SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG XƯƠNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHÍ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ TRONG TRƯỜNG
MẦM NON
Người thực hiện: Hoàng Thị Tám
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Quảng Ngọc
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí
THANH HÓA, NĂM 2018
MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi.
2.2.2. Khó khăn.
2.2.3. Khảo sát thực tế
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.3.1. Bồi dưỡng đội ngũ, giúp giáo viên nhận thức sâu sắc vê
nhiệm vụ dạy trẻ kỹ năng sống trong năm học
2.3.2. Biệp pháp cụ thể hóa nội dung những kỹ năng cơ bản ma
giáo viên cần dạy trẻ
2.3.3. Biện pháp xác định nhiệm vụ cơ bản va phân công trách
nhiệm trong việc dạy trẻ kỹ năng sống
2.3.4. Xây dựng môi trường giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ dạy
trẻ kỹ năng sống
2.3.5. Biện pháp tổ chức các hoạt động tập thể, các chuyến đi dã
ngoại
2.3.6. Biện pháp tuyên truyên các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng
sống trong gia đình
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài SKKN đã được Hội đồng SKKN ngành
GD&ĐT huyện, tỉnh xếp loại.
Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
3
3
4
5
5
9
11
15
15
16
18
19
19
20
21
22
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc
bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và
của mỗi gia đình: Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho
trẻ sau này.
Như chúