Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn một số biện pháp giúp trẻ hứng thú với hoạt động làm quen tác phẩm văn học lớp mẫu giáo 5 6 tuổi tại trường mầm non nga liên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.43 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM
VĂN HỌC TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA LIÊN

Người thực hiện: Lê Thị Vân
Chức vụ: Giáo Viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga Liên
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA, NĂM 2018


MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

1. MỞ ĐẦU
* Lý do chọn đề tài.
* Mục đích nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu.
2. NÔI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.



1

1
2
2
2
2

2
3

* Thuận lợi.
* Khó khăn.
* Kết quả khảo sát.

3
3
4

3. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

4

Biện pháp 1. Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng sư
phạm về nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua làm
quen với tác phẩm văn học.
Biện pháp 2. Nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông
qua đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, các trò chơi đóng kịch.
2.1. Thông qua các bài thơ.

2.2. Thông qua thể loại truyện kể.
2.3. Thông qua trò chơi đóng kịch.
Biện pháp 3. Tạo môi trường văn học phong phú cho trẻ tham gia vào
hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
3.1. Xây dựng môi trường trong lớp học
3.2. Môi trường ngoài lớp học.
Biện pháp 4. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Biện pháp 5. Sử dụng đồ dùng trực quan sinh động khi cho trẻ làm
quen với văn học để kích thích trẻ phát triển từ.
Biện pháp 6. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hệ thống câu hỏi
đàm thoại.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận.
Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo

4

5
5
7
7
9
10
12
14
15

17

17
17
18


1. MỞ ĐẦU
* Lý do chọn đề tài.
“Làm quen với tác phẩm văn học” là môn học đóng vai trò rất quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Đặc biệt nó có tầm quan
trọng rất lớn đối với việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Bởi nó giúp trẻ
nhận thức được thế giới xung quanh và trực tiếp giúp trẻ giải quyết các vấn đề
trong cuộc sống hằng ngày của trẻ.
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta đã nói
“Non sông Việt Nam có được vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được
sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ vào việc học
tập của các cháu”. Để câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sống mãi với thời
đại của chúng ta thì lớp lớp thế hệ trẻ mầm non phải là mắt xích đầu tiên trong hệ
thống giáo dục quốc dân, cũng giống như trồng cây muốn cho cây phát triển khoẻ
mạnh, xanh tốt thì phải chăm bón ngay từ khi cây mới bắt đầu nảy mầm. Thật vậy
ở tuổi thơ đặc biệt là lứa tuổi mầm non, lứa tuổi đang hình thành những phẩm chất
cá nhân, nếu được gia đình, cô giáo quan tâm chăm sóc, giáo dục tốt từ nhỏ chắc
chắn sẽ tạo luyện những trẻ đó khi trưởng thành sẽ hứa hẹn cho đời biết bao tài
năng sáng tạo, biết bao con ngoan trò giỏi và trở thành những công dân tốt giúp ích
cho đất nước và một trong những lĩnh vực phát triển nhận thức cho trẻ ở trường
mầm non đó chính là lĩnh vực cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học cụ thể là lĩnh
vực. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ, Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển
khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có lôgíc, có trình tự, chính xác
và có hình ảnh nội dung. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu
quan trọng nhất của giáo dục mầm non, ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, học tập
và vui chơi. Ngôn ngữ có vai trò quyết định sự phát triển tâm lý của trẻ em. Bên

cạnh đó ngôn ngữ còn là phươg tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự
phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và chuẩn mực hành vi văn hoá. Đối với trẻ
mầm non nói chung và trẻ 5-6 tuổi nói riêng trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn
từ. Âm điệu hình tượng của các bài hát ru đồng dao dân ca đi vào tâm hồn tuổi thơ,
những câu chuyện cổ tích thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Khi trẻ được tiếp xúc
thường xuyên với ngôn ngữ văn học qua các bài ca dao, đồng dao, các câu chuyện
kể, bài thơ qua giao tiếp hàng ngày ở trường mầm non... đã giúp trẻ cảm nhận được
cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, trong cuộc sống.
Từ đó giúp trẻ thêm yêu quê hương, yêu đất nước. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu,
khám phá và nhận thức về khám phá khoa học, thông qua cử chỉ và lời nói của
người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh,
trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng
với nó. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận
những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Nó ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ của trẻ.
Trẻ lên 5-6 tuổi là thời kì phát cảm ngôn ngữ. Ở thời kì này trẻ luôn tích
cực tham gia vào quá trình giao tiếp, trải nghiệm, khám phá. Trẻ nói nhiều và
thường xuyên tìm đến người lớn để thoả mãn nhu cầu nhận thức bằng giao tiếp,
vì vậy ở giai đoạn này số lượng từ tăng nhanh, và đa dạng đặc biệt là ở trẻ 5-6
1


tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, tính từ, các loại khác
như đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít. Bằng hình thức văn học mở ra cho trẻ cuộc
sống xã hội và thiên nhiên, các quan hệ qua lại của con người, những hình tượng
đó giúp trẻ nhận thức rõ ràng, chính xác của từ ngữ, làm tăng vốn từ, nói rõ
ràng, chính xác.
Như vậy, đối với trẻ độ tuổi này chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở
rộng các loại từ trong các từ, biết sử dụng nhiều loại câu, thông qua làm quen
với văn học. Không những vậy văn học có vai trò tích cực trong việc hình thành

đạo đức cho trẻ, mỗi tác phẩm văn học đều đem đến cho trẻ tâm hồn phong phú
giàu tình thương chân thật, giúp cho trẻ biết được cái xấu, cái tốt, cái đẹp và làm
theo cái đẹp. Chính vì vậy mà văn học là chiếc cầu nối giúp cho trẻ phát triển
ngôn ngữ một cách tốt nhất. Với tất cả những lý do trên đã thôi thúc tôi chọn đề
tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại trường
mầm non Nga Liên” làm đề tài nghiên cứu cho mình với mong muốn góp phần
nâng cao chất lượng cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua làm quen với tác
phẩm văn học.
* Mục đích nghiên cứu.
Nhằm tìm ra những biện pháp phù hợp với trẻ, với yêu cầu nâng cao chất
lượng hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt
động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Mở rộng vốn từ cho trẻ, phát triển ngôn ngữ mạch lạc trong sáng.
Thông qua tác phẩm văn học giáo dục cho trẻ phát triển ngôn ngữ, giao
tiếp, hình thành và phát triển 5 mặt lĩnh vực “ đức – trí – lao – thể - mĩ”.
* Đối tượng nghiên cứu.
- Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi lớp Lá A3 tại Trường mầm non Nga Liên, Nga
Sơn, Thanh Hoá.
* Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tìm hiểu mọi thông
tin có liên quan đến đề tài để nắm chắc kiến thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thực hành trải nghiệm tại nhóm lớp.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp nêu gương.
- Phương pháp dùng lời
- Phương pháp dùng tình cảnh, khích lệ
- Phương pháp trực quan minh họa

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lí luận.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với các giai
đoạn mang những đặc trưng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ.
Trẻ 5-6 tuổi sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc, phát triển vốn từ chịu ảnh
hưởng lớn vào việc tích cực hóa vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trở nên được mở
rộng hơn, có trật tự hơn, khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ hoàn
2


cảnh của trẻ cũng đã phát triển, điều đó một phần cũng nhờ vào hoạt động cho
trẻ làm quen với các tác phẩm văn học.
Văn học là hoạt động rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện
phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để giúp trẻ nói năng lưu loát, diễn đạt
gãy gọn biết sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ
làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh giúp
trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy
nghĩ. Thông qua nội dung các tác phẩm văn học giáo dục trẻ biết yêu quý người
hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè,...Vì vậy việc nâng
cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học là vấn đề quan trọng
trong đổi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm non.
Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc
cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô
giáo. Hoạt động làm quen với văn học này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm
nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở
trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng
nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các
hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò
chơi đóng kịch góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.

Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong giọng
kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ nhận ra ngôn
ngữ đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính.
Qua tác phẩn văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện
của ngôn ngữ văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ
nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt. Khi cho trẻ làm quen với
tác phẩn văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo
đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách”
kỹ năng đọc và kể tác phẩm văn học.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Thuận lợi.
- Nga Liên là một trong những xã có nền kinh tế, văn hoá phát triển khá ổn
định và bền vững nổi bật nhất là nghề sản xuất kinh doanh và nghề tiểu thủ công
nghiệp. Chính vì vậy mà vấn đề an sinh xã hội được nâng cao, các bậc phụ
huynh rất quan tâm đến việc học hành của con em mình.
- Về phía nhà Trường: Trường Mầm non Nga liên là một ngôi trường đạt
chuẩn quốc gia, mức độ I và đã được kiểm định đánh giá ngoài. Trường có một
cơ sở khang trang đầy đủ, phòng học rộng rãi, thoáng mát. Một môi trường,
trong sạch, an toàn cho trẻ hoạt động và vui chơi. Nhà trường có Đội ngũ ban
giám hiệu nhiệt tình, trình độ chuyên môn vững vàng. Thêm vào đó lại được sự
quan tâm, nhiệt tình, sâu sát của Phòng giáo dục và UBND xã đã tạo điều kiện
về cơ sở vật chất, phương tiện thực hiện.
- Về phía giáo viên trường có tổng số Giáo viên là 22 cô giáo trong đó có
20 cô đã có bằng trên chuẩn đó là bằng đại học và bản thân tôi cũng rất là vinh
dự được nằm trong tốp 20 cô đó. còn lại 2 cô có bằng đạt chuẩn. Chính vì vây
3


mà kiến thức của giáo viên được nắm rất chắc, chuyên môn nghiệp vụ rất dầy
dặn và tạo được sự tin tưởng tuyệt đối từ các bậc phụ huynh. Hơn nữa bản thân

tôi tự tìm tòi ứng dụng công nghệ thông tin, tôi đã chủ động trong việc lên kế
hoạch, nội dung, biện pháp sử dụng loại hình hoạt động, thay đổi hình thức dạy
học cho từng câu chuyện bài thơ với HĐ LQVVH.
- Bên cạnh đó có hội phụ huynh luôn sát cánh cùng với nhà trường cho nên
công tác phối kết hợp giữa gia đình trẻ và cô giáo đã đạt hiệu quả cao.
- Năm học 2017-2018 tôi được nhà trường phân công phụ trách đứng lớp
mẫu giáo 5-6 tuổi với tổng số trẻ trong lớp là 37 học sinh, trong đó có 17 cháu
gái và 20 cháu trai, là một giáo viên phụ trách đứng lớp nên tôi nắm vững được
khả năng tiếp thu của từng cháu.
- Về phía học sinh : Các em cũng được quan tâm nhiều hơn, mức sống của
các bé cũng khá đầy đủ, các bé đã được tiếp xúc với các phương tiện truyền
thông hiện đại ngay từ khi còn rất nhỏ và có khoảng 95% các bé đã được đi học
từ lớp nhà trẻ bé(12 – 18 tháng tuổi). Cho nên các bé rất là mạnh dạn tự tin,
năng động và thông minh.
* Khó khăn:
Song nhìn chung mỗi cháu có một đặc điểm riêng mỗi cá tính khác nhau
nhưng đều có một điểm chung đó là trẻ mầm non tiếp thu bài rất nhanh nhưng
lại quên trong chốc lát. Vì thế để thực hiện đề tài này tôi đã gặp không ít khó
khăn cụ thể như sau:
+ Đa số trẻ trong lớp đều là con em nằm trong vùng thiên chúa giáo, nhận
thức và hiểu biết của người dân còn rất hạn chế. Nhiều Gia đình có bố mẹ làm
nông nghiệp, bố mẹ đi làm ăn xa nên điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.
+ Sự phát triển về ngôn ngữ của mỗi trẻ tuy cùng một lứa tuổi nhưng lại ở
mức độ khác nhau, trẻ còn nói ngọng, nói lắp, nói tiếng địa phương nhiều, Trẻ
chưa được học qua các lớp bé, nhỡ nên khi lên lớp lớn trẻ còn nhút nhát trong
mọi hoạt động.
+ Khả năng ngôn ngữ của trẻ về tính lôgic của câu, biết sử dụng từ trong
các loại câu, ngôn ngữ nói chưa rõ rành mạch lạc, chính xác. Từ thực trạng trên
để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, qua khảo sát chất lượng đầu năm tôi thấy kết
quả như sau:

* Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm ( Tháng 9/2017)

37

Đạt
ST
%
26
70

Chưa đạt
ST
%
11
30

37

26

70

11

30

37

25


68

12

32

37

25

68

12

32

37

24

65

13

35

TT

Nội dung


Tổng

1

Trẻ mạnh dạn khi giao tiếp.
Trẻ trả lời được các câu hỏi
đàm thoại.
Trẻ thể hiện được cảm xúc của
mình với cô và các bạn.
Hiểu được một số từ đơn giản
gần gũi với trẻ .
Trẻ diễn đạt được câu, từ rõ
ràng mạch lạc, chính xác
không nói ngọng, nói lắp.

2
3
4
5

4


Với kết quả khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy ngôn ngữ của trẻ 5-6 tuổi
mà lớp tôi phụ trách có kết quả đạt được trên trẻ thấp, trẻ chưa mạnh dạn trong
giao tiếp, tỷ lệ trẻ diễn đạt được mong muốn cũng như cảm xúc và hiểu được
một số từ đơn giản, diễn đạt câu từ còn hạn chế nên tôi đã mạnh dạn đưa ra một
số giải pháp phát triển ngôn ngữ áp dụng vào thực tiễn đối với trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua tác phẩm văn học tại trường mầm non Nga Liên mà tôi chủ
nhiệm.

2.3. Những biện pháp thực hiện.
Biện pháp 1. Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng sư
phạm về nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua làm quen
với tác phẩm văn học.
Mặc dù chuyên đề “Phát triển ngôn ngữ ” cho trẻ đã được triển khai và
tổ chức thực hiện trong nhiều năm qua, bản thân tôi đã nắm được bản chất của
chuyên đề và vận dụng vào hoạt động giảng dạy. Nhưng trong quá trình thực
hiện tôi vẫn còn lúng túng, chưa tích cực sáng tạo vì thế trong năm học 2017 2018 Trường mầm non Nga Liên vẫn tiếp tục chỉ đạo thực hiện chuyên đề này.
Là một giáo viên đứng lớp 5 - 6 tuổi để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen
với tác phẩm văn học ở lớp, tôi đã không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng để nắm
chắc nội dung, phương pháp, sáng tạo trong khi dạy trẻ. Tôi đã sử dụng bằng
một số hình thức như:
Tham gia học tập chuyên đề do Phòng giáo dục, trường mầm non tổ chức.
Tham gia các buổi hội thảo, các buổi dự giờ, thao giảng của các bạn đồng
nghiệp cũng như các trường trọng điểm trong huyện. Qua đó tôi cùng bạn bè
đồng nghiệp được tìm hiểu những kiến thức vô cùng bổ ích như:
+ Làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo là gì?
+ Mục tiêu giáo dục cho trẻ mẫu giáo làm quen tác phẩm văn học là gì?
+ Nội dung làm quen tác phẩm văn học được tiến hành thông qua những
hoạt động nào?
+ Để giúp trẻ hứng thú tham gia hoạt động với tác phẩm văn học bạn sẻ
làm như thế nào?...
Ngoài ra tôi còn tự học tập, tự nghiên cứu qua các tài liệu, các tạp san, qua
mạng Internet về những kiến thức có liên quan như:
+ Phương pháp làm quen tác phẩm văn học cho trẻ mầm non.
+ Phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
+ Phương pháp kể chuyện sáng tạo.
Như vậy: Qua việc được tiếp thu các chuyên đề, dự các buổi hội thảo,
tham gia dự giờ thao giảng các đồng ngiệp, học hỏi trường bạn để kịp thời uốn
nắn bổ sung những hạn chế tồn tại của bản thân.

Kết quả: Từ biện pháp trên tôi nắm vững kiến thức một cách cơ bản trong
việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nói chung và đặc biệt là cho trẻ 5 - 6
tuổi tàm quen với tác phẩm văn học.
Biện pháp 2. Nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông
qua đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, các trò chơi đóng kịch.
Đọc thơ, kể chuyện diễn cảm cho trẻ nghe là một trong những cách tốt nhất
để khuyến khích trẻ ham đọc sách, phát triển ngôn ngữ trí tưởng tượng và cách
5


sáng tạo ở trẻ. Trẻ mẫu giáo luôn thích tìm tòi khám phá về thế giới xung quanh
bằng đôi mắt ngạc nhiên, thích thú qua các tác phẩm văn học để giúp trẻ đến
cảm thụ các tác phẩm văn học đạt hiệu quả và làm thoả mãn nhu cầu ham hiểu
biết. Muốn nội dung của tác phẩm đến với trẻ làm rung động lòng trẻ, gây hứng
thú nghe hiểu cho trẻ thì cô giáo phải là người tìm ra thủ thuật đọc kể diễn cảm.
Trước tiên phải xác định loại tác phẩm văn học thơ hay truyện từ đó tìm hiểu nội
dung truyện thơ, luyện giọng điệu, biến giọng điệu của mình thành giọng điệu
của tác phẩm và kết hợp với cử chỉ, điệu bộ nét mặt.
Vậy làm thế nào để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm
quen văn học một cách tốt nhất? Thực hiện vấn đề này tôi đã tổ chức thực hiện
như sau:
2.1. Thông qua các bài thơ.
Đối với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi khi nhu cầu về cái đẹp đang phát triển vì
vậy việc dạy thơ cho trẻ còn mang một ý nghĩa rất đặc biệt nó có tác động mạnh
mẽ về nhiều mặt đối với trẻ: Ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ...Vì vậy khi dạy thơ
ca cho trẻ tôi đã chú ý đến những nội dung sau:
Trước hết cần phải chọn bài thơ hay phù hợp với chủ đề, với cách cảm
nhận, cách nghĩ của từng độ tuổi, rồi đọc diễn cảm một cách tự nhiên, rõ vần,
nhịp điệu cho trẻ nghe, nhấn mạnh hình tượng trong các bài thơ nhằm giúp trẻ
cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ từng bài thơ.

Chuẩn bị đầy đủ về giáo án, đồ dùng trực quan,... cũng như việc khai thác
những hình ảnh đẹp là vô cùng quan trọng vì qua đó sẽ giúp trẻ hoà mình vào
thiên nhiên, trẻ dễ cảm nhận được cảm xúc như đến với chính mình.
Ví dụ: Khi dạy trẻ bài Thơ :“ Gà nở” Tôi đã khai thác được hình ảnh đẹp
trong bài thơ đó là “một đàn gà”, bắt đầu là một “ổ trứng lặng im” giờ
kêu“Kêu chiếp chiếp” hay “con mẹ đẹp sao, những hòn tơ nhỏ, chạy như lăn
tròn”,…,để làm toát lên trọng tâm của bài thơ tôi đã chuẩn bị một mô hình ngôi
nhà có phong cảnh, đàn gà rất đẹp và ngộ nghĩnh để gây sự chú ý cho trẻ từ mô
hình đó trẻ nhìn vào trẻ đọc rất hứng thú và nhanh thuộc thơ hơn.

(Hình ảnh dạy bài thơ Gà nở)
Với bài thơ: “Trăng ơi từ đâu đến” đây là bài thơ hay, có tác dụng luyện
âm cho trẻ. Nên tôi cần hướng dẫn cho trẻ nhấn vào các câu, các từ mang hình
ảnh so sánh “Trăng hồng như quả chín”, “Trăng bay như quả bóng”, “Trăng
tròn như mắt cá”, trẻ biết đọc chậm rãi, biểu lộ sự băn khoăn, tự hỏi ở các câu:
“Trăng ơi từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi ...”
6


Hay với câu thơ

“Hoa cà tim tím
Hoa mướp vàng vàng
Hoa lựu chói chang
Đỏ như đốm lửa.”
Để trẻ biết được màu sắc của các loài hoa thì tôi cần nhấn mạnh vào các từ:
“Tim tím”, “ vàng vàng”, “chói chang”, “đốm lửa”.
Với các thanh hỏi, ngã, và các âm tr, ch, s, x. Trong bài “Chú giải phóng
quân”

Chú là chú em
Chú đi tuyền tuyến nửa đêm chú về
Ba lô con cóc to bè
Mũ tai bèo bẻ vành xoè trên vai
Cả nhà mừng quá chú ơi
Y như em đã mơ rồi đêm nao
Chú về kể chuyện vui sao
Mỹ thua cũng khóc như nhiều trẻ con.”
Tôi chú ý đến các từ: “Nửa” nhấn mạnh vào thanh hỏi, “Mỹ” nhấn mạnh
vào thanh ngã hay từ “xoè” từ “Sao” để phát âm chữ X, chữ S. Từ “Chuyện”
để trẻ phát âm chữ Ch.
Ngoài những điều kiện trên thì khi đọc mẫu tôi phải đọc diễn cảm, thể hiện
điệu bộ bài thơ, tạo được sự hứng thú của bài thơ.
Ví dụ: Khi đọc đến câu: “Ba lô con cóc to bè” tay đưa lên vai thể hiện
chiếc ba lô, “Mũ tai bèo bẻ vành xoè trên vai” dùng tay đưa nhẹ lên đầu rồi vuốt
xuống.
Đồng thời tôi có thể thay đổi bằng hình thức ngâm thơ.
Qua các bài thơ tôi cần giúp trẻ thấy được cái hay, cái đẹp, cái hay trong
tiếng nói của dân tộc bằng những vần điệu, nhạc điệu... khêu gợi được những
xúc cảm của trẻ đối với những người đã một nắng hai sương làm nên hạt gạo.
Trẻ có thể hình dung ra những cảnh như: “Những trưa tháng sáu/ Nước như ai
nấu/ chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy” Sự cảm nhận ấy sẽ để
lại tâm hồn đứa trẻ một ấn tượng thật sâu đậm.
Thơ có đặc điểm riêng, ngôn ngữ làm thơ giàu hàm xúc âm hưởng, vẻ đẹp
của bài thơ không chỉ do nhạc điệu, nhịp điệu mà còn do vần điệu nối các câu
thơ thành một bài thơ. Vì vậy cần trau dồi kỹ thuật đọc thơ thì mới có thể trình
bày tác phẩm thơ một cách diễn cảm. Một điều không thể thiếu được trong cách
đọc thơ diễn cảm đó là sự kết hợp giữa giọng đọc và cử chỉ điệu bộ, giúp trẻ tiếp
nhận tác phẩm một cách dễ dàng hơn. Để từ đó giúp trẻ phát triển từ ngữ được
tốt hơn.

