, đau, giảm dần sau 7-10 ngày, X quang
các đầu xương gãy vẫn sắc cạnh chưa có biến đổi gì. Tương ứng với giai đoạn hình
thành can mềm, lâm sàng không còn cử động bất thường tại ổ gãy, X quang các
đầu gãy không còn sắc cạnh, bắt đầu xuất hiện can cầu, dần dần can xương phát
triển tạo thành một cầu can nối liền hai đầu gãy, tuy nhiên khe gãy vẫn còn rõ.
Tương ứng với giai đoạn can xương cứng, lâm sàng sờ thấy rõ khối can, không còn
cử động bất thường, không còn đau tại ổ gãy, X quang có hình ảnh khối can xương
to chắc nối liền hai đầu gãy, không còn khe giãn cách [5], [10].
1.1.2. Quá trình liền xƣơng sau ghép xƣơng tự thân
Kỹ thuật ghép xương lần đầu tiên được bác sỹ Job Van Meekeren người Hà
Lan tiến hành vào năm 1668 (trích theo [21]). Cho đến nay ghép xương được ứng
dụng rộng rãi trong chấn thương chỉnh hình, với các chất liệu xương tự thân,
xương đồng loại và dị loại, …
Cuối thế kỷ XIX, hai phẫu thuật viên Barth A. và Curtis B.F đã cùng phát

triển ghép xương trong lâm sàng. Barth A. mô tả sự hấp thu xương ghép đã bị hoại
tử do mất nguồn mạch nuôi và sự hình thành xương mới từ xương còn đang sống
xung quanh xương ghép. Curtis B.F cho rằng hệ thống ống Haver của xương ghép


9

như là những ống dẫn tạo thuận lợi cho mô hạt xâm nhập và phát triển vào. Tiếp
đó, trên nền mô mới thay thế xương ghép, sự cốt hóa diễn ra nhanh chóng [5].
Năm 1914, Gallie W.E. nghiên cứu trên thực nghiệm cho thấy mảnh xương
ghép tự thân đạt liền xương phải qua ba giai đoạn tuần tự (trích theo [12]):
1. Thành mảnh xương hoại tử vô khuẩn.
2. Hình thành mạch tân tạo trong mảnh ghép.
3. Xương hoại tử tiêu đi, xương mới hình thành nhờ có sự xâm nhập tế bào
xương vào mảnh ghép theo các mạch máu tân tạo.
Năm 1914, Phemister đã mô tả sự xâm nhập hình thành xương mới trực tiếp
vào trong xương ghép. Các dải bè xương của xương ghép bị hoại tử do mất mạch
nuôi, tiếp sau đó là sự lắng đọng xương mới. Quá trình này được tác giả gọi là quá
trình “thay thế dần dần” (trích theo [12]).
1.1.3. Quá trình liền xƣơng sau ghép tế bào gốc tủy xƣơng qua các đƣờng hầm
khoan xuyên xƣơng qua ổ khớp giả
Phương pháp ghép xương được áp dụng trong điều trị khớp giả thân xương
dài từ những năm cuối thế kỷ XIX, Mckibbin (1978) cho rằng tổ chức khớp giả là
một tổ chức bệnh lý vì vậy việc điều trị phải đảm bảo lấy bỏ hết tổ chức xơ, khoan
thông ống tủy và kích thích tạo xương bằng ghép xương tự thân [63]. Ngày nay
quá trình liền xương đã được chia thành bốn giai đoạn: Giai đoạn đầu (pha viêm),
giai đoạn tạo can xương, giai đoạn sửa chữa hình thể can và giai đoạn phục hồi
hình thể xương. Khớp giả sẽ hình thành trong giai đoạn tạo can xương nếu như ổ
gãy không được cố định vững chắc, liên tục và đủ thời gian dẫn đến không biệt hóa
được tổ chức xơ sụn bắc cầu qua ổ gãy để biến thành can xương cứng. Theo

Lindholm và cộng sự thì khớp giả là kết quả của quá trình thoái hóa lớp sụn hyalin
giữa hai đầu xương gãy [59]. Như vậy tổ chức xơ sợi và sụn vùng khớp giả được
hình thành trong giai đoạn tạo can xương mềm (tạo mô xơ và sụn, biệt hóa các tế
bào tiền thân thành các tạo cốt bào và nguyên bào sụn) của ổ gãy nhưng vì một lý


