Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4 5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non sông âm trong năm học 2017 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 17 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Ở trường mầm non trẻ không chỉ được chăm sóc mà trẻ còn được làm
quen nhiều hoạt động khác nhau, trong đó hoạt động “ Khám phá khoa học” có
ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhận thức cho trẻ. Việc cho trẻ “khám
phá khoa học” là tạo điều kiện hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng,
hồn nhiên, lòng nhân ái, tình cảm yêu thương với người thân, với cuộc sống
xung quanh trẻ, biết yêu quí bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống của
quê hương đất nước, trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động tự làm ra.[1]
Đặc biệt nhu cầu nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh của trẻ mẫu
giáo 4-5 tuổi rất lớn. Trẻ luôn muốn biết mọi thứ và thường đặt ra các câu hỏi để
tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh. Thông qua tổ chức hoạt động khám
phá khoa học, giáo viên sẽ tạo cơ hội cho trẻ được tìm tòi, khám phá, trải
nghiệm. Tổ chức hoạt động khám phá khoa học phù hợp sẽ giúp trẻ tìm ra cái
mới, tiếp cận với những tri thức tiền khoa học, tích cực hoạt động nhận thức.
Trẻ 4-5 tuổi rất thích tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh mình,
bởi thế giới xung quanh thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn và
còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá. Dạy trẻ
khám phá khoa học mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng,
sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ. Trong đó, khám phá khoa học đòi hỏi trẻ
phải sử dụng tích cực các giác quan, chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực
quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp… nhờ vậy khả năng cảm nhận
của trẻ sẽ nhanh nhạy, chính xác. Những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được
trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Qua những thí nghiệm nhỏ trẻ được tự
mình thực hiện sẽ hình thành ở trẻ những biểu tượng về thiên nhiên, chính là cơ
sở khoa học sau này của trẻ.
Thực tế, việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học trường mầm non nói
chung và đặc biệt là trẻ 4-5 tuổi nói riêng đã được chú trọng và quan tâm hơn,
tuy nhiên giáo viên còn ôm đồm nhiều nội dung khám phá trong một hình thức,
nặng về cung cấp kiến thức hơn là tạo cơ hội cho trẻ tham gia các hoạt động tìm
tòi khám phá và chưa thực sự chú trọng tới việc hình thành các kĩ năng nhận


thức cho trẻ. Mặt khác, việc tổ chức hoạt động khám phá còn khô khan, chưa thu
hút được trẻ tham gia hoạt động.
Chính vì những lý do trên nên tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp tạo
hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non Sông Âm
năm học 2017-2018” nhằm thu hút trẻ tham gia vào hoạt động khám phá. Từ đó
nâng cao kiến thức của trẻ góp phần phát triển toàn diện cho trẻ.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ, thu hút trẻ tham gia vào hoạt
động khám phá khoa học nhằm phát triển nhận thức, khả năng quan sát, so sánh,
phân biệt ở trẻ, góp phần cùng các môn học giúp trẻ phát triển toàn diện về: đạo
đức, trí tuệ, thẩm mĩ, lao động. Từ đó phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi khám phá khoa học ở trường
1


mầm non Sông Âm năm học 2017-2018.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết:
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận về đặc điểm phát triển
tâm lý của trẻ 4-5 tuổi qua các tài liệu, sách báo....
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Khảo sát tình hình thực tế trên trẻ, các biện pháp đã tác động trên trẻ, kết
quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để từ đó lựa chọn các biện
pháp phù hợp
- Phương pháp thống kê, thực nghiệm, xử lý số liệu:
Lựa chọn các biện pháp phù hợp và áp dụng vào thực tế. Đánh giá kết
quả đạt được và so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng biện pháp.

2



II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Tuổi mầm non là bậc thang đầu tiên, làm nền móng cho những bậc thang
tiếp theo của cuộc đời. Lứa tuổi này rất quan trọng vì có tốc độ phát triển nhanh
nhất so với tất cả các lứa tuổi khác. J.J.Rutxo (1712-1778) − nhà giáo dục học
người Pháp cho rằng: “Tri thức của trẻ mẫu giáo được hình thành bằng cách
tiếp xúc với đồ vật và qua hoạt động thực tiễn. Chính trong quá trình tiếp cận
với thế giới xung quanh mà tri thức của trẻ được hình thành”. M.Montexxori
(1870-1952)- nhà giáo dục Ý cho rằng: “Việc nhận biết thế giới khách quan (về
đặc điểm, tính chất) là rất quan trọng đối với trẻ trước tuổi đi học. Chính những
quan sát, tiếp xúc với thiên nhiên và xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự
phát triển năng lực, trí tuệ của con trẻ”.[2]
Việc tiếp xúc của trẻ với thế giới bên ngoài được mở rộng hơn. Trẻ bắt
đầu tìm hiểu thế giới xung quanh.
Vũ Thị Nho đã nhận xét: “Vào khoảng 4 tuổi trẻ em đã bắt đầu diễn ra
một bước ngoặt cơ bản về tư duy, đó là việc chuyển từ tư duy trực quan hành
động định hướng bên ngoài thành những hành động định hướng bên trong theo
cơ chế nhập tâm lý tư duy bằng tay trực quan hành động của thời ấu nhi được
chuyển dần sang kiểu tư duy trực quan hình tượng, đặc điểm của kiểu tư duy
này là việc thực hiện các hành động không chỉ bên ngoài mang tính chất cụ thể
mà đã được xét nghiệm trong tóc dựa trên hình ảnh biểu tượng mà trẻ đã lĩnh
hội trước nó”[3]
Thông qua việc dạy trẻ khám phá khoa học là rèn khả năng quan sát, so
sánh, phân loại, khả năng chú ý tư duy, tưởng tượng. Khám phá khoa học nhằm
củng cố hoá kiến thức, góp phần hình thành những biểu tượng đúng đắn về các
sự vật hiện tượng xung quanh, cung cấp cho trẻ những tri thức đơn giản có hệ
thống về thế giới xung quanh. Mở rộng vốn hiểu biết từ về thế giới xung quanh
và qua đó làm giàu vốn từ cho trẻ. Trẻ được tích cực sử dụng các giác quan như:

nghe, nhìn, sờ, nắm, ngửi, nếm… và được tiến hành thao tác trí tuệ: quan sát, so
sánh, phân tích… do đó các giác quan của trẻ cũng phát triển và khả năng cảm
nhận nhanh, nhạy, chính xác, tư duy của trẻ có điều kiện phát triển, giúp trẻ làm
giàu vốn từ, phát âm chính xác và diễn đạt mạch lạc những suy nghĩ của mình.
Từ đó trẻ cảm nhận, rung động trước cái đẹp, cái hay của cuộc sống môi trường
xung quanh và giáo dục trẻ có thái độ đúng đắn với sự vật hiện tượng quanh trẻ.
Vì vậy, giáo viên cần phải lựa chọn một số biện pháp phù hợp để tạo hứng
thú và thu hút trẻ tham gia vào hoạt động khám phá khoa học.
2. Thực trạng của việc cho trẻ 4-5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm
non Sông Âm trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Thuận lợi :
Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn
thường xuyên quan tâm bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên. Tổ chức các
chuyên đề, thảo luận, trao đổi, về việc tổ chức hoạt động cho trẻ khám phá khoa
học.
Được tham dự các giờ dạy mẫu của giáo viên giỏi, có kinh nghiệm tổ
3


chức tốt môn khám phá khoa học.
Lớp học do tôi chủ nhiệm có số trẻ đi học tối đa, số lượng trẻ đủ tuổi được
huy động ra lớp. 100% trẻ là con em dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế
đặc biệt khó khăn. Mặc dù vậy số trẻ đến lớp rất chuyên cần, học tập tốt, ngoan,
nghe lời cô giáo, sạch sẽ có ý thức kỷ luật tốt.
Bản thân tôi luôn tự chịu khó học hỏi kinh nghiệm của các chị em đồng
nghiệp để nâng cao kiến thức cho bản thân mình trong công tác giảng dạy.
2.2. Khó khăn :
Bên cạnh những thuận lợi nói trên thì tôi cũng gặp nhiều khó khăn trong
quá trình hoạt động khám phá khoa học cho trẻ cụ thể như:
Đồ dùng phục vụ tiết dạy còn thiếu thốn như: những vật mẫu, những con

vật thật, đồ vật... Các góc đồ dùng ít, còn nghèo, chưa phong phú về chủng loại.
Giáo viên chưa tạo nhiều cơ hội cho trẻ khám phá, chưa phát huy tính tích
cực của trẻ để sáng tạo tìm tòi khi khám phá khoa học. Môi trường cho trẻ khám
phá còn nghèo nàn.
Giáo viên chưa chú trọng đến việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động khám phá.
Phần lớn phụ huynh chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng của
giáo dục mầm non, phụ huynh chỉ quan tâm xem đến lớp con có chịu ăn hay
không, con có thuộc bài hát, bài thơ, câu chuyện nào không....Chưa hiểu và chưa
quan tâm đến việc cho trẻ khám phá khoa học…..Vì vậy chưa tạo điều kiện để
trẻ phát huy hết khả năng của trẻ.
2.3. Kết quả thực trạng.
Qua kết quả khảo sát ngay từ đầu năm học, thể hiện qua bảng khảo sát số
liệu cụ thể mà tôi khảo sát mới chỉ đạt được như sau:
Kết quả đầu năm
Số
Đạt
Không đạt
Nội dung đánh giá
trẻ
Số
Số
KS
%
%
trẻ
trẻ
Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động khám
30
17 57

13
43
phá
Biết phối hợp các giác quan để xem xét và
30
16 53
14
47
tìm hiểu đặc điểm của các sự vật hiện tượng.
Biết làm thử nghiệm đơn giản với sự giúp đỡ
30
15 50
15
50
của người lớn để quan sát, tìm hiểu đối tượng
Biết phân loại các đối tượng theo một dấu
30
16 53
14
47
hiệu nổi bật.
Nhận xét được một vài mối quan hệ đơn giản
của sự vật hiện tượng và giải quyết các vấn đề 30
15 50
15
50
đơn giản bằng các cách khác nhau.
Thực tế vào đầu năm học qua tổ chức một số hoạt động cho trẻ khám phá
khoa học và thử nghiệm, khả năng quan sát, so sánh, phân loại của trẻ lớp tôi
gặp rất nhiều hạn chế.

4


Còn nhiều trẻ chưa hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá, chưa biết
phối hợp các giác quan để xem xét và tìm hiểu đặc điểm của các sự vật hiện
tượng, chưa biết nhận xét một vài mối quan hệ đơn giản của sự vật hiện tượng
và giải quyết các vấn đề đơn giản bằng các cách khác nhau.
Chính vì vậy mà tôi rất băn khoăn lo lắng và suy nghĩ để tìm ra một số
biện pháp tối ưu nào đó để lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động khám
khoa học.
3. Một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4 – 5 khám phá khoa học ở trường
mầm non Sông Âm.
Từ kết quả khảo sát như trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm nhiều biện
pháp để tổ chức hoạt động “khám phá khoa học” đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó
nâng dần khả năng quan sát, so sánh phân loại cho trẻ, làm phong phú biểu
tượng về khám phá khoa học trong mỗi trẻ.
Dựa vào vốn kiến thức đã học qua các lớp bồi dưỡng chuyên môn qua các
lớp học chuyên đề, qua thảo luận tổ, nhóm và qua nhu cầu ở lớp tôi đã tìm ra
một số biện pháp sau:
3.1. Xây dựng môi trường đa dạng, phong phú cho trẻ khám phá khoa
học:
Hoạt động khám phá khoa học cho trẻ được tổ chức theo chủ đề, nội dung
của hoạt động xuất phát từ nhu cầu và hứng thú của trẻ. Để tạo cơ hội cho trẻ
được trải nghiệm tối đa trong hoạt động khám phá khoa học, giáo viên cần xây
dựng môi trường cho trẻ hoạt động. Một môi trường hiệu quả cho trẻ khám phá
khoa học không chỉ giúp trẻ củng cố kiến thức mà còn phải giúp trẻ phát triển
năng lực khám phá và thái độ đối với hoạt động khám phá khoa học.
Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học đẹp và sáng tạo vừa để thoả
mãn nhu cầu vui chơi, giao tiếp, nhận thức, nhu cầu hoạt động cùng nhau của
trẻ, vừa tạo cơ hội cho trẻ được chơi và hoạt động theo sở thích, tích cực, độc

lập, sáng tạo vận dụng những kỹ năng đó vào các hoạt động khác, các tình
huống trong quá trình hoạt động. Việc xây dựng môi trường học và vui chơi cho
trẻ sẽ là phương tiện, là điều kiện giúp trẻ hình thành các kỹ năng quan sát, phân
tích và những đam mê tìm hiểu khám phá.
* Xây dựng môi trường trong lớp:
Tôi đã thay đổi lại môi trường học tập trong lớp tạo ra môi trường đẹp hấp
dẫn trẻ bằng cách tôi tìm hiểu yêu cầu của các chủ đề, căn cứ vào cấu trúc phòng
học của lớp mình, đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi 4-5 tuổi để tạo môi trường
đẹp xung quanh trẻ.
Để gây ấn tượng cho trẻ tôi sưu tầm thiết kế các hình ảnh ngộ nghĩnh đáng
yêu có màu sắc đẹp, bố cục hợp lý và đặt tên thật ngộ nghĩnh phù hợp với tâm lý
của trẻ, với chủ đề.
Ví dụ: Chủ đề: Thế giới động vật. Mảng chủ đề tôi trang trí ở vị trí chính
để trẻ dễ nhìn thấy, nội dung của các mảng chủ đề thường tổng hợp các hình ảnh
về chủ đề như có động vật nuôi trong gia đình, có động sống trong rừng, các con
vật sống dưới nước…
5


Hình ảnh: Mảng chủ đề chính
Để gây hứng thú cho trẻ trong các góc tùy theo từng chủ đề mà tôi có thể
chuẩn bị các đồ dùng nguyên vật liệu để trang trí các góc phù hợp với nội dung
của góc đó.
Ví dụ: Giấy màu, tranh ảnh cũ, báo, tạp chí, sáp màu, màu nước, đất nặn,
vải vụn, len sợi, lá cây, vỏ hạt dưa… Những nguyên vật liệu này tôi sắp xếp ở
góc tạo hình và luôn để ở các trạng thái mở giúp trẻ dễ lấy, dễ sử dụng khi vào
hoạt động… Hay góc học tập, góc sách tôi bố trí trên giá chủ yếu là sách vẽ về
các con vật, cây cối, hoa, lá, quả và các loại tranh ảnh vừa tầm với trẻ để trẻ dễ
xem, với các đồ dùng dưới các dạng hột hạt, sỏi, vỏ hến … tôi đều đựng vào các
hộp và mỗi hộp đều gắn mác bằng các hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhìn thấy và dễ

lấy khi chơi, các tranh lô tô được phân loại để vào các ô giá vừa dễ lấy vừa dễ
tìm như lô tô con vật vào một ô, lô tô các loại hoa quả vào một ô, đối với tranh
đều có các ký hiệu tương ứng để trẻ dễ nhận biết.
Trẻ mẫu giáo và cụ thể ở đây là trẻ 4-5 tuổi học chủ yếu qua chơi, qua tự
mày mò khám phá. Vì vậy tôi bố trí phòng nhóm sao cho trẻ hoạt động hợp lí và
dành phần lớn thời gian cho trẻ tự học qua chơi, các đồ dùng, đồ chơi đẹp, mới,
hấp dẫn, màu sắc tươi sáng để gần đồ dùng, đồ chơi cũ, màu tối sẽ khuyến khích
trẻ chọn và quan sát, so sánh, tìm ra đặc điểm nổi bật của chúng.
Tùy theo diện tích lớp học và số lượng trẻ, tôi bố trí cho trẻ khám phá
một cách linh hoạt.
Ví dụ: Ở tình huống hoạt động theo nhóm nhỏ, tôi bố trí bàn thấp cho
khoảng 4 – 5 trẻ có thể ngồi xung quanh. Ngược lại, ở tình huống số trẻ tham gia
nhiều hơn, tôi tích hợp với góc hoạt động khác hay sử dụng một nơi có diện tích
6


rộng hơn, tôi lựa chọn bàn phù hợp để trẻ có thể thoải mái hoạt động mà vẫn
tương tác có hiệu quả với các bạn trong nhóm.
Hình ảnh trẻ khám phá các loại quả theo nhóm
Ngoài ra, tôi chuẩn bị các loại sách liên quan đến chủ đề khám phá khoa
học để cung cấp thông tin, kinh nghiệm cho trẻ. Các phương tiện, công cụ cho
hoạt động đo lường, hoạt động thí nghiệm cũng rất cần thiết. Tôi bố trí phương
tiện, vật liệu ở vị trí mà trẻ có thể lấy và sử dụng dễ dàng. Để trẻ có thể thể hiện
kinh nghiệm trong hoạt động khám phá khoa học, giáo viên chuẩn bị các phiếu
ghi chép để trẻ mô tả quá trình quan sát, thí nghiệm bằng tranh vẽ, kí hiệu hay
chữ viết. Sau hoạt động, các phiếu ghi chép của trẻ được giáo viên thu thập lại
và dán ở bảng để trẻ hay phụ huynh có thể nhìn thấy dễ dàng.
* Môi trường ngoài lớp học:
Để tổ chức hoạt động khám phá khoa học ở ngoài lớp, tôi trang trí góc
thiên nhiên để trẻ có cơ hội quan sát sự biến đổi của tự nhiên hay quá trình sinh

trưởng của cây theo mùa và khí hậu, quan sát và so sánh hình dáng của lá cây,
vỏ cây, so sánh và phân loại màu sắc, hình dáng, kích thước của các loại quả.
Ngoài ra, các đồ chơi, dụng cụ ngoài trời giúp trẻ có kiến thức khoa học phong
phú. Tôi tổ chức các hoạt động khám phá khoa học phong phú thông qua việc sử
dụng cát, nước như chơi câu cá, chơi vật nổi, vật chìm, chơi đo mực nước, làm
đồng hồ cát…
Khu thiên nhiên tôi sử dụng hiên sau của lớp và chọn những cây dễ sống,
dễ lau lá để trồng.
Ví dụ: Cây vạn niên thanh, trầu bà, sống đời, phát lộc, lưỡi hổ, thiết mộc
lan) và một số cành cây dễ đâm chồi hay xuất hiện lá mới ở cây nào đó…
Tôi dạy trẻ cách phát hiện khi nào cây cần tưới nước, khi nào không cần
tưới…..

Hình ảnh khu thiên nhiên
Ở góc vườn của trường tôi trồng những cây thuốc nam cho trẻ chăm bón
cây con và quan sát sự thay đổi của chúng hàng ngày hoặc theo mùa.
7


Qua việc xây dựng môi trường sáng tạo trong lớp và ngoài khu thiên
nhiên hấp dẫn, kích thích tính tò mò, tự đặt câu hỏi về những sự vật, hiện tượng
xung quanh của trẻ với bạn, cô và người lớn. Ngoài ra các cháu còn biết tự tìm
hiểu những điều trẻ chưa biết, trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động khám phá.
Từ đó vốn hiểu biết cho trẻ về thế giới xung quanh được mở rộng hơn, phát huy
được khả năng tư duy sáng tạo của trẻ.
3.2. Cô lựa chọn, sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp, sinh động, hấp
dẫn trẻ.
Đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn trong giờ dạy học sẽ giúp cho trẻ
có cảm giác mới lạ, hấp dẫn trẻ, lôi cuốn trẻ, thu hút sự chú ý của trẻ. Từ đó trẻ
sẽ tham gia hoạt động để khám phá kiến thức một cách tích cực và hiệu quả hơn.

Trong giờ học tôi chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan, đó là những đồ
dùng phong phú về chủng loại, có hình thức màu sắc đẹp đảm bảo tính thẩm mỹ
khoa học và phù hợp với trẻ.
Sử dụng đầy đủ đồ dùng trực quan phong phú về chủng loại như tranh
ảnh
Ví dụ: mô hình đồ dùng, đồ chơi, vật thật, màn hình…
Bởi vì, trẻ mầm non luôn thích cái mới lạ. Nếu trong giờ học cô chỉ sử
dụng một loại đồ dùng trực quan, hoặc tranh ảnh, hoặc đồ chơi, hoặc mô hình….
thì sẽ gây cho trẻ sự nhàm chán, chán nản mặt khác mỗi loại đồ dùng đồ chơi
đều có một ưu điểm hạn chế riêng. Tranh ảnh thì đẹp nhưng không sinh động
không thể hiện hết được những đặc điểm sự vật, hiện tượng. Vật thật thì giúp trẻ
nắm bắt được đầy đủ chính xác các kiến thức về đối tượng và sinh động hơn
tranh ảnh nhưng không thể có đầy đủ các vật thật cho tất cả các tiết học và nhiều
vật thật để có thể cho trẻ chơi trò chơi được.
Cho nên tôi đã lựa chọn nhiều loại đồ dùng trực quan để đưa vào trong
tiết dạy và phù hợp với nội dung tiết dạy của mình sao cho vừa có thể thuận tiện
cho việc truyền thụ kiến thức của cô vừa có thể gây được hứng thú cho trẻ giúp
trẻ tập trung chú ý quan sát đối tượng, tích cực hoạt động với đối tượng để nắm
bắt kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng, đầy đủ, chính xác.
Ví dụ: Làm quen với các loại quả. Khi quan sát tôi cho trẻ được quan sát
các loại quả thật(cho trẻ quan sát theo từng nhóm), sau đó cô cho từng nhóm
nhận xét về loại quả đó, khi tổ chức cho trẻ chơi để củng cố thì tôi lại chọn lô tô
để cho trẻ phân nhóm đối tượng hoặc dùng tranh vẽ…
Tôi lựa chọn đồ dùng trực quan phù hợp với nội dung của từng tiết dạy.
Trẻ mẫu giáo nhỡ có sự tưởng tượng phong phú, nhưng kinh nghiệm sống của
trẻ còn ít nên tôi thường xuyên vận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi trẻ được
tiếp xúc với vật thật thì sẽ trẻ thấy hấp dẫn và sinh động hơn vì vậy tiếp cận với
đối tượng cụ thể chính xác, giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng và chính
xác.
Ví dụ: khi đưa ra những loại rau quả thật để dạy cho trẻ từ những vật thật

đó sẽ gây được sự chú ý của trẻ, trẻ được nhìn thấy đối tượng một cách toàn diện
hơn, được ngắm nhìn xung quanh một cách kỹ lưỡng. Mặt khác trẻ còn được
8


khám phá đối tượng bằng cách hành động với đối tượng để khám phá đặc điểm
của đối tượng một cách dễ dàng, chính xác.
Hoặc khi cho trẻ làm quen với một số loại động vật thì tôi chuẩn bị những
con vật quen thuộc dễ tìm như: chó, mèo, gà, vịt, cá, tôm… để trẻ quan sát. Khi
trẻ quan sát những con vật đó trẻ thấy nó sinh động đáng yêu hơn vì đó là đối
tượng con vật động, chứ không phải là tĩnh như tranh. Trẻ có thể nhìn thấy con
vật đó đi lại, nghiêng đầu, kêu, ăn, bơi… cho nên với tính chất động của đối
tượng quan sát sẽ lôi cuốn trẻ thu hút sự tập trung chú ý của trẻ vào việc quan
sát và khám phá đối tượng.
Hình ảnh trẻ đang quan sát cá bơi
Tuy nhiên, trong một tiết dạy cô không nên sử dụng một loại đồ dùng từ
đầu đến cuối mà phải biết phối hợp sử dụng nhiều loại đồ dùng trực quan sao
cho phù hợp linh hoạt theo từng tuần để giúp trẻ không nhàm chán.
Ví dụ: trong tiết dạy cho trẻ làm quen với một số loại rau có thể sử dụng
các đồ dùng trực quan như: tranh lô tô, vật thật, màn hình, đồ chơi… kết hợp với
nhau sao cho linh hoạt và phù hợp nhất
- Phần giới thiệu bài: Cô phải cho trẻ đi tham quan mô hình vườn rau, cô
cung cấp kiến thức cho trẻ làm quen các loại rau
- Phần luyện tập cô cho trẻ chơi các trò chơi: Bỏ cây rau từ tranh lô tô mà
có thể sử dụng màn hình đèn chiếu vào các phần trong tiết học sao cho phù hợp
với nội dung thiết kế cách dạy và sự thiết kế giáo án của cô
Trẻ mẫu giáo nhỡ rất thích cái đẹp cái mới lạ hấp dẫn nên khi sử dụng đồ
dùng trực quan cô phải chú ý lựa chọn những đồ dùng đẹp, màu sắc rõ ràng, rực
rỡ, tươi tắn để gây sự hấp dẫn đối với trẻ. Để khi cô đưa ra những đồ dùng, đồ
chơi đẹp thì những đồ dùng, đồ chơi đó sẽ nổi bật lên trong lớp, khiến trẻ thích

thú ngắm nhìn, quan sát cũng kỹ hơn để có thể dễ dàng khám phá ra những đặc
điểm của đồ dùng đó.
3.3. Tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên được tiếp xúc với các sự vật
hiện tượng xung quanh trẻ giúp trẻ mở rộng hiểu biết kích thích ham học ở
trẻ .
Tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên tiếp xúc với các sự vật hiện tượng
chính là cho trẻ thường xuyên hoạt động với các sự vật hiện tượng xung quanh
một cách trực tiếp như nhìn, sờ, nắn, ngửi ,nếm, nghe, chơi với chúng…Trong
quá trình hoạt động đó trẻ được bộc lộ mình vừa được hình thành và phát triển
tâm lý, trẻ học được cách gọi tên, cách sử dụng, biết được các đặc điểm thuộc
tính, mối quan hệ của các sự vật hiện tượng rộng phát triển mở rộng vốn từ của
trẻ.
Xuất phát từ đặc điểm trên trong quá trình giảng dạy hàng ngày tôi luôn
tạo cho trẻ các cơ hội để trẻ được tiếp xúc với các sự vật hiện tượng một cách tốt
nhất thông qua các hoạt động hàng ngày của trẻ như giờ đón trả trẻ, giờ dạo chơi
thăm quan, hoạt động ngoài trời và các hoạt động khác bằng các hình thức cho
trẻ quan sát vật thật, tranh ảnh, băng hình, hoặc thăm quan trực tiếp. Tổ chức cô
trẻ cùng nhau lao động lau chùi đồ dùng, đồ chơi, chăm sóc góc thiên nhiên trẻ
9


biết tác dụng của đất và nước đối với cây. Qua hoạt động ngoài trời đây là cơ hội
trẻ được tiếp xúc với các sự vật hiện tượng và được trải nghiệm nhiều nhất ở
hoạt động này tôi luôn chuẩn bị tốt các đồ dùng cho trẻ quan sát trực tiếp hoặc
qua tranh ảnh.
Ví dụ: Khi thực hiện về chủ đề thực vật tôi cho trẻ đi thăm quan khu vườn
trường.
Qua quan sát, cô tạo cơ hội cho trẻ được quan sát và tri giác các loại cây,
hoa, rau trong vườn trường qua các buổi học tôi đều đặt ra cho trẻ các nhiệm vụ
và yêu cầu cho trẻ như trẻ phải nêu được tên gọi, đặc điểm, sự giống và khác

nhau của các cây, hoa… Sau khi giao nhiệm vụ tôi thấy các cháu chú ý nhìn
quan sát và sờ, ngửi.. sau đó trả lời các câu hỏi một cách tích cực và hứng thú
học tập giờ học đạt kết quả cao.

Hình ảnh: Cô và trẻ quan sát vườn rau
Trong các buổi chơi cũng là cơ hội giúp trẻ tiếp xúc và quan sát, tri giác
rất nhiều các sự vật.
Ví dụ: Trò chơi học tập như chiếc túi kỳ lạ hoặc trò chơi “Hoa nào quả
ấy” trẻ quan sát và đoán tên
Mặt khác, tôi luôn tận dụng các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể diễn ra hàng
ngày cho trẻ quan sát và nhận biết các hiện tượng thời tiết như “ nắng, mưa, gió,
mây” và cảnh vật xung quanh trẻ, nhận xét các dấu hiệu đặc trưng của các mùa
qua hình thức giải câu đố về các mùa hay các trò chơi “ hãy nói nhanh” hay trò
chơi “ nói đúng thứ tự của các mùa” để củng cố hiểu biết của trẻ về các mùa
hoặc qua các buổi làm thí nghiệm như làm thí nghiệm về nẩy mầm của các hạt
đậu, ngô… hoặc thí nghiệm về vật nổi, vật chìm dưới nước…
Ví dụ : Thí nghiệm về không khí.

10


Hình ảnh: Cô và trẻ làm thí nghiệm về không khí
- Chuẩn bị:
+ Mỗi trẻ một cốc thủy tinh có chứa 3/4 nước và một ống hút.
- Tiến hành : Cô hướng dẫn trẻ cách thổi ống hút vào cốc, chú ý chỉ thổi
chứ không hút nước lên miệng. Cho trẻ quan sát hiện tượng các bong bóng nổi
lên trong cốc.
Cô nêu câu hỏi: “Tại sao khi thổi lại có những bong bóng nổi lên”? Cô
mời trẻ giải thích hiện tượng theo kinh nghiệm của trẻ.
Cô kết luận: do trong phổi của chúng ta có không khí nên khi chúng ta

thổi qua chiếc ống hút, những bong bóng nổi lên như vậy.
Qua thí nghiệm này giúp trẻ hiểu được những vật có tính chất kim loại dễ
chìm, những vật nhẹ, mỏng khó chìm trong nước.
Qua việc tạo các điều kiện cho trẻ tiếp xúc các sự vật hiện tượng và môi
trường xunh quanh trẻ tôi thấy nhận thức của trẻ được mở rộng, khả năng quan
sát, tri giác của trẻ phát triển tốt, đa số trẻ thể hiện được tính tích cực chủ động
khi quan sát đối tượng, trong quá trình quan sát trẻ tỏ ra nhanh nhẹn linh hoạt và
phát triển nhiều vốn kinh nghiệm và vốn từ của trẻ trở nên phong phú hơn khả
năng diễn đạt tốt hơn.
3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám phá khoa
học:
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống
mạng cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách
mạng trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Nếu trước đây giáo
viên mầm non phải rất vất vả để có thể tìm kiếm những hình ảnh, biểu tượng, đồ
dùng phục vụ bài giảng thì hiện nay với ứng dụng công nghệ thông tin giáo viên
có thể sử dụng Internet để chủ động khai thác tài nguyên giáo dục phong phú,
chủ động quay phim, chụp ảnh làm tư liệu cho bài giảng điện tử. Chỉ cần vài cái
"nhấp chuột" là hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh, những bông hoa đủ màu sắc
... hiện ngay ra với hiệu ứng của những âm thanh sống động ngay lập tức thu hút
được sự chú ý và kích thích hứng thú của trẻ vì được chủ động hoạt động nhiều
hơn để khám phá nội dung bài giảng. Đây có thể coi là một phương pháp ưu việt
11


vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện được nguyên lý
giáo dục của Vưgotxki “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” một cách dễ dàng.
Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ tạo ra
sự thay đổi sự mới lạ cho trẻ. Bởi vì tất cả các sự vật hiện tượng trên thực tế đều
có thể quay lại, chụp lại, đưa lên màn hình những hình ảnh có thể tĩnh, có thể là

động, như các cảnh quay và qua những cảnh quay diễn tả lại hoạt động của các
sự vật hiện tượng với màu sắc đẹp của hình ảnh và tính thực tiễn sẽ lôi cuốn trẻ,
giúp trẻ có hứng thú tham gia về việc khám phá kiến thức về đối tượng.
Mặt khác có việc sử dụng màn hình sẽ mở rộng được kiến thức và khắc
sâu kiến thức cho trẻ hơn, việc sử dụng các đồ dùng trực quan phải được tạo
giáo viên tạo sử dụng một cách linh hoạt sáng tạo.
Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiết thức cho trẻ không phải sự
vật hiện tượng nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt
động khám phá khoa học như tìm hiểu động vật sống dưới nước, trong rừng, côn
trùng, quan sát máy bay, các hiện tượng tự nhiên, …. , hay chúng ta không thể
có thời gian để chứng kiến những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu
mưa có từ đâu, quá trình phát triển của cây từ hạt…chính vì vậy để trẻ được tìm
hiểu thế giới xung quanh một cách bao quát nhất thì ứng dụng công nghệ thông
tin vào tiết học là một việc cần thiết.
Được ưu thế là một giáo viên trẻ và có khả năng sử dụng công nghệ thông
tin khá thành thạo tôi rất quan tâm và thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin
như các bài powerpoint, Elearning vào các tiết học. Tôi nhận thấy khi sử dụng
công nghệ thông tin vào các tiết khám phá khoa học trẻ tỏ ra rất hào hứng, thích
thú và cũng giúp trẻ nhận biết sự vật - hiện tượng một cách rõ ràng hơn.
Ví dụ 1: Tìm hiểu về “Mưa có từ đâu?”
Tôi sử dụng bài powerpoint trình chiếu các quá trình tạo thành mưa (ánh
nắng chiếu xuống mặt nước – Nước bốc hơi- Tạo thành mây - Gió thổi mây
thành đám nặng rồi rơi xuống thành mưa)
Sau khi tìm hiểu xong về quá trình tạo thành mưa tôi cho trẻ xem phim
hoạt hình “Đám mây đen xấu xí” vừa là phim vừa đáp ứng việc củng cố kiến
thức về quá trình tạo thành mưa cho trẻ.
Thông qua việc trình chiếu và xem phim hoạt hình trẻ vừa như được giải
trí và cũng là khi lượng kiến thức cần cung cấp cho trẻ đảm bảo trọn vẹn với
hình thức này.
Ví dụ 2: Quan sát một số con vật sống trong rừng

Hình ảnh: Giờ làm quen với các con vật sống trong rừng
Nếu chỉ quan sát tranh thì hoạt động sẽ trở nên đơn điệu, trẻ sẽ nhàm
chán, hiệu quả giờ học sẽ có phần hạn chế. Nhưng nếu cô ứng dụng power point
cho trẻ quan sát các con vật đang chuyển động với những hình ảnh “thật”, đặc
biệt trẻ tập trung chú ý khi được xem hổ đang chạy, con khỉ đang leo cây … thì
trẻ sẽ rất thích thú, tập trung chú ý, giờ học sẽ đạt được kết quả như mong muốn.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động khám phá khoa học sẽ
12


đem đến cho trẻ những màu sắc đẹp mắt, hình ảnh rõ nét, sống động, trẻ sẽ dễ
nhớ, lâu quên... Từ đó trẻ biết tự chăm sóc, bảo vệ bản thân trước những con vật
hung dữ, biết sự thay đổi của thời tiết, biết yêu thương chăm sóc cho cây cối, vật
nuôi…..
3.5. Phối hợp với các bậc phụ huynh giúp trẻ củng cố, khắc sâu kiến
thức.
Xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng và những khả năng nhận thức của trẻ
trong hoạt động khám phá khoa học, chúng ta cần chú trọng tới tất cả các đối
tượng. Đặc biệt là công tác phối kết hợp với gia đình, bởi chính gia đình là nơi
trẻ được tìm hiểu và tiếp cận với môi trường xung quanh một cách tích cực.
Phụ huynh thường không biết trẻ ở trường được học những gì và học như
thế nào để về nhà chia sẻ với trẻ. Lúc này trẻ sẽ là sợi dây liên hệ quan trọng
giữa giáo viên và gia đình. Việc cô giao nhiệm vụ cho trẻ về nhà tìm hiểu trước
vấn đề sẽ khám phá đó tạo cho trẻ hứng thú nhất định và tạo thói quen hàng
ngày chia sẻ với bố mẹ những điều vừa học ở lớp.
Trước và sau mỗi hoạt động khám phá yêu cầu trẻ về nhà tìm hiểu trước
bằng cách hỏi bố mẹ, xem tivi... Lặp lại nhiều lần như cách này sẽ tạo thành một
thói quen tốt và là sự kết hợp tuyệt vời giữa gia đình, nhà trường và bản thân trẻ.
Làm trẻ sẽ luôn háo hức mỗi khi trở về nhà và kể với bố mẹ những điều vừa
khám phá, đặc biệt qua các buổi đón trả trẻ tôi đã trao đổi với các bậc phụ huynh

về tình hình học tập của trẻ ở lớp, về các chủ đề trẻ đang học giúp phụ huynh
nắm rõ từ đó có thể tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm ở nhà, củng cố thêm
kiến thức.
Ví dụ: Trong chủ đề “Thế giới thực vật” tôi cho trẻ làm tìm hiểu về sự nảy
mầm của cây. Trẻ được tham gia trải nghiệm và thực hiện công việc, xong do
thực nghiệm cần thời gian trẻ mới thu được kết quả và có thể một số trẻ nghỉ,
thông qua trao đổi với phụ huynh, phụ huynh nắm được từ đó tạo điều kiện cho
trẻ được thực hiện việc gieo hạt ở nhà, khi được cô thường xuyên hỏi thăm về
sản phẩm thì trẻ tỏ ra rất hứng thú, khi chính trẻ thực hiện và khám phá. Nhận
được kết quả giúp trẻ nhớ hơn, hiểu và kích thích trí ham học hỏi.
Về gia đình, giáo dục trẻ biết tham gia vào những công việc nhỏ vừa sức:
như cho gà, cho cá ăn, chăm sóc rau, cây cảnh...
Từ đó giúp phụ huynh hiểu rõ việc chăm sóc giáo dục trẻ như thế nào cho
phù hợp, đặc biệt là quan tâm đến những vấn đề mở rộng nhận thức cho trẻ về
thế giới xung quanh.
Ngoài ra tôi trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển truyện,
tranh về con vật, cây cỏ… phù hợp với lứa tuổi để trẻ có được vốn kiến thức.
Phụ huynh có thể đem đến các loại cây cảnh, cây rau... để bổ sung cho góc thiên
nhiên của lớp, của trường.
Thông qua hình thức phối hợp tôi đã thu được một số kết quả đáng mừng,
phụ huynh đã thay đổi hẳn nhận thức về việc chăm sóc giáo dục trẻ, cung cấp
cho cô giáo những đồ dùng, đồ chơi sẵn có hoặc tự làm: như con gà, con cá, con
hươu... Chủ động mang đến lớp các loại cây để trồng vào góc thiên nhiên.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
13


Sau khi sử dụng một số biện pháp để tạo hứng thú cho trẻ tham gia vào
hoạt động khám phá, cùng với sự kiên trì lòng say mê, tôi đã thu hút được trẻ
tham gia vào hoạt động khám phá. Từ đó mà kết quả trên trẻ có sự chuyển biến

rõ rệt.
4.1. Đối với trẻ
Kết quả khảo sát cụ thể như sau:
Kết quả đầu năm
Nội dung đánh giá

Trẻ hứng thú tham gia vào
hoạt động khám phá.

Số
trẻ
KS

30

Đạt
Số
trẻ

%

17

57

Kết quả cuối năm
Đạt

Không
đạt

Số
%
trẻ

Số
trẻ

%

13

30

100

43

Không
đạt
Số %
trẻ

Biết phối hợp các giác
quan để xem xét và tìm
30 16 53 14
47 30 100
hiểu đặc điểm của các sự
vật hiện tượng.
Biết làm thử nghiệm đơn
giản với sự giúp đỡ của

30 15 50 15
50 30 100
người lớn để quan sát, tìm
hiểu đối tượng.
Phân loại các đối tượng
30 16 53 14
47 30 100
theo một dấu hiệu nổi bật.
Nhận xét được một vài
mối quan hệ đơn giản của
sự vật hiện tượng và giải 30 15 50 15
50 30 100
quyết các vấn đề đơn giản
bằng các cách khác nhau.
Qua đối chiếu kết quả khảo sát trẻ so với đầu năm học đã có sự chuyển
biến rõ rệt.
- 100% trẻ đã hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá.
- Có khả năng sử dụng các giác quan để xem xét tìm hiểu các đối tượng.
- Biết phối hợp các giác quan để xem xét và tìm hiểu đặc điểm của các sự
vật hiện tượng.
Ngoài ra trẻ cũng đã biết mô tả được những dấu hiệu nổi bật của đối
tượng được quan sát.
4.2. Đối với bản thân
- Đã có kinh nghiệm trong việc tạo môi trường hoạt động trẻ. Sử dụng
thành thạo chương trình giáo án điện tử vào hoạt động giảng dạy.
- Có sự sáng tạo, linh hoạt hơn trong việc tổ chức hoạt động khám phá
khoa học và các hoạt động khác.
4.3. Đối với phụ huynh
14



- Phụ huynh đã nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng của ngành học
mầm non. Quan tâm hơn tới hoạt động của trẻ ở trường. Phối kết hợp với cô
giáo tạo điều kiện để trẻ phát huy hết khả năng sáng tạo, sự tò mò ham hiểu biết
của trẻ về thế giới xung quanh.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Để tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi đạt
kết quả tốt, tôi đã vận dụng và rút ra kết luận: Muốn tổ chức hoạt động khám
phá cô giáo cần có lòng say mê khám phá khoa học, mong muốn tìm hiểu về các
sự vật hiện tượng, lòng ham hiểu biết của cô giáo phải được thể hiện trong mọi
hoạt động để làm gương cho trẻ lôi cuốn trẻ vào các hoạt động khám phá.
Giáo viên cần có những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên, nắm vững
nội dung chương trình và có kỹ năng sử dụng linh hoạt các phương pháp, luôn
có ý thức trong việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức cho trẻ khám phá
khoa học theo hướng tích cực các hoạt động của trẻ và lấy trẻ làm trung tâm. Áp
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động khám phá phù hợp.
Cần sưu tầm các bài đồng dao, ca dao, thơ ca, hò vè, xây dựng môi
trường hoạt động trong và ngoài lớp da dạng, phong phú, phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của trẻ, phù hợp với chủ đề. Cô luôn tạo cho trẻ môi trường học tập
“Học bằng chơi, chơi mà học”. Luôn động viên kịp thời và giúp trẻ tập luyện
thường xuyên cho trẻ được trải nghiệm khám phá và tạo các điều kiện tốt nhất
để trẻ có khả năng tư duy và phát triển tốt.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cô giáo và gia đình trong việc tổ chức
cho trẻ thực hiện các hoạt động trong trường mầm non.
2. Kiến nghị.
- Ban giám hiệu tạo điều kiện cho giáo viên đi thăm quan, dự giờ dạy mẫu
ở các trường trong cụm để học hỏi bạn bè. Cần tổ chức các buổi hội thảo về
chuyên đề khám phá khoa học để giáo viên được trao đổi những vướng mắc
trong chuyên đề.

- Tăng cường đầu tư kinh phí, thời gian cho giáo viên nghiên cứu, sáng tạo
các hoạt động mới hấp dẫn trẻ. Có hiệu quả trong công tác giảng dạy.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi thấy hiệu quả qua đề tài “Một số
biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm
non Sông Âm trong năm học 2017-2018” mà tôi đã rút ra được từ trong quá
trình giảng dạy. Những gì đạt được còn rất khiêm tốn và mới chỉ là nền tảng
cho những năm tiếp theo. Rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của Hội đồng
khoa học trường mầm non Sông Âm, Hội đồng khoa học Phòng GD&ĐT Ngọc
Lặc để bản thân tôi có được những kinh nghiệm quý báu cho bản thân, để công
tác giáo dục trẻ ngày được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

…………….…………………………
………………………………………

Nguyệt Ấn, ngày tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người

15


………………………………………
………………………………………

khác.

Người viết


Nguyễn Thị Hiền
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bài viết: “ Khơi nguồn cảm hứng để trẻ yêu thích khám phá khoa học” –
Báo Giáo dục thời đại - ra ngày 29/08/2014
[2] Giáo trình “ Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh” của
TS. Hoàng Thị Oanh và THS. Nguyễn Thị Xuân. Nhà xuất bản Đại học HuếNăm 2007
[3] Khóa luận tốt nghiệp “ Tìm hiểu đặc điểm tư duy cho trẻ mẫu giáo nhỡ”Giang Thị Thủy; chuyên ngành tâm lý học- Trường ĐHSP Hà Nội 2. Năm 2011

16


17



×