2.2. Thông qua thể loại truyện kể.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thể loại truyện kể không như cách
đọc chuyện bình thường chỉ dùng giọng điệu của mình thành giọng điệu của tác
phẩm mà phải cần giúp trẻ nghe, cảm nhận như có sự hiện hữu của các nhân vật
trong truyện biến nhân vật trong truyện thành hình ảnh sống động có cá tính.
- Ví dụ 2: Câu chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ” tôi đã xây dựng đoạn phim
hoạt hình về nội dung câu chuyện đó tôi trình chiếu cho trẻ xem, khi bắt đầu mở
7


phim tôi đã cảm nhận được chất lượng của bài dạy đối với trẻ, trẻ ngồi rất ngoan
và im lặng để theo dõi . Từ sự im lặng và chú ý nghe nhìn trẻ rất nhập tâm vào
cốt truyện và nhớ rất kỹ từng tình tiết, từng tính cách của các nhân vật đến đoạn
nào mà trẻ yêu thích và hứng thú là trẻ sẽ thể hiện cảm xúc theo nhân vật đó
VD: Đến đoạn cô bé đi vào rừng vừa đi vừa hát để đuổi bướm, hái hoa thì trẻ
cũng hát theo cô bé ấy .
(Hình ảnh: Về đoạn phim “Cô bé quàng khăn đỏ”)
Ngày nay việc giảng dạy và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
không còn là điều mới mẻ với chúng ta, nhưng ở cấp bậc mầm non thì vấn đề
này chưa được phổ biến rộng rãi. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trên máy vi
tính còn mang lại cho trẻ hứng thú và kích thích trẻ tham gia vào hoạt động hơn
nữa bởi trên máy vi tính các hình ảnh xuất hiện và mất đi hay kèm theo các hiệu
ứng mới lạ hấp dẫn theo ý muốn của giáo viên, trẻ sẽ tập trung sự chú ý trước
những điều mới lạ, tiết học sẽ càng đạt hiệu quả hơn.
- Với câu chuyện “Quả bầu tiên” tôi đã xây dựng đoạn phim hoạt hình về
nội dung câu chuyện, khi tôi mở phim bằng hình ảnh trên máy mà không có lời
kể trẻ sẽ nhìn và kể lần lượt câu chuyện dưới sự gợi ý của cô. Ngoài ra tôi còn
làm đoạn phim về các nhân vật kết hợp với nhạc đệm rất hứng thú, làm cho trẻ
dễ nhớ nội dung truyện, thấy được nét đặc trưng của các nhân vật và nói được
tên của các nhân vật xuất hiện trên màn hình. Ý tưởng này tôi thấy 100% trẻ

hứng thú phát âm và hứng thú kể chuyện hơn.
( Hình ảnh: Truyện quả bầu tiên)
Ví dụ: Kể chuyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” Ngoài những lúc dùng
hình ảnh (tranh truyện) Tôi còn dùng tay của mình làm điệu bộ, ngoài ánh mắt,
gương mặt giao lưu với trẻ tôi dùng tay gõ xuống bàn khi gõ cửa gọi thỏ…
Như vậy đọc kể diễn cảm có thể nói là sự hòa trộn giọng đọc, cử chỉ điệu
bộ, nét mặt, ánh mắt của mình với tác phẩm mà tôi sẽ truyền đạt đến trẻ
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học có một điều tôi thấy rất quan trọng đó là lời nói của cô giáo. Trẻ ở độ tuổi
mầm non chưa biết đọc do đó trẻ cảm thụ các tác phẩm văn học trong lúc nghe
cô giáo đọc, kể các tác phẩm đó. Để trẻ hiểu được nội dung tác phẩm, hình thành
kỹ năng về lời nói của câu, ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc và nhìn thấy được các
hình tượng, các khung cảnh, các tình tiết và biết cách đánh giá đúng đắn tác
phẩm thì cô giáo phải có một nghệ thuật đọc kể diễn cảm. Đọc kể diễn cảm giúp
trẻ trình bày tác phẩm văn học một cách diễn cảm, từ đấy trẻ tự hiểu được tình
tiết truyện, đánh giá đúng nhân vật.
Nếu chỉ đọc và kể diễn cảm chưa đủ mà còn phải biết dùng thủ thuật đọc kể
diễn cảm thì mới đem đến thành công trong giờ học. Khi thể hiện tác phẩm phải
ngắt nghỉ đúng, sử dụng âm thanh đúng, nói đúng ngữ pháp. Tôi luôn tìm tòi
sách báo thường xuyên để nâng cao thủ thuật đọc lên cao nhằm tạo cho trẻ sự
hứng thú, cảm nhận tác phẩm và hiểu tác phẩm sâu sắc và chú ý lắng nghe .
Ví dụ: Khi kể truyện “Cáo, thỏ và gà trống”
8


Tôi phải xác định được giọng của từng nhân vật như: Giọng của cáo thì
buồn sầu khóc mếu. Giọng của Bác gấu thì hiền lành nhân hậu. Giọng của bầy
chó cún thì nhanh nhảu. Giọng của gà trống thì oai phong dũng cảm. Qua đó sẽ
giúp trẻ hiểu được ngôn ngữ kể truyện và khắc sâu lời nói của từng nhân vật và
xác định được sắc thái biểu cảm của nhân vật qua cử chỉ, ánh mắt điệu bộ thể

hiện của giáo viên khi nhập vai vào các nhân vật.
Từ khâu xác định giọng kể, chuẩn bị đồ dùng trực quan, giáo án.. đến hệ
thống câu hỏi đàm thoại đến hình thức tạo hứng thú bằng các cách khác nhau:
Hội thi, trò chuyện, câu đố…với những hình ảnh đẹp, ngộ nghĩnh sáng tạo ứng
dụng vào công nghệ thông tin để trẻ hoà nhập vào, hoá thân vào trong các tác
phẩm truyện kể. Với những hình ảnh sinh động hấp dẫn kèm theo giọng kể rõ
ràng mạch lạc của giáo viên sẽ giúp trẻ chăm chú xem, lắng nghe, trẻ sẽ chủ
động nắm bắt được nội dung câu chuyện. Làm tốt các hình thức này chắc chắn
trẻ sẽ giúp trẻ cảm thụ truyện một cách tích cực hơn, trẻ nhớ nội dung câu
chuyện lâu hơn và khi cho trẻ đóng kịch trẻ sẽ tái tạo tính cách của nhân vật tự
nhiên hơn. Và đặc biệt khi trẻ trả lời các câu hỏi sẽ giúp cho ngôn ngữ của trẻ
phát triển hơn.
2.3. Thông qua trò chơi đóng kịch.
Đóng kịch là hình thức hoạt động chơi đặc biệt và độc lập thực sự của trẻ
nhằm phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể. Qua hoạt động này, trẻ
truyền đạt lại nội dung câu chuyện và làm sống lại tâm trạng, hành động và ngôn
ngữ hội thoại của các nhân vật đồng thời trẻ biết thể hiện tình cảm và đánh giá
các nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch trẻ dễ dàng nắm được nội dung, ý
nghĩa của tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu chuyện, điều này góp phần
đẩy mạnh sự phát triển tư duy và khả năng cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc ở
trẻ.
Trước hết, để có một vở kịch cho trẻ đóng tôi chuyển thể tác phẩm văn học
sang thành kịch. Tôi đã lựa chọn những tác phẩm văn học có nội dung tư tưởng
sáng rõ để chuyển thể thành những kịch bản trò chơi đóng vai ngắn gọn. Nội
dung cốt truyện phát triển mạch lạc, nhân vật giàu màu sắc thẩm mỹ và tính
cách, hành động, ngôn ngữ rõ ràng.
Để giúp trẻ hiểu nội dung câu chuyện, nắm vững cốt truyện theo vai, nhớ
tên nhân vật, tính cách và hình dung ra dáng điệu, nét mặt, hành động của từng
nhân vật thì tôi đã cùng trẻ đọc diễn cảm kịch bản và trò chơi về các nhân vật
trong kịch bản để trẻ đưa ra ý kiến nhận xét của mình. Từ đó giúp trẻ có những

biểu tượng đúng đắn hơn về hình tượng trong tác phẩm văn học hiểu được tính
cách các nhân vật, tư tưởng tác phẩm và xác định được thái độ của mình đối với
các nhân vật. Trong quá trình trao đổi với trẻ về tác phẩm, tôi đã đưa ra các câu
hỏi giúp trẻ hiểu sâu hơn về diễn biến hành động của các nhân vật.
* Lựa chọn, chuyển thể kịch bản.
Các tác phẩm tôi lựa chọn để đóng kịch cần phải, ngắn gọn, xúc tích và
phải có kịch tính, có mâu thuẫn, xung đột giữa các nhân vật không nên có quá
nhiều nhân vật. Đặc biệt các tác phẩm được lựa chọn phải đáp ứng được yêu cầu
giáo dục: Giáo dục tình yêu quê hương, yêu đất nước, tình cảm gia đình, cách
9


đối nhân xử thế, bộc lộ tính cách của từng nhân vật phải rõ ràng phù hợp qua
hành động và ngôn ngữ.
Ví dụ: Những câu chuyện có tính kịch cao đó là Truyện kể: “Chú dê đen”;
“Cáo, thỏ và gà trống”; “Ba chú heo con”; “Quả bầu tiên”...
Đó là những câu chuyện có nội dung giáo dục tốt, có tính kịch cao, ngôn từ
ngắn gọn dễ hiểu, mà tôi đã lựa chọn khi dạy trẻ đóng kịch. Tôi thấy phù hợp và
cho chuyển thể thành kịch bản: Xác định số lượng và tính cách các nhân vật, xác
định tính chất ngôn ngữ của nhân vật.
- Khi chuyển thể thành kịch bản tôi có thể thêm hoặc bớt tình tiết và nhân
vật nhưng vẫn đảm bảo nội dung trọng tâm kịch bản. Một vở kịch có thể có từ 34 nhân vật chính nếu quá ít nhân vật thì vở kịch trở nên tẻ nhạt nhưng nếu quá
nhiều thì sẽ trở nên lộn xộn, không trọng tâm làm phân tán chú ý của trẻ khi
tham gia đóng kịch.
Ví dụ: Trong kịch bản “Cây tre trăm đốt” Ngoài lão địa chủ, cô con gái và
anh nông dân ta có thể xây dựng thêm nhân vật Bà con hàng xóm vì trong vở
kịch các nhân vật độc thoại khá nhiều.
Hay với chuyện “Tấm cám” đây là câu chuyện khá dài có nhiều chi tiết thì
tôi có thể bỏ bớt một vài chi tiết phụ điều đó cũng không ảnh hưởng nhiều đến
nội dung, diễn biến của kịch bản.

Khi xác định tính cách nhân vật. Trong câu chuyện “Quả bầu tiên”
+ Cậu bé: Hiền lành tốt bụng, yêu qúy chăm sóc bảo vệ các loài động vật.
+ Lão địa chủ tham lam độc ác.
- Xác định tính chất ngôn ngữ của nhân vật.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Chú dê đen” truyện kể mở đầu có đoạn: “Có một
chú dê trắng đi vào rừng kiếm lá non để ăn, nước suối mát để uống...” Nhưng
khi chuyển thể sang kịch bản giáo viên có thể chuyển thành “Ôi mùa xuân tươi
đẹp đã về mình phải đi vào rừng kiếm lá non để ăn và nước suối mát để uống
mới được...” Như vậy khi xem người nghe có thể nhận ra đây là lời độc thoại
của nhân vật với khán giả.
* Rèn luyện kỹ năng thể hiện ngôn ngữ và hành động của nhân vật cho
trẻ.
Muốn giúp trẻ nắm được vai diễn của mình tôi đã tạo điều kiện thật tốt cho
trẻ hiểu tác phẩm, hiểu về vai mình đóng, đồng thời cho trẻ luyện tập vai diễn
của mình. Ngôn ngữ của nhân vật phải ngắn gọn, đủ ý, dễ hiểu, chuyển tải đủ
nội dung. Câu đối thoại phải có đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ, rõ ràng mạch lạc, cần
loại bỏ những từ ngữ không phù hợp nhưng vẫn không làm thay đổi ngữ điệu và
tính cách nhân vật.
- Khi hướng dẫn trẻ đóng kịch cần chú ý sửa sai cho những trẻ nói ngọng,
nói lắp, trẻ nói tiếng địa phương…
- Luyện cho trẻ cách thể hiện ngữ điệu, giọng điệu của các nhân vật. Cần
nhấn mạnh vào các từ cần nhấn mạnh trong các câu nói của nhân vật.
Ví dụ: Câu nói của lão địa chủ trong truyện “Quả bầu tiên” trong đoạn thả
chim én lên trời: “...Bay đi én con, mau hãy mang hạt bầu tiên về đây cho ta...”
Thể hiện sự độc ác tham lam của lão địa chủ.
10


Đi liền với ngôn ngữ là cử chị điệu bộ, nét mặt luôn đóng vai trò quan trọng
làm nổi bật tính cách nhân vật tạo nên sự sinh động hấp dẫn của vở kịch.

Ví dụ: Đoạn Dê đen đi tìm Dê trắng: Vẻ mặt lo âu, hốt hoảng, điệu bộ vừa
đi vừa chạy, ngó nghiêng tìm kiếm, giọng nói to, nhanh thể hiện sự lo lắng “Dê
Trắng ơi! bạn ở đâu, các bạn ơi, các bạn có thấy bạn Dê Trắng của tôi đâu
không”
(Hình ảnh: Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi chơi trò chơi đóng kịch “Chú dê đen” )
* Kết quả: Thông qua việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học bằng
những thủ thuật của cô như chuẩn bị đồ dùng sinh động hay giọng nói, giọng
đọc, giọng kể của cô gây hứng thú quấn hút đến với trẻ thì ngôn ngữ của trẻ
cũng phát triển tốt hơn, vốn từ của trẻ tăng lên, trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn,
hứng thú hơn. Thể hiện được sắc thái biểu cảm khi giao tiếp.
Biện pháp 3. Tạo môi trường văn học phong phú cho trẻ tham gia vào
hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
Môi trường giáo dục trong trường mầm non tạo cơ hội cho trẻ tìm tòi
khám phá, phát hiện nhiều điều mới lạ, hấp dẫn trong cuộc sống, trẻ được tự lựa
chọn hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm, trẻ tham gia tích cực, tạo cơ hội
cho trẻ boocxj lộ khả năng, qua đó cung cấp kiến thức kĩ năng cho trẻ. Để giúp
trẻ cảm thụ tốt môn văn học thì việc tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn
học phải thường xuyên vì vậy xây dựng môi trường văn học trong và ngoài lớp
học là điều tôi luôn chú trọng.
3.1. Xây dựng môi trường trong lớp học.
- Môi trường trong lớp học nên phân bố khoảng không gian hợp lí giữa các
khu vực như: hiên chơi phòng đón, trả trẻ, phòng học, phòng ăn, phòng ngủ. Các
góc chơi nên có ranh giới (có thể sử dụng giá, tủ nhỏ - thấp, rèm, bìa…,)có lối đi
lại thuận tiện, với trẻ càng lớn thì lối đi lại càng rộng hơn để giúp trẻ thiết lập
mối quan hệ trong khi chơi.
Ngay đầu năm học, tôi đã vận động phụ huynh và trẻ cùng tham gia làm đồ
dùng, đồ chơi, trang trí lớp nhằm giúp trẻ lĩnh hội, khám phá, tìm tòi và phục vụ
cho quá trình học tập của trẻ. Chẳng hạn tôi vận động phụ huynh cùng may các
con rối, may các trang phục đóng kịch cùng với cô giáo để giúp trẻ có các trang
phục đóng kịch…Hay vận động phụ huynh mang sách, báo cũ, có các câu

chuyện, bài thơ phù hợp đối với trẻ để những lúc trẻ hoạt động ở góc sách, trẻ
mang ra xem hình ảnh để trẻ kể chuyện sáng tạo… Bên cạch đó, trong lớp tôi
luôn tận dụng diện tích phòng học xây dựng góc mở tạo môi trường học tập
thoải mái cho trẻ. Tôi đặt tên cho góc là “Thư viện của bé” Bên trong góc này
Tôi tạo mô hình khu rừng có cỏ cây hoa lá và chuẩn bị sẵn hình ảnh các nhân vật
phù hợp với nội dung từng chủ đề, để ở tủ sách khi cho trẻ hoạt động ở góc này
trẻ thích câu truyện gì thì trẻ sẽ lấy hình ảnh của nhân vật đó và gắn lên rồi tự kể
chuyện sáng tạo theo ý hiểu của trẻ. VD: Truyện Chú dê đen hay Truyện Thỏ và
rùa thông qua kể chuyện đọc thơ cũng phần nào luyện từ và phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
11


Để trẻ có thể lĩnh hội những kiến thức đã học hay thích khám phá những đề
tài mới tôi đã tạo cho trẻ một góc thư giãn nhỏ để trẻ có thể tự do xem tranh,
ảnh, theo các nội dung câu chuyện, nghe những bài thơ, bài hát mà tôi đã ghi
âm…qua đó trẻ cảm thấy hứng thú hơn khi tham gia các hoạt động.

(Hình ảnh: Xây dựng môi trường văn học trong lớp)
3.2. Môi trường ngoài lớp học.
Bên cạnh đó môi trường ngoài lớp cũng được tôi quan tâm như: Tạo môi
trường văn học và chữ viết bằng cách tận dụng những khoảng tường trống để vẽ
các nhân vật có trong các câu chuyện, các bài thơ, ca dao, đồng dao, xây dựng
vườn cổ tích,... giúp trẻ cảm thấy gần gũi với các nhân vật hơn, biết yêu cái tốt,
học tập cái tốt, ghét cái xấu, lên án cái xấu... gợi mở cho trẻ cùng nhau kể
chuyện, đọc thơ.

(Hình ảnh: Truyện: Cô bé quàng khăn đỏ - Nàng Bạch tuyết và 7 chú lùn)
Ngoài ra tôi đã tham mưu với nhà trường để xây dựng “Vườn cổ tích”
của bé với các câu chuyện có trong chương trình như: Truyện tấm cám, Ông

Gióng, sự tích hoa dâm bụt, Sự tích Quả dưa hấu…Để mỗi khi trẻ được thăm
quan vườn cổ tích, trẻ được thư giãn, ngắm nhìn, giải trí mỗi khi hoạt động mệt
mỏi. Bằng những hình ảnh trực quan sinh động, diễn ra trước mắt trẻ, trẻ có thể
nhìn vào đó mà nói được tên truyện và kể cho bạn nghe về nội dung câu truyện.
Từ đó chúng ta cũng phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách nhẹ nhàng khắc sâu
mà không hề gò bó chút nào.

12


(Hình ảnh: Môi trường cho trẻ làm quen với văn học ngoài lớp)
* Kết quả:
- Tôi đã tạo được môi trường phong phú được thể hiện qua góc sách truyện,
vườn cổ tích của bé, các mảng tường quanh lớp.
- 100% trẻ hứng thú với môi trường tôi và trẻ đã xây dựng.
- Ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng được là
nhờ vào việc tạo môi trường hoạt động tích cực.
Biện pháp 4. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Ngoài các giờ hoạt động có chủ định tôi còn dành thời gian phát triển ngôn
ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày với bài sắp học, ôn bài
cũ, kể chuyện theo tranh…
- Trong giờ đón trẻ: Trong giờ đón trẻ tôi mở các loại băng đĩa về các bài
thơ phù hợp với nội dung trong chương trình cho trẻ nghe, hay yêu cầu trẻ đọc,
kể lại tác phẩm mà cô đã cho trẻ làm quen trong chủ đề.
Ví dụ: Trong giờ đón trả trẻ tôi đã cho trẻ nghe và đọc các bài ca dao
mang tính giáo dục cao như: “Công cha như núi thái sơn”, “Bà còng”... Nhằm
phát triển ngôn ngữ cho trẻ khi đọc và giáo dục trẻ lòng biết ơn sâu sắc tới ông
bà, cha mẹ.
Hay vào mỗi buổi sáng đón trẻ, tôi nhắc các cháu chào tạm biệt bố, mẹ
bằng một bài thơ “Lời chào buổi sáng”

Ngoài ra, trong giờ đón trẻ, tôi trao đổi với phụ huynh về các phương pháp
dạy truyện, thơ cho trẻ như khi dạy bài thơ: “Mèo đi câu cá” của chủ đề thế
giới động vật, tôi đánh máy in bài thơ rồi gửi cho phụ huynh, hướng dẫn phụ
huynh dạy đọc thơ như: Phụ huynh đọc mẫu cho trẻ nghe 2- 3 lần, sau khi đọc
xong giảng nội dung cho trẻ nghe, rồi tập cho trẻ đọc theo mình từng câu, từng
đoạn. Đọc xong, có thể hỏi trẻ tên bài thơ, tên tác giả, hỏi theo nội dung bài
thơ…để giúp trẻ nhanh nhớ tác phẩm, nhớ tên tác giả, nhớ nội dung tác phẩm.
- Trong giờ hoạt động góc.
Để tạo hứng thú cho trẻ tôi cho trẻ đọc bài thơ phù hợp với nội dung
chương trình và đàm thoại với trẻ về buổi chơi.
Trong giờ hoạt động góc mở của chủ đề: “Thế giới động vật”. Tôi cho trẻ
chơi với lô tô các con vật sống trong rừng. Yêu cầu trẻ lấy ba lô- tô động vật
thích ăn cà rốt. Trẻ lấy các chú thỏ, từ các chú thỏ, tôi yêu cầu trẻ kể chuyện
sáng tạo về các chú thỏ. Trẻ có thể kể sáng tạo theo ý của mình như: “Ngày xửa
ngày xưa, trong một khu rừng nọ có ba anh em nhà thỏ sống với nhau, cha mẹ
Thỏ mất sớm. Thỏ anh thì rất là ích kỷ, không thương hai chú em…” Sau khi trẻ
kể sáng tạo theo ý của mình xong tôi gợi ý để trẻ nghĩ ra tên truyện phù hợp với
nội dung câu chuyện, trò chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện trẻ vừa kể.
- Hoạt động ngoài trời.
Với hoạt động ngoài trời việc lồng ghép cho trẻ làm quen tác phẩm văn học
càng gây được hứng thú nhiều hơn cho trẻ thông qua hoạt động quan sát và
thông qua trò chơi. Khi cho trẻ quan sát một đối tượng nào đó tôi cho trẻ đọc
một bài thơ và đi đến nơi quan sát.
13


Ví dụ: Trong chủ đề “Thế giới thực vật ” khi cho trẻ quan sát cây bắp cải
tôi cho trẻ đọc bài thơ “Cây bắp cải ” rồi đàm thoại cùng trẻ.
Khi tổ chức chơi trò chơi cho trẻ thì các bài đồng dao trong dân gian là tác
phẩm văn học dễ lôi cuốn trẻ với các câu từ gần gũi dễ hiểu, ngắn gọn và vui

tươi. Vì vậy trò chơi dân gian là trò chơi mà tôi hay tổ chức cho trẻ chơi.
Các trò chơi dân gian mà tôi thường tổ chức đó là: “Nu na nu nống”, “Kéo
cưa lừa xẻ”, “Lộn cầu vồng”, “Rồng rắn lên mây”, “Chi chi chành chành”,
“Dung dăng dung dẻ”, “Mèo đuổi chuột”...
Ví dụ: Tôi cho trẻ chơi các trò chơi dân gian: “rồng rắn lên mây” “Dung
dăng, dung dẻ” khi trẻ chơi trò chơi trẻ sẽ được đọc bài đồng dao kết hợp với
chơi trò chơi qua đó phát triển cho trẻ ngôn ngữ mạch lạc.
- Giờ ăn trưa: Trong giờ ăn trưa để giúp trẻ ăn ngon miệng và cũng là cho
trẻ tiếp xúc thêm với tác phẩm văn học tôi đọc cho trẻ nghe các bài thơ, câu
chuyện ca dao, đồng dao, vui tươi, nhộn nhịp nói về các thực phẩm giàu chất
dinh dưỡng qua đó tôi giáo dục trẻ ngay trong bữa ăn.
Ví dụ: Ở chủ đề: “Thế giới thực vật ” tôi cho trẻ đọc bài ca dao: “Lúa
ngô là cô đậu nành”
Khi giáo dục trẻ phải biết giữ gìn vệ sinh sạch rẽ ăn chín uống sôi tôi đọc
bài thơ “bé ơi”.
- Giờ ngủ trưa: Để giúp trẻ đi vào giấc ngủ nhẹ nhàng hơn và có tinh thần
thoải mái từ các bài thơ, bài ca dao được các nghệ sĩ ngâm và ru có nội dung
phù hợp với lứa tuổi tôi sưu tầm trên mạng trên thông tin đại chúng tôi làm
thành đĩa CD và mở nhỏ cho trẻ nghe khi trẻ bắt đầu đi ngủ.
- Giờ trả trẻ: Kết thúc một hoạt động trong ngày thì giờ trả trẻ là hoạt động
giúp trẻ có được một tâm thế thoải mái trước khi ra về vì vậy các tác phẩm văn
học là yếu tố phù hợp nhất để cung cấp cho trẻ. Ở thời gian này tôi đã sưu tầm
các loại đĩa CD về các câu chuyện cổ tích và mở cho trẻ xem. Tùy vào từng chủ
đề mà tôi lựa chọn nội dung câu chuyện cho phù hợp.
Kết quả: Như vậy từ thực hiện biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi
lúc mọi nơi, trẻ đã hoạt động rất tích cực và nâng cao được chất lượng cho trẻ.
Biện pháp 5. Sử dụng đồ dùng trực quan sinh động khi cho trẻ làm quen
với văn học để kích thích trẻ phát triển từ.
Với trẻ mầm non thì việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động để kích
thích việc phát triển từ cho trẻ, sử dụng đồ dùng trực quan là yếu tố không thể

thiếu trong hoạt động cho trẻ làm quen với văn học, nó xuất phát từ đặc điểm
nhận thức của trẻ, từ tư duy trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng, từ cảm tính
đến lý tính và khả năng chú ý của trẻ thiếu bền vững dễ phân tán, chóng chán,
mệt mỏi. Sử dụng đồ dùng trực quan sẽ khắc sâu tác phẩm một cách dễ dàng. Đồ
dùng trực quan phong phú có thể là tranh ảnh, các con rối, mô hình minh họa có
từ và phù hợp mới gây hứng thú cho trẻ và khơi dậy những rung cảm thẩm mỹ ở
trẻ. Tạo cho trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
- Sử dụng đồ dùng trực quan thông qua nghệ thuật múa rối:
Việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ tạo điều
kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối.
14


Với truyện “Sự tích hoa hồng” tôi sử dụng mô hình sân khấu có rất nhiều
hoa hồng với nhiều màu sắc khác nhau như màu Đỏ, Vàng, Trắng và bộ rối
Nàng tiên, Thần mặt trời, Nữ Thần mặt trăng kể đến đâu cô di chuyển các nhân
vật đến đó trẻ rất hứng thú và đam mê. Nhờ vào việc sử dụng nghệ thuật rối
trong hoạt động học mà số trẻ có khả năng cảm thụ tác phẩm văn học đạt hiệu
quả cao, đa số trẻ nhớ được nội dung câu truyện, lời thoại của các nhân vật trong
truyện và qua đó trẻ biết nhận xét đánh giá tính cách của nhân vật trong truyện
như ai là người xấu? Ai là người tốt?. Từ đó tạo cho trẻ phát triển ngôn ngữ
mạch lạc và vốn từ được tốt hơn.
(Hình ảnh: dạy truyện sự tích hoa hồng)
* Kết quả: Như vậy thông qua biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan đã
giúp 100% trẻ lớp tôi hứng thú tham gia trong các hoạt động, đặc biệt là thông
qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
Biện pháp 6. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hệ thống câu hỏi
đàm thoại.
Đàm thọai là một quá trình hỏi và đáp, trao đổi giữa cô và trẻ, trong đó cô
giữ vai trò chủ đạo giúp trẻ hiểu sâu và nhớ lại tác phẩm văn học. Câu hỏi đàm

thoại giúp trẻ tìm hiểu kỹ bản chất của sự vật hiện tượng xung quanh. Phát triển
ngôn ngữ, giúp trẻ nghe hiểu nghĩa của từng loại câu hỏi, câu trả lời của người
khác với câu hỏi trong đời thường, do đó tôi cần chuẩn bị các câu hỏi trước trò
chuyện, đàm thoại cùng với trẻ. Câu hỏi được chuẩn bị trước giúp tôi chủ động
hỏi trẻ, đưa ra những câu hỏi chính xác và dễ hiểu đối với trẻ. Trong quá trình
trò chuyện, đàm thoại, chúng ta nên sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau.
6.1. Dạng câu hỏi nhận biết
Giúp trẻ tái tạo nội dung truyện, nhớ lại một cách có hệ thống các việc diễn
ra. Loại câu hỏi này dùng cho những trẻ yếu và trung bình trong lớp.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với câu chuyện “Ba cô gái”, ở chủ đề gia đình,
tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi đàm thoại theo các dạng sau: Các con vừa nghe
cô kể chuyện gì? Trong câu chuyện cô vừa kể, bà mẹ sinh được bao nhiêu cô
con gái? Khi bà mẹ bị ốm, bà nhờ ai mang thư đến cho các con?
Ngoài ra tôi còn dùng dạng câu hỏi nhận biết nâng cao để buộc trẻ phải tư
duy suy nghĩ. Vì sao cô Hai lại bị biến thành nhện, còn cô chị Cả lại bị biến
thành Rùa?
6.2. Dạng câu hỏi vận dụng kinh nghiệm
Trẻ vận dụng khả năng hiểu biết của mình để trả lời nhằm giúp trẻ phát
triển trí tưởng tượng và sự sáng tạo của mình. Loại câu hỏi này tôi thường dùng
cho những trẻ khá hơn trong lớp.
Ví dụ: Chuyện “Ba cô gái” Theo các con, ngoài Sóc ra thì còn cách nào để
bà mẹ báo tin cho các con mình biết? Khi bà mẹ bị ốm thì bà mong muốn điều
gì? Vì sao Sóc lại giận dữ biến chị Cả thành con rùa?
Bên cạnh đó tôi dùng dạng câu hỏi vận dụng kinh nghiệm nâng cao để giúp
trẻ phát triển ngôn ngữ và kích thích tư duy trẻ phát triển.
6.3. Dạng câu hỏi giải thích và phỏng đoán suy luận
15


Đây là dạng câu hỏi đòi hỏi trẻ phải tận dụng nhiều mẫu câu để trả lời.

Dạng câu hỏi này giúp trẻ tăng vốn từ, phát triển trí tưởng tượng phong phú và
kích thích tư duy của trẻ phát triển. Loại câu hỏi này thường dùng cho những
cháu giỏi trong lớp.
Ví dụ: Chuyện “Ba cô gái” Tôi hỏi trẻ: Hành động nào cho con biết cô út
thật lòng thương mẹ? Nếu cô út không về thăm mẹ thì chuyện gì sẽ xảy ra? Theo
con cô út sẽ làm gì khi thấy hai chị mình bị biến thành rùa và nhện?
Ngoài những dạng câu hỏi trên, tôi còn sử dụng loại câu hỏi giải thích và
phỏng đoán suy luận nâng cao. Đây là những câu hỏi khó có tính thu hút trẻ và
đòi hỏi trẻ phải có khả năng phỏng đoán, suy luận cao.
Ví dụ: Trong truyện “Chú Dê đen” tôi đưa ra các câu hỏi như:
- Tại sao Chó Sói lại có thể to tiếng quát nạt Dê Trắng như thế ?
- Thái độ của Dê Đen trước con Sói hung ác ấy có giống Dê Trắng không?
Tại sao?
- Vở kịch này đã gợi lên cho chúng ta điều gì?
Khi trao đổi với trẻ về kịch bản, tôi gợi ý trẻ tưởng tượng ra vẻ ngoài của
các nhân vật và phẩm chất, tính cách nhân vật. Trẻ tưởng tượng ra vẻ ngoài của
các nhân vật, khung cảnh của hành động và nhanh chóng có những ấn tượng như
đã xem kịch, trẻ như nhìn thấy được toàn bộ cảnh trong kịch, như thấy mình
được diễn.
Tôi đưa ra những câu hỏi giúp trẻ suy nghĩ về nội dung tư tưởng của tác
phẩm bằng cách tôi hướng trẻ suy nghĩ vào nhân vật chính, phát hiện ra những
phẩm chất của nhân vật, đưa ra nhận xét về hình tượng nhân vật và xác định thái
độ của mình đối với các nhân vật.
Tôi đặt ra các câu hỏi: Các con thấy Tích Chu là người như thế nào? (trong
truyện “Tích Chu”) Các con có nhận xét gì về người anh và người em? (Trong
truyện “Hai anh em”)…Con thích nhân vật nào nhất trong câu chuyện “Cáo,
Thỏ và Gà Trống?” Vì sao con lại thích nhân vật đó?
Để giúp trẻ hiểu sâu sắc nội dung tư tưởng của tác phẩm, tôi thường đặt câu
hỏi để tạo cơ hội cho trẻ tự bày tỏ thái độ của mình đối với nhân vật. Trẻ tự đặt
mình vào hoàn cảnh của nhân vật để tìm ra cách giải quyết.

