Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ 5 6 tuổi trong hoạt động khám phá môi trường xung quanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 19 trang )

MỤC LỤC

Nội dung

Trang

1. Mở đầu

2

1.1. Lý do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

3

1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn



3

2 . Nội dung

3

2.1. Cơ sở lý luận

3

2.2. Thực trạng công tác cho trẻ KPMTXQ qua hoạt động thực tiễn

4

2.2.1. Thuận lợi

5

2.2.2. Khó khăn

6

2.2.3. Kết quả khảo sát ban đầu

6

2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện

7


2.3.1. Sử dụng đồ dùng trực quan phong phú, sinh động, hợp vệ sinh,
thẩm mỹ hấp dẫn trẻ. Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy .

8

2.3.2. Tổ chức các trò chơi, câu đố nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ hoạt
động khám phá khoa học.

8

2.3.3. Đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng những câu hỏi mở để
kích thích tính tích cực, sáng tạo của trẻ.

10

2.3.4.Tôn trọng và lắng nghe mọi ý kiến của trẻ, coi trẻ là trung tâm
của mọi hoạt động.

11

2.3.5. Xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động .

12

2.3.6. Tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm, kích thích
sáng tạo của trẻ .

14


2.3.7. Phối hợp với cha mẹ trẻ cùng thực hiện.

16

2.4. Kết quả thực tiễn áp dụng.

17

2.4.1. Kết quả trên trẻ.

17

2.4.2. Hiệu quả đối với giáo viên.

18

2.4.3. Hiệu quả đối với nhà trường.

18

3. Kết luận, kiến nghị.

18

1


3.1. Kết luận.

18


3.2. Bài học kinh nghiệm.

18

3.3. Kiến nghị

19

1. MỞ ĐẦU:

2


1.1. Lý do chọn đề tài :
Giáo dục mầm non luôn hướng tới giáo dục trẻ phát triển toàn diện. Mỗi
một môn học đem lại cho trẻ mục tiêu phát triển khác nhau. Nếu như môn Thể
dục giúp trẻ phát triển các vận động của cơ thể như bật, nhảy, bò, trườn, trèo…
và một số vận động tinh thì môn Toán giúp trẻ nhận biết hình khối, màu sắc, đo
dài, ngắn, cao, thấp và nhận biết chữ số; môn Văn học giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ và cảm nhận được tính nhân văn trong câu truyện, những lời thơ mang tính
giáo dục cao nhưng vẫn rất mượt mà, êm ái…thì môn học Khám phá môi trường
xung quanh lại giúp trẻ nhận biết tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh một
cách toàn diện. Tuy ở mức độ sơ đẳng nhưng với tuổi mầm non những kiến thức
ấy rất quan trọng, nó thúc đẩy sự tìm tòi khám phá hiểu biết về môi trường xung
quanh ở giai đoạn tiếp theo, đặt nền móng cho trẻ bước vào trường Tiểu học.
Nội dung tìm hiểu khám phá môi trường xung quanh của trẻ mầm non gắn
với các chủ đề rất phong phú và đa dạng. Nội dung bao gồm làm quen với môi
trường xã hội (gồm làm quen với những người gần gũi và cuộc sống xã hội; làm
quen với đồ vật; làm quen với các PTGT ) và làm quen với thiên nhiên (gồm TG

thực vật; TG động vật; một số hiện tượng tự nhiên ). Nếu như trẻ tích cực chủ
động trong hoạt động thì mọi kiến thức cô giáo muốn truyền tải trẻ sẽ dễ dàng
lĩnh hội, mang lại hiệu quả giáo dục cao trái với việc trẻ thụ động tiếp nhận
thông tin kiến thức từ phía giáo viên. Nhưng làm thế nào để phát huy có hiệu
quả tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ trong hoạt động khám phá môi
trường xung quanh (KPMTXQ) luôn là đề tài tôi trăn trở. Và trong suốt thời
gian trực tiếp dạy trẻ tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu và rút kinh nghiệm cho bản
thân để tìm ra những biện pháp hay, những kinh nghiệm hữu ích để áp dụng vào
thực hiện trên trẻ. Đó cũng chính là lý do để tôi lựa chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm “Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động khám phá môi trường xung quanh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu :
Tìm ra một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ
5-6 tuổi trong hoạt động khám phá môi trường xung quanh trên cơ sở phân tích,
đánh giá khách quan nêu nên những ý kiến đề xuất góp phần khắc phục thực
trạng giáo dục trẻ ở trường mầm non hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục,
giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
1.3.Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ 5-6
tuổi trong hoạt động khám phá môi trường xung quanh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.

3


Phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đến tính tích cực, chủ động,
sáng tạo trong các hoạt động và hoạt động phám phá MTXQ của trẻ mầm non.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
-Phương pháp khảo sát thực trạng trên trẻ.

-Phương pháp quan sát
-Phương pháp đàm thoại
-Phương pháp thực hành
2.Nội dung:
2.1. Cơ sở lý luận:
Từ sơ khai của lịch sử loài người, con người đã biết phát huy tính tích cực
chủ động, sáng tạo. Đó là khi con người biết tìm ra lửa để sưởi ấm và làm chín
thức ăn, biết dùng đá để tạo ra những công cụ thô sơ để săn bắn, biết dùng gỗ và
lá cây để làm nhà tránh mưa, tránh nắng…Trong thời đại công nghiệp mới,
Đảng ta luôn phát huy tinh thần tích cực, tính chủ động, sáng tạo trong công việc
của người lao động.
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”
(Điều 28, Luật giáo dục Việt Nam năm 2005)
Vậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của là gì?
Theo nghĩa từ điển: Tích cực là một trạng thái tinh thần có
tác dụng khẳng định và thúc đẩy . Với trẻ mầm non, một bậc học còn
non nhất, thấp nhất, sơ đẳng nhất nhưng cũng chính là nền móng vững chắc tạo
tiền đề cho những bậc học tiếp theo. Tính tích cực của trẻ có thể hiểu đó là trẻ
thích thú chủ động tiếp xúc, hoạt động khám phá tìm hiểu các đối tượng gần gũi
xung quanh. Trẻ chủ động, độc lập, tự tin thực hiện nhiệm vụ được giao hay tự
chọn. Trẻ sử dụng thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại,...
vào giải quyết các nhiệm vụ nhận thức của mình để hoàn thành công việc được
tốt.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm phát triển của trẻ em
như công trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết, Hoàng
Thị Phương…Dựa trên những công trình nghiên cứu đó, người nghiên cứu tổng
hợp được các đặc điểm phát triển chung của trẻ em như sau: Cơ thể, các hệ cơ

quan, hệ vận động của trẻ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện. Vì vậy
trẻ lứa tuổi này rất ưa hoạt động, sẵn sàng tích cực tham gia các hoạt động mà

4


giáo viên tổ chức, đặc biệt là các hoạt động tìm tòi, khám phá thế giới xung
quanh.
Giai đoạn trẻ từ 3-6 tuổi đã chuyển sang một giai đoạn nhận thức mới,
phát triển nhận thức cao hơn, có sự chuyển biến, thay đổi rõ rệt so với giai đoạn
trẻ từ 0-3 tuổi. Đây là giai đoạn trẻ tiếp thu và nhận thức môi trường xung quanh
thông qua đôi bàn tay và các giác quan - công cụ để phát triển trí tuệ ngày một
trở nên hoàn thiện, nhạy bén và tinh tế hơn vì vậy dẫn đến những biến đổi nhất
định trong nhận thức. Trẻ học thông qua cảm giác và chúng muốn sờ, nếm, ngửi,
nghe và thử nghiệm tất cả mọi thứ xung quanh. Trẻ thực sự ham học hỏi và đó là
điều kiện thuận lợi đế trẻ tiếp thu nguồn tri thức của nhân loại và phát triển trí
tuệ của mình.
Môi trường xung quanh lúc này trở nên vô cùng rộng lớn và thú vị để trẻ
khám phá. Mỗi một sự vật, hiện tượng đều khơi gợi tính tò mò của trẻ. Trẻ như
vừa chập chững bước ra khỏi chiếc nôi để đến với cuộc sống đầy mới mẻ. Với
chương trình học bộ môn môi trường xung quanh của trẻ 5-6 tuổi, mười chủ
điểm là mười trang tri thức mà trẻ khám phá. Với chủ đề “Bản thân” trẻ tìm hiểu
khám phá về đặc điểm, giới tính, các bộ phận trên cơ thể, nhu cầu của cơ thể…
hay đi vào chủ đề “Giao thông” trẻ sẽ được phám phá các loại phương tiện GT,
luật lệ GT. Có thể nói việc khám phá MTXQ giúp cho trẻ lĩnh hội tri thức về thế
giới xung quanh; giúp phát triển ngôn ngữ; phát triển tư duy nhận thức, rèn
luyện các kỹ năng và có những ứng xử phù hợp với thiên nhiên và trong cuộc
sống. Như vậy, một điều rất cần thiết là giáo viên cần khơi gợi tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của trẻ trong các hoạt động KPMTXQ.
2.2. Thực trạng việc dạy trẻ 5-6 tuổi khám phá môi trường xung quanh

thông qua hoạt động thực tiễn :
Năm học 2017-2018 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5-6 tuổi A3.
Lớp có sỹ số là 30 trẻ, trong đó có 3 cháu là người dân tộc thiểu số, tất cả đều đã
qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có một số kỹ năng cơ bản. Đa số trẻ ngoan ngoãn,
mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức,
phát triển ngôn ngữ, và tình cảm xã hội, biết cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc
sống xung quanh trẻ.
Năm 2008, Bộ Giáo dục và đào tạo đã phát động phong trào thi đua xây
dựng “Trường học thân thiện - Học sinh tích cực”
Nội dung giáo dục có ban hành bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi thông qua 4
lĩnh vực - 28 chuẩn- 120 chỉ số với yêu cầu giáo viên lồng ghép các chỉ số này
vào mục tiêu từng chủ đề sao cho phù hợp để qua đó dạy trẻ các kiến thức và kỹ
năng cần thiết, chuẩn bị về tâm thế và thể chất cho trẻ 5 tuổi lên lớp một.
Trong quá trình phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ tại
trường mầm non tôi gặp những khó khăn và thuận lợi như sau:
2.2.1. Thuận lợi :

5


Trường tôi là trường chuẩn quốc gia nên luôn được sự hướng dẫn và chỉ
đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục. Không gian trường, lớp rộng rãi,
thuận tiện cho trẻ tham gia trải nghiệm, khám phá.
Trẻ mẫu giáo lớn mạnh dạn, tự tin, thông minh, thích tìm tòi khám phá
các sự vật, hiện tượng xung quanh. Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với
các hoạt động do cô tổ chức, lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt.
Bản thân là một giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đạt chuẩn,
luôn yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công việc, luôn tự học tập, nghiên cứu,
tìm tòi những phương pháp đổi mới trong quá trình giảng dạy, chịu khó học hỏi,
sách báo và ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.

Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của
nhà trường, của nhóm lớp nên thuận tiện trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu sẵn
có ở địa phương giúp cho việc sử dụng đồ dùng dạy học đạt hiệu quả cao.
Tài liệu hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi có các chỉ số,
hướng dẫn cahs đánh giá trẻ rõ ràng và cụ thể nên việc dạy trẻ các kỹ năng và
đánh giá kết quả trên trẻ rất thuận lợi, chính xác, từ đó biết trẻ nào đạt được và
chưa đạt được để tiếp trẻ vào các chủ đề tiếp theo.
2.2.2. Khó khăn:
Số lượng trẻ trong lớp đông nên ảnh hưởng đến các hoạt động ,qua việc
học theo nhóm nề nếp của trẻ còn chưa tốt.
Sự tiếp thu kiến thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ dân tộc thiểu số,
một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động, một số trẻ
khác lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô,
tính tự tin, tự lập, chủ động của trẻ còn nhiều hạn chế.
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100%
phụ huynh là nông thôn. Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với
ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời gian
trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ .
Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư các trang thiết bị, đồ dùng dạy học
tuy nhiên vẫn chưa được đầy đủ, phong phú, đa dạng nhất là những đồ dùng cho
trẻ trải nghiệm, đồ dùng để làm thí nghiệm.
2.2.3. Kết quả khảo sát ban đầu:
Tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ trong các hoạt động đặc biệt là
hoạt động khám phá môi trường xung quanh không đồng đều. Một số trẻ tích
cực, nhanh trí thì có nhiều kỹ năng cơ bản tốt, với sự hướng dẫn, động viên của
cô giáo trẻ luôn biết phát huy những kỹ năng tốt đó. Ngược lại, một số trẻ nhận
thức còn chậm lại tự ti, nhút nhát nên sự lĩnh hội kiến thức còn chậm .
Qua khảo sát đầu năm ở lớp 5-6 tuổi A3 năm học 2016-2017 tôi thu được
kết quả sau:
6



Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm học 2017 – 2018 (đơn vị: %)

Nội dung
Trẻ hứng thú, tích cực
tham gia khám phá
Trẻ nắm được kiến thức,
kĩ năng.

Số trẻ,
tỉ lệ %
17 trẻ
56,7%
20 trẻ
66,7%

Nội dung
Trẻ không hứng thú, thụ
động tham gia hoạt động
Trẻ chưa nắm được kiến
thức, kĩ năng.

Số trẻ,
tỉ lệ %
13 trẻ
43,3%
10 trẻ
33,3%


2.3. Các biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ 5-6
tuổi trong hoạt động khám phá môi trường xung quanh :
2.3.1. Sử dụng đồ dùng trực quan phong phú, sinh động, hợp vệ sinh, thẩm
mỹ hấp dẫn trẻ. Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy:
Như chúng ta đã biết, tư duy trẻ mầm non là tư duy trực quan hình tượng.
Khi dạy trẻ chúng ta không chỉ dạy bằng phương pháp giảng giải, giải thích, suy
ngẫm, nhận xét và rút ra kết luận mà trẻ cần phải được quan sát, cầm nắm, trải
nghiệm từ những tình huống cụ thể. Vì thế sử dụng đồ dùng trực quan là rất
quan trọng đối với các tiết học của trẻ mầm non nói chung và với hoạt động
KPMTXQ nói riêng. Để kích thích tính tích cực của trẻ thì trẻ cần hứng thú.
Nắm bắt được yêu cầu này, khi áp dụng dạy trẻ tôi thường nghiên cứu đồ dùng,
phương tiện dạy học để cho kết quả học tập tối ưu nhất.
Ví dụ: Ở tiết dạy tìm hiểu một số con vật nuôi trong gia đình tôi đã chuẩn
bị con chó con, con mèo, con gà cho trẻ được quan sát. Hay với tiết dạy tìm hiểu
một số động vật sống dưới nước tôi đã chuẩn bị một số con vật như con cá, con
tôm, con cua, con ốc… và thả trong bể cho trẻ quan sát. Ngoài ra tôi còn chuẩn
bị một số thức ăn của các con vật để trẻ trực tiếp cho ăn. Điều đó đã giúp trẻ
thêm gần gũi, yêu quý các con vật và khắc sâu kiến thức về đặc điểm, tập tính,
thức ăn của các con vật, trẻ sẽ có ý thức chăm sóc và bảo vệ các con vật.
Với tiết dạy phám phá về Nước tôi đã cho trẻ được quan sát nước ở các
trạng thái khác nhau như ở trạng thái rắn (nước đá) và ở trạng thái lỏng, tôi cho
trẻ được uống nước để nói lên đặc điểm của nước và cho trẻ được quan sát chậu
cây được tưới nước thường xuyên và chậu cây lâu ngày chưa tưới nước để trẻ
rút ra nhận xét về tác dụng của nước với đời sống con người, với cây xanh và
môi trường sống.
Ở góc thiên nhiên là góc dành riêng cho trẻ để khám phá xung quanh. Ở
góc này tôi trồng rất nhiều cây xanh. Tôi bố trí sẵn bình nước tưới, chăm sóc cây
để khi trẻ tham gia ở hoạt động góc để trẻ vừa chăm sóc cây và khám phá các
loại cây. Trong quá trình chăm sóc ở góc thiên nhiên, trẻ được hình thành kỹ


7


năng, kỹ xảo lao động, được bồi dưỡng phẩm chất yêu lao động, yêu thiên
nhiên, có ý thức trách nhiệm trong công việc được giao.

Cô và trẻ hoạt động ở góc thiên nhiên
Bên cạnh đó các tiết hoạt động khám phá MTXQ được tôi đầu tư thiết kế
bài giảng bằng Power Point. Tôi sưu tầm tranh ảnh của đối tượng tìm hiểu giống
nhất, đẹp nhất để cho trẻ quan sát và những đối tượng để mở rộng kiến thức cho
trẻ rất phong phú. Ví dụ ở bài tìm hiểu một số con vật sống trong rừng tôi sưu
tầm tranh con Hổ, con Khỉ, con Voi, con Gấu cho trẻ quan sát và tìm hiểu. Ngoài
ra tôi còn sưu tầm nhiều tranh về các con vật khác để mở rộng cho trẻ hiểu trong
rừng còn có nhiều loài động vật khác nữa. Thức ăn, thói quen, tập tính của
chúng cũng được tôi giới thiệu bằng những hình ảnh rõ nét trên màn hình nên trẻ
rất hứng thú.
2.3.2. Tổ chức các trò chơi, câu đố nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ hoạt động
khám phá khoa học về MTXQ.
Đối với trẻ mầm non thì việc “Chơi mà học- học mà chơi” sẽ giúp trẻ tiếp
thu những kiến thức một cách dễ dàng và sâu sắc nhất. Sau thời gian trò chuyện,
đàm thoại với cô trẻ được hoạt động, được tham gia vào các trò chơi hứng thú.
Qua đó, trẻ không chỉ ngồi nghe cô nói và trả lời các câu hỏi của cô mà trẻ còn
có cơ hội để bộc lộ những hiểu biết của mình thông qua các trò chơi. Ngoài ra
trò chơi còn có tác dụng củng cố, bổ sung và phát triển thêm các tri thức mà trẻ
vừa lĩnh hội, tái tạo lại biểu tượng đã học thông qua những hoạt động thực tiễn.
Do đó trò chơi củng cố trong giờ hoạt động khám phá là rất quan trọng. Trò chơi
càng phong phú đa dạng bao nhiêu thì các tri thức trẻ lĩnh hội càng sâu sắc và trẻ
càng nhớ lâu bấy nhiêu.
Với mỗi hoạt động khám phá MTXQ tôi đều lựa chọn áp dụng trò chơi
sao cho phù hợp nhất, vừa củng cố kiến thức cho trẻ lại vừa phát triển ngôn ngữ,


8


phát triển vận động, tính mạnh dạn tự nhiên, nhanh nhẹn hoạt bát, chủ động
trong học tập cho trẻ.
Ví dụ trong các tiết Một số loại quả; Một số đồ dùng trong gia đình tôi
cho trẻ chơi trò “Kể đủ ba thứ”
Với chủ đề Nghề nghiệp tôi cho trẻ chơi trò chơi “Bán hàng”, “Nhà tạo
mẫu”
Trong chủ đề Giao thông, nhánh 2: Một số luật lệ giao thông đường bộ ,
sau khi trò chuyện với trẻ tôi cho trẻ chơi trò chơi “Tín hiệu giao thông”
* Mục đích:
- Trẻ biết đi bộ phải đi trên vỉa hè.
- Trẻ biết người tham gia giao thông phải tuân theo tín hiệu đèn giao thông.
* Chuẩn bị :
- Sa bàn về ngã tư đường phố có xe cộ qua lại theo điều khiển của đèn hiệu giao
thông hoặc cảnh sát giao thông.
- Đồ chơi đèn hiệu giao thông hoặc bục công an chỉ đường và áo, mũ, còi cho
trẻ đóng làm công an.
* Luật chơi :
Chỉ được qua đường khi có tín hiệu đèn xanh hoặc cảnh sát giao thông
cho phép, đi bộ trên phần đường dành cho người đi bộ.
* Cách chơi:
- Cô điều khiển đồ chơi đèn hiệu giao thông.
- Một trẻ làm công an cầm gậy chỉ đường đứng trên bục ngã tư điều khiển giao
thông.
- Một số trẻ làm người đi bộ , trẻ khác làm người lái ô tô, xe đạp…đi lại trên
đường theo sự điều khiển của đèn hiệu hoặc của chú cảnh sát giao thông.
Bên cạnh những trò chơi, câu đố cũng được tôi lựa chọn như một thủ pháp

để gây hứng thú, củng cố bài và phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của
trẻ.
Ví dụ chủ đề Giao thông tôi đố trẻ:
Ngã tư quy định ba đèn
Xe đến dừng lại hỏi là đèn chi ?
( Đèn đỏ )
Xe con đang chạy như phi
Tín hiệu báo chậm đèn gì hỏi con ?

9


( Đèn vàng )
Đèn đỏ xe dừng lại rồi
Đèn gì xe chạy con thời đoán xem ?
( Đèn xanh )
Hay ở hoạt động tìm hiểu một số con vật nuôi trong gia đình tôi đố trẻ :
Con gì ăn no

Con gì có cánh

Bụng to mắt híp

Mà lại biết bơi

Mồm kêu ụt ịt

Ngày xuống ao chơi

Nằm thở phì phò.


Đêm về đẻ trứng.

( Con lợn )

( Con vịt )

Với những câu đố nhanh như vậy trẻ tỏ ra vô cùng thích thú và thích được
phát biểu xây dựng bài. Bởi thế giờ học không bị nhàm chán, trẻ rất hứng thú và
tích cực hoạt động.
2.3.3. Đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng những câu hỏi mở để tích
thích tính tích cực, sáng tạo của trẻ:
Đổi mới phương pháp dạy học là việc làm cần thiết của giáo dục nước ta
hiện nay. Những phương pháp cũ đã trở nên lạc hậu, giờ đây người học được
xem như là chủ thể của mọi hoạt động. Mỗi tiết tìm hiểu, tôi đều nghiên cứu
hình thức dạy thế nào cho trẻ hứng thú nhất, hiểu bài nhất.
Ví dụ: Thay vì trẻ ngồi theo hình chữ U, tôi lại cho trẻ ngồi theo nhóm để
thuận tiện cho việc thảo luận. Ở bài tìm hiểu một số loại hoa tôi cho trẻ về 4
nhóm thi cắm hoa. Sau đó cho trẻ quan sát các loại hoa trong lẵng hoa của nhóm
mình và nêu đặc điểm về loại hoa mà trẻ thích.
Tôi sử dụng một số câu hỏi
như:
- Ai có nhận xét gì về các loại hoa?
- Con biết gì về hoa cúc?
- Khi ngửi hoa con thấy thế nào?
- So sánh hoa hồng và hoa cúc con thấy thế nào?
- Ai có thể bổ xung ý kiến cho bạn?
Hay ở hoạt động trò chuyện về nghề truyền thống của địa phương tôi cho
trẻ tự kể về những nghề truyền thống ở địa phương mà trẻ biết, sau đó tôi cho trẻ
quan sát sản phẩm thật như bàn ghế, nem chua, bánh gai. Trẻ sẽ tự nói nên

nguyên liệu, cách làm…các sản phẩm (cô khái quát bổ xung kiến thức ) và tôi
cho trẻ về từng nhóm tự làm sản phẩm (gói nem chua).
2.3.4.Tôn trọng và lắng nghe mọi ý kiến của trẻ, coi trẻ là trung tâm của
mọi hoạt động:
10


Thực hiện chương trình đổi mới dạy học lấy trẻ làm trung tâm, để phát
huy tính tích cực hứng thú của trẻ tôi luôn tôn trọng và lắng nghe mọi ý kiến của
trẻ. Với phương pháp cũ, giáo viên là người chủ đạo, trẻ làm theo cô giáo nhưng
theo phương pháp đổi mới dạy học lấy trẻ làm trung tâm thì trẻ là trung tâm của
mọi hoạt động. Từ đó, mọi ý kiến của trẻ đều được tôi ghi nhận, tôi khuyến
khích trẻ được bày tỏ quan điểm của mình theo cách hiểu của trẻ. Câu trả lời dù
đúng, dù chưa đúng tôi vẫn đón nhận và hoan nghênh các con đã tích cực tham
gia thảo luận và phát biểu ý kiến. Cuối cùng, tôi sẽ khái quát lại vấn đề theo kiến
thức chuẩn giáo dục mầm non.
Ở hoạt động tìm hiểu một số luật lệ giao thông tôi cho trẻ được bày tỏ ý
kiến của mình về các luật lệ giao thông mà trẻ biết. Trẻ có thể kể :
- Khi đi trên đường phải đội mũ bảo hiểm.
- Ngồi trên xe phải ngồi ngay ngắn.
- Đi đường về phía bên tay phải.
- Khi có đèn đỏ thì dừng lại, đèn xanh mới được đi.
Cô bổ xung cho trẻ: Trẻ em khi ra đường phải có người lớn đi cùng.
2.3.5. Xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động:
Sau khi tham dự hội thi xây dựng môi trường dạy học lấy trẻ làm trung
tâm do phòng giáo dục Thọ Xuân tổ chức, trường tôi đã tích cực học hỏi và đã
xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học phù hợp với yêu cầu giáo dục hiện
nay.
*Môi trường ngoài lớp học: Môi trường ngoài lớp học là yếu tố góp phần
tích cực trong các hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn diện

trẻ. Trường tôi đã thiết kế có vườn cổ tích, khu vui chơi vận động, có vườn rau
của trẻ, vườn hoa cây cảnh phù hợp với khuôn viên của trường. Tận dụng những
lợi thế đó, tôi đã phát huy tối đa yếu tố môi trường bên ngoài khi cho trẻ phám
phá khoa học về MTXQ .
Ở hoạt động tìm hiểu về trường mầm non của bé tôi đã cho trẻ được tham
quan khuôn viên của trường, thăm các phòng, nhà bếp, phòng y tế , các lớp học.
Ngoài ra, tôi còn cho trẻ được gặp gỡ, trò chuyện với các cô các bác làm việc
trong trường. Không gì ghi nhớ khắc sâu hơn bằng thực tế quan sát và tìm hiểu
về nơi hàng ngày trẻ vẫn đến để học, được các cô chăm sóc cho ăn, cho ngủ.
Ở hoạt động tìm hiểu về một số loại rau, một số loại cây, một số loại hoa
tôi đã cho trẻ được trực tiếp quan sát các loại cây được trồng trong vườn
trường .Sau hoạt động tôi còn cho trẻ được chăm sóc tưới cây, nhổ cỏ, bắt sâu
cho cây để góp phần giáo dục và dạy trẻ kỹ năng sống.
*Môi trường trong lớp: Trong lớp học không thể thiếu những góc chơi
của trẻ, do đó để lớp học thêm lôi cuốn trẻ tôi đã tạo nên một môi trường lớp
học với những màu sắc sinh động, những nhân vật ngộ nghĩnh… Môi trường có
11


không gian, cách sắp xếp phù hợp, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hàng
ngày của trẻ; phản ánh kinh nghiệm, văn hóa của địa phương; luôn thay đổi để
tạo ra sự hấp dẫn mới lạ đối với trẻ.
Ở độ tuổi lớp tôi chủ nhiệm là lớp mẫu giáo 5-6 tuổi nên đồ dùng học liệu ở
các góc tôi chú trọng những đồ dùng học liệu mang tính mở để kích thích trẻ tư
duy hoạt động. Khuyến khích tối đa tính sáng tạo của trẻ trong hoạt động
KPMTXQ như ở góc học tập, góc nghệ thuật.
Ví dụ trong hoạt động tìm hiểu các danh lam, thắng cảnh, khu di tích lịch sử
ở địa phương tôi đã nghiên cứu và làm bản đồ Thanh Hóa từ những miếng vải
vụn. Tôi và trẻ đã cùng cắt mô hình khu di tích Lam Kinh, đền thờ Lê Hoàn,
Suối Cá …bằng xốp dạ và dán dấp dính phía sau để cho trẻ thực hiện dán vào

bản đồ có sẵn.
Ở góc Kỹ năng sống tôi chủ đề Bản thân tôi đã chuẩn bị các loại quần áo,
mũ, lược, khẩu trang, bàn chải, giày dép trẻ em cho trẻ thực hành kỹ năng tự
phục vụ bản thân như tự mặc, cởi, gấp quần áo, tự đánh răng, chải đầu buộc tóc,
biết cách buộc dây giày…tôi còn vẽ, cắt những khuôn mặt có biểu tượng cảm
xúc khác nhau như vui, buồn, giận dữ…để cho trẻ dán vào bảng tùy theo tâm
trạng của mình.
Hay ở chủ đề Giao thông tôi đã tạo nền cho bức tranh, sau đó cô và trẻ cùng
cắt dán các loại PTGT bằng xốp có dán dấp dính phía sau, sau đó trẻ sẽ thực
hiện dán hình PTGT vào đúng đường dành cho từng loại phương tiện.

Phụ lục 2: Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học tại lớp A3
Một môi trường sạch sẽ, an toàn, có sự bố trí khu vực chơi và học trong
lớp và ngoài trời phù hợp, thuận tiện có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với sự phát
triển thể chất của trẻ, mà còn thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết của
trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo. Môi trường giao tiếp cởi mở, thân
thiện giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ

12


tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ
với cô, với bạn bè nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn.
2.3.6. Tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm, kích thích sáng tạo
của trẻ :
Chúng ta vẫn thường nghe câu “Học đi đôi với hành” .Quả đúng như vậy,
“học” về lý thuyết để trang bị kiến thức cho người học. Còn “hành” là việc vận
dụng lý thuyết để thực hành, trải nghiệm. Qua thực hành, trải nghiệm sẽ phát
triển tư duy cho người học.
Với trẻ tuổi mầm non, trẻ rất hiếu động và thích tìm tòi khám phá, trẻ luôn

đặt câu hỏi và muốn tìm ra ngay câu trả lời . Ví dụ như “Vì sao con cá bơi
được” ; “Vì sao con mèo leo trèo cao mà không bị ngã”; “Vì sao miếng xốp thì
nổi mà hòn bi lại chìm” ; “Nếu không có nước cây sẽ như thế nào”. Vì thế tôi
luôn tận dụng những tiết học phám phá để làm một số thí nghiệm vui nho nhỏ và
cho trẻ cùng tham gia trải nghiệm.
Ví dụ tôi cho trẻ làm thí nghiệm vật chìm, vật nổi trong nước tôi đã cho
trẻ tự chọn vật nặng hay nhẹ theo ý trẻ như hòn bi, chìa khóa, miếng xốp, thuyền
giấy… và thả vào trong nước, sau đó đưa ra nhận xét của mình.
Hay tôi cho trẻ đong nước vào các bình chứa để trẻ nhận ra nước ở thể
lỏng có thể rót vào các các vật chứa khác nhau. Tôi cho trẻ sờ vào đá lạnh, uống
nước đá để cho trẻ hiểu nước trong nhiệt độ thấp sẽ chuyển sang thể rắn và lạnh.

13


Trẻ làm thí nghiệm vật chìm- nổi; thí nghiệm về các tia nước chảy
Với hoạt động tìm hiểu các giác quan trên cơ thể con người tôi cho trẻ
được nếm, nghe, nhìn, ngửi…các âm thanh, các vị khác nhau để trẻ thấy rõ nhất
tác dụng của các giác quan trên cơ thể trẻ.

14


Cô và trẻ làm thí nghiệm nến cháy được nhờ có không khí
Về sự nảy mầm và phát triển của cây tôi cho trẻ tự xới đất và gieo đậu,
gieo cải, hàng ngày tôi cho trẻ thường xuyên tưới nước và dán biểu tượng sự
phát triển của cây vào bảng để theo dõi quá trình phát triển của cây.
Ở hoạt động tìm hiểu một số luật lệ giao thông tôi cho trẻ chơi trò chơi
“Em đi qua ngã tư đường phố”. Tôi vẽ sơ đồ ngã tư và đặt các biển báo giao
thông, sau đó cho trẻ chơi tham gia đúng luật giao thông.

Qua những hoạt động như vậy tôi thấy trẻ rất hào hứng, tích cực hoạt
động. Trẻ say mê hứng thú và cô phải chủ động kết thúc hoạt động của trẻ. Mọi
thắc mắc của trẻ như được giải đáp khi trẻ được trải nghiệm, được hoạt động
thực tiễn. Khi cho Thỏ ăn, trẻ biết được Thỏ ăn lá cây, có đôi tai tinh, mắt tròn
và rất nhanh nhẹn. Khi tưới nước cho cây, trẻ hiểu ra rằng nước có một tầm quan
trọng đặc biệt đối với sự sống của con người cũng như đối với động thực vật.
2.3.7. Phối hợp với cha mẹ trẻ cùng thực hiện :
Phối hợp với cha mẹ trẻ để cùng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của trẻ trong hoạt động KPMTXQ cũng là một biện pháp rất cần thiết. Hơn
ai hết, cha mẹ trẻ là người hiểu về con mình nhất. Trẻ hiếu động hay nhút nhát,
trẻ tự ti hay mạnh dạn phụ huynh đều hiểu. Ngay từ cuộc họp phụ huynh đầu
năm học tôi đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo
dục trẻ trong đó có giải pháp phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của trẻ
trong các môn học. Được phụ huynh đồng tình ủng hộ, qua những giờ đón trả trẻ
tôi đã trao đổi về mức độ tiếp thu các môn học, nêu bật được việc kích thích trẻ
chủ động, sáng tạo trong hoạt động học có vai trò ý nghĩa rất quan trọng. Tôi đã
phối hợp với phụ huynh để cùng dạy trẻ như:
- Cho trẻ tìm hiểu về gia đình, ông bà nội ngoại, bố mẹ, anh chị em của
trẻ.
- Giúp trẻ tìm hiểu một số nội quy, quy định khi tham gia giao thông.

15


- Dạy trẻ tác dụng của các loại thực phẩm, các nhóm chất dinh dưỡng đối
với sự phát triển cơ thể trẻ.
- Cha mẹ cho trẻ đi tham quan dã ngoại, thăm các khu di tích lịch sử, khu
du lịch của địa phương.
- Cha mẹ cho trẻ được ăn và nói cho trẻ biết một số nghề truyền thống và
đặc sản ở địa phương (Thọ Xuân- Thanh Hóa) như bánh gai, bánh răng bừa,

nem chua…
Bên cạnh đó, tôi luôn khuyến khích những gia đình có trẻ còn nhút nhát,
kém hoạt động khi ở nhà cần lưu ý đến trẻ nhiều hơn, cho trẻ chơi với các bạn
cùng trang lứa nhiều hơn, cha mẹ nên đặt những câu hỏi kích thích tư duy và
phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhiều. Dù bận nhưng cha mẹ cũng nên dành một số
thời gian để tâm sự, chuyện trò cùng trẻ. Làm được như vậy trẻ sẽ cảm thấy
được quan tâm, có động lực và tích cực hơn trong cuộc sống cũng như trong học
tập.
2.4. Kết quả thực tiễn áp dụng :
Từ khi áp dụng những sáng kiến, kinh nghiệm trên cùng với sự cố gắng
nỗ lực của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích
cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ
lớp mình thể hiện ở các kết quả sau:
2.4.1. Kết quả trên trẻ:
Qua các biện phát đã triển khai thực hiện trên trẻ, sau thời gian tổ chức
thực hiện đã đem lại hiệu quả rất tốt, các trẻ bị thu hút, lôi cuốn và thật sự hứng
thú vào hoạt động khám phá khoa học. Trẻ tự tin khi nói lên ý kiến của mình. Từ
đó trẻ sẽ lĩnh hội được vốn kiến thức, kỹ năng mới cho bản thân mình. Không
chỉ có vậy, thông qua các giờ trải nghiệm, khám phá khoa học tư duy của trẻ sẽ
được kích thích nhiều hơn, trí tưởng tượng phong phú hơn thông qua đó giúp trẻ
phát triển trí tuệ của mình.
Bảng 2: Kết quả khảo sát cuối năm học 2017 – 2018 (đơn vị: %)