10

do nào đó không tiếp tục hình thành can xương cứng và ngày càng có sự thoái hóa
tổ chức sụn ở trung tâm ổ gãy.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy nếu chúng ta bổ sung các tế bào gốc vào
ổ chậm liền xương và khớp giả sẽ làm tăng tỉ lệ liền xương [10], [11].
Từ những cơ sở trên chúng tôi tiến hành ghép TBG tủy xương tự thân qua
các đường hầm xuyên xương qua ổ khớp giả với mục đích sau:
- Khoan đường hầm tạo ổ máu đông phát động lại quá trình liền xương, “quá
trình tăng tốc vùng” (RAP), cung cấp các tế bào tủy xương, tạo các đường
hầm giúp khối tế bào gốc dễ dàng xâm nhập và phát tán trong ổ khớp giả và
xung quanh.
- Bơm khối tế bào gốc tự thân vào ổ KG và xung quanh qua các đường hầm
cung cấp một lượng dồi dào các tế bào tiền thân có thể biệt hóa thành tạo cốt
bào và nguyên bào sụn để tái khởi động quá trình liền xương.
Bên trong ổ khớp giả khối máu tụ kích thích quá trình viêm, các tế bào tiết ra
các Cytokin kích thích các mao mạch tân tạo phát triển vào ổ xơ sụn [40].
1.2. Đại cƣơng về khớp giả thân xƣơng dài
1.2.1. Khái niệm khớp giả
- Khớp giả là một biến chứng muộn của gãy xương, trong đó hai đầu gãy
không gắn lại với nhau bằng một khối can xương mà thay vào đó là tổ chức xơ sợi.
- Theo Merle d’Aubigne và Tubiana (1958) khớp giả là tình trạng ổ gãy đã
quá hai lần thời gian liền xương bình thường mà trên phim X-quang chưa có can
xương, trên lâm sàng còn cử động bất thường nhưng không gây đau [trích theo 8].

1.2.2. Phân loại khớp giả
Có nhiều phân loại khớp giả khác nhau trên lâm sàng [10].
- Phân loại theo tổ chức học:


11

+ Khớp giả chặt: là khớp giả nhưng hai đầu gãy sít lại gần nhau (khoảng
cách giữa hai đầu xương < 0,5 cm). Đối với loại này thường không tìm thấy dấu
hiệu cử động bất thường hoặc cử động bất thường rất kín đáo tại ổ gãy.
+ Khớp giả thực thụ: Là tình trạng ổ khớp giả có cử động bất thường rõ vì
được nối với nhau bằng tổ chức sụn xơ và một khoảng giãn cách.
+ Khớp giả mất đoạn xương: Có thể do mất xương ngay từ khi chấn thương
hoặc khi xử trí kỳ đầu phẫu thuật viên đã lấy bỏ các mảnh xương rời lớn hoặc do
cắt đoạn xương viêm hoại tử trong xử trí ổ gãy bị viêm xương tuỷ xương hoặc do
quá trình viêm làm tiêu đi một đoạn xương...
- Phân loại theo vi khuẩn học:
+ Khớp giả vô khuẩn.
+ Khớp giả nhiễm khuẩn.
+ Khớp giả nhiễm khuẩn đã ổn định: Hết viêm rò trên 6 tháng.
- Phân loại theo tình trạng phần mềm:
+ Khớp giả có phần mềm tốt
+ Khớp giả có phần mềm xấu: Viêm rò, sẹo xấu, sẹo loét, sẹo dính xương...
- Phân loại khớp giả thân xƣơng dài của Weber và Cech (1976): Là phân
loại khớp giả được đề cập nhiều nhất trong y văn. Theo tác giả, tùy theo mức độ
phát triển của đầu xương trên phim X quang, có thể chia thành hai loại: loại phì đại
và loại teo đét [56].
- Khớp giả phì đại: Do phản ứng sinh học, nghiên cứu bằng strontium 85 cho
thấy rất giàu mạch nuôi dưỡng ở đầu xương gãy.
+ Khớp giả kiểu “chân voi” – C1: Hai đầu xương quá phát nhiều tổ chức

sụn, xương phì đại, thường do cố định không vững chắc hoặc tỳ quá sớm. Đây là
loại gãy xương được nắn tốt và đủ máu nuôi.


12

+ Khớp giả kiểu “móng ngựa” – C2: Hình thể đầu gãy xương vừa và phì đại
vừa phải, thường gặp sau cố định không vững chắc mức độ trung bình bằng nẹp
vít, đầu xương gãy có ít can không đủ để liền và có thể có tổ chức xơ.
+ Khớp giả thiểu dưỡng – C3: Không có dấu hiệu can xương, thường gặp
sau gãy di lệch nhiều, các mảnh gãy xa nhau hoặc cố định bên trong mà đặt lại diện
gãy không tốt.
C1

C2

C3

Hình 1.1. Khớp giả phì đại
C1- kiểu chân voi, C2- kiểu móng ngựa, C3- thiểu dưỡng.
* Nguồn: theo Kevin B. C. (2012) [56]

- Loại teo đét hoặc vô mạch: Không do phản ứng sinh học, nghiên cứu bằng
strontium 85 cho thấy rất ít mạch nuôi dưỡng đầu xương gãy.
+ Khớp giả có mảnh hình nêm xoắn – C4: Mạch nuôi mảnh ở giữa kém hoặc
không có, mảnh này chỉ liền với một đầu xương gãy, thường gặp trong điều trị kết
xương bằng nẹp vít .
+ Khớp giả nhiều mảnh vụn – C5: Một hoặc nhiều mảnh xương ở giữa vỡ
nát và hoại tử tiêu đi, trên phim X quang không thấy dấu hiệu nào của can xương.



Luận văn đầy đủ ở file:Luận văn Full














×