Kết quả: Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các hệ thống câu hỏi
đàm thoại sẽ giúp cho tất cả trẻ trong lớp đều tham gia tích cực sôi nổi.
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi thực hiện đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với
tác phẩm văn học tại trường mầm non Nga Liên” đã đạt được kết quả sau.
Qua quá trình thực hiện một số biện pháp trên, cùng với sự cộng tác của
phụ huynh, sự lỗ lực nhiệt tình của cô giáo. đến nay chất lượng lớp tôi đạt kết
quả đáng kể, thể hiện rõ nét.
- Kết quả giáo dục trên trẻ.
Kết quả khảo sát đến tháng 3 năm 2018 như sau:

T
Nội dung
T
1 Trẻ mạnh dạn khi giao tiếp.

Tổng
37

Đạt
ST
37

%
100

Chưa đạt
ST
%

0
0
16


Trẻ trả lời được các câu hỏi
đàm thoại.
Trẻ thể hiện được cảm xúc
3
của mình với cô và các bạn.
Hiểu được một số từ đơn
4
giản gần gũi với trẻ .
Trẻ diễn đạt được câu, từ rõ
5 ràng mạch lạc, chính xác
không nói ngọng, nói lắp.
2

37

37

100

0

0

37


35

94

2

6

37

35

94

2

6

37

36

97

1

3

* Đối với bản thân:
Bản thân đã nắm vững nội dung, phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục

phát triển ngôn ngữ, nhận thức được tầm quan trọng của việc cho trẻ cảm thụ tác
phẩm văn học được thực hiện thường xuyên, liên tục, đạt hiệu quả cao, tôi thấy
mình thêm tự tin và sáng tạo trong hoạt động dạy.
Bản thân được nhà trường đánh giá cao về phương pháp dạy trẻ và được
Ban giám hiệu đánh giá và xếp loại có nhiều giờ dạy giỏi.
Bản thân đã nâng cao được trình độ chuyên môn trong việc xây dựng kế
hoạch và thiết kế hoạt động phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Từ đó bản thân có
nhiều kinh nghiệm trong việc thiết kế môi trường giáo dục cho trẻ hoạt động,
sưu tầm đồ dùng, đồ chơi phù hợp, phong phú cho trẻ.
- Bản thân tôi luôn luôn tích cực học tập, học hỏi để nâng cao trình độ tay
nghề.
- Chịu khó sưu tầm, nghiên cứu để tìm những hình thức tổ chức cũng như
các biện pháp dạy học phù hợp nhất với mỗi tiết dạy.
- Kết hợp với phụ huynh để có biện pháp giáo dục trẻ một cách tốt nhất ở
gia đình và nhà trường.
- Đối với đồng nghiệp:
Với những biện pháp trên đã giúp cho các đồng nghiệp làm tài liệu tham
khảo. Được đồng nghiệp đánh giá cao với những biện pháp đưa ra trong sáng
kiến.
- Đối với nhà trường:
Sáng kiến này đã được hội đồng khoa học nhà trường đánh giá và xếp loại
và đã được triển khai nhân rộng ra toàn trường nhà trường sử dụng và lưu lại
làm tài liệu cho đồng nghiệp tham khảo.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Muốn giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua cho trẻ làm quen với
văn học tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để có biện pháp giáo dục
phù hợp. Vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến trẻ cá
biệt, luôn tạo ra niềm tin, sự hứng thú cho trẻ.

17


- Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các phương pháp dạy học
cụ thể, phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất.
- Trước khi thực hiện một đề tài phải chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan,
thuộc bài soạn cũng như gợi mở kiến thức cho trẻ. Thông qua các hoạt động ở
mọi lúc, mọi nơi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trong quá trình thực hiện tôi đã đúc rút lên một số kinh nghiệm sau: Để
phát triển ngôn ngữ tốt cho trẻ thì nhiệm vụ của người giáo viên là: Tạo môi
trường giao lưu ngôn ngữ tự do, thoải mái. Tạo cơ hội cho trẻ nghe âm thanh
khác nhau từ môi trường xung quanh. Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ, khích lệ
động viên, thu hút trẻ trò chuyện với giáo viên, với các bạn và với những người
khác. Hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học phù hợp với khả năng của
trẻ. Tổ chức cho trẻ hoạt động kết hợp với lời nói trong các trò chơi, bài hát,
đóng kịch. Tôn trọng khuyến khích sự sáng tạo của trẻ khi sử dụng câu, từ.
- Quan sát, đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của từng trẻ để lên kế hoạch
phù hợp với khả năng của trẻ trong lớp. Phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về
ngôn ngữ, từ đó có biện pháp thích hợp để giúp đỡ trẻ. Thống nhất phương pháp
dạy giữa giáo viên trong lớp. Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc chăm
sóc giáo dục trẻ.
2. Kiến nghị.
- Nhà trường cần tham mưa tốt với địa phương và phụ huynh để bổ sung
thêm về cơ sở vật chất, trang thết bị phục vụ việc dạy và học cho các lớp.
- Duy trì tổ chức các hoạt động thao giảng, các hội thi giáo viên giỏi bộ
môn, làm thêm đồ dùng đồ chơi bé khéo tay ở các lớp.
- Tạo điều kiện cho giáo viên được đi tham quan các trường điển hình để
học hỏi kinh nghiệm
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc nâng cao chất lượng phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Nga Liên mà lớp tôi phụ

trách. Trong quá trình thực hiện đề tài này chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học, các
cấp và bạn bè đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn, nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ mầm non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Liên, ngày 10 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
do chính tôi viết, không sao chép
của người khác.

Lê Thị Hương

Lê Thị Vân

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm theo thông tư số
28/2016/ BGD&ĐT ngày 30 tháng 12 năm 2016.)
2. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ em 5 – 6
tuổi.
3. Bồi dưỡng thường xuyên dành cho giáo viên mầm non.
4. Trò chơi, câu đố, thơ ca truyện kể theo chủ đề cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
5. Hướng dẫn tổ chức hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ.
6. Môt số biện pháp hướng dẫn tổ chức hoạt động cho trẻ 5 – 6 tuổi làm

quen với tác phẩm văn học.
7. Đặc điểm tâm lý học đại cương.
8. Một số tạp san, tạp chí giáo dục mầm non. Mạng Internets
9. Tài liệu bồi dưỡng hè 2009 và các văn bản quản lý giáo dục mầm non.

19


20


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Lê Thị Vân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Nga Liên.

TT

1
2
3
4

Tên đề tài SKKN

Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả môn văn học.

Một số biện pháp cho trẻ 5 - 6
tuổi làm quen với tác phẩm văn
học.
Một số biện pháp giúp trẻ 5 – 6
tuổi làm quen với hoạt động
khám phá khoa học.
Một số biện pháp giúp trẻ 5 – 6
tuổi hứng thú với hoạt động
làm quen với toán.

Cấp đánh giá
xếp loại
( Ngành GD
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh..)
Ngành
GD&ĐT

Kết quả
đánh giá
xếp loại
( A, B hoặc
C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

B


2008 - 2009

Ngành
GD&ĐT

B

2010 - 2011

Ngành
GD&ĐT

B

2011 - 2012

Sở GD&ĐT

C

2012 - 2013

21



×