Nội dung

Số trẻ,
tỉ lệ %

Nội dung


Số trẻ,
tỉ lệ %

Trẻ hứng thú, tích cực 27 trẻ
tham gia khám phá
90%

Trẻ không hứng thú, thụ3 trẻ
động tham gia hoạt động 10%

Trẻ nắm được kiến thức, 28 trẻ
kĩ năng.
93,3%

Trẻ chưa nắm được kiến2 trẻ
thức, kĩ năng.
6,7%

2.4.2. Hiệu quả đối với giáo viên:
16


Từ việc nghiên cứu và áp dụng sáng kiến nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của trẻ trong hoạt động KPMTXQ tôi và các đồng nghiệp
nhận thấy rõ sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của trẻ, trẻ tích cực
hơn, nhiệt tình hứng thú hơn trong các hoạt động ,tạo các điều kiện thuận lợi để
tiến hành các hoạt động giáo dục khác từ đó mang lại kết quả giáo dục tốt hơn .
2.4.3. Hiệu quả đối với nhà trường :
Thực hiện việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và có sự tương tác phối
hợp với phụ huynh học sinh tôi nhận thấy phụ huynh cảm thấy yên tâm hơn, hài

lòng hơn khi gửi gắm con vào trường vì ở đó con của họ không chỉ được chăm
sóc, giáo dục mà còn phát huy được những sở trường ,khơi gợi tính sáng tạo
,kích thích trí thông minh, thêm vào đó trẻ còn được học các kỹ năng để trở
thành con người của thời đại mới. Từ đó, mọi hoạt động của trường đều được
phụ huynh và xã hội tích cực hưởng ứng .
3. Kết luận, kiến nghị :
3.1. Kết luận :
Tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ là yếu tố quyết định đến sự thành
công trong công việc cũng như trong cuộc sống của trẻ sau này. Vì thế, ngay từ
lứa tuổi mầm non chúng ta cần phát huy những đặc tính tốt đẹp này trong tất cả
các hoạt động của trẻ trong đó có hoạt động phám phá khoa học MTXQ. Đó
chính là nền tảng để trẻ phát triển toàn diện về nhận thức và nhân cách trẻ trong
tương lai.
3.2. Bài học kinh nghiệm :
Qua việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp trên, bản thân tôi đã rút
ra được những kinh nghiệm như sau:
-Tổ chức nhiều hoạt động tạo mọi cơ hội để trẻ được khám phá khoa học
tích lũy kiến thức về môi trường xung quanh.
- Sử dụng đồ dùng trực quan phong phú, sinh động, thẩm mỹ hấp dẫn trẻ.
- Tổ chức các trò chơi, câu đố nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ .
- Đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các câu hỏi mở để kích thích
tính sáng tạo của trẻ.
-Tôn trọng và lắng nghe mọi ý kiến của trẻ, coi trẻ là trung tâm của mọi
hoạt động.
-Xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động.
- Tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm, kích thích sáng tạo ở
trẻ
Bên cạnh đó, bản thân cần phải tích cực tìm tòi học hỏi, nhận thức sâu sắc
những nội dung giáo dục và lựa chọn nội dung phù hợp đưa vào dạy trẻ lớp


17


mình. Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn để thực hiện
thành công ý tưởng của mình. Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhà trường, giáo
viên, phụ huynh trong công tác giáo dục và hình thành các kỹ năng trải nghiệm,
khám phá cho trẻ.
Qua việc áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy sự biến chuyển rõ rệt ở
trẻ thông qua kết quả khảo sát cuối năm. Điều đó cho thấy những biện pháp trên
rất có hiệu quả, thiết thực, có tính khả thi và có thể mở rộng.
3.3. Kiến nghị:
Với ý nghĩa thiết thực và tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của trẻ hoạt động phám phá khoa học MTXQ, tôi có một số
kiến nghị như sau :
Một là, cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc hội thảo, các lớp tập huấn ,
các giờ dạy mẫu để các trường đưa giáo viên đi tham quan học tập.
Hai là, cần có chính sách hợp lý về đội ngũ giáo viên bởi hiện nay vẫn còn
một số trường thiếu giáo viên đứng lớp; cần xây dựng thêm phòng học để số trẻ/
cô/ lớp đủ theo chuẩn của Bộ GD-ĐT thì mới đáp ứng được chất lượng giáo dục
theo chuẩn mầm non.
Trên đây là một số biện pháp đã giúp tôi thực hiện có hiệu quả việc phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động
KPMTXQ. Song trong quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những hạn chế
thiếu sót. Tôi mong rằng hội đồng khoa học các cấp sẽ góp ý cho tôi sẽ tiếp tục
nghiên cứư, đi sâu tìm hiểu sáng kiến này để đạt hiệu quả tốt hơn trong công
việc giảng dạy của mình nhằm giúp phát triển của tư duy trẻ, góp phần hình
thành và hoàn thiện nhân cách trẻ.
Thọ Xuân,ngày 19 tháng 3 năm
2018
Xác nhận của hiệu trưởng nhà trường


Tạ Thị Oanh

Người viết sáng kiến

Trần Thị Hằng

18


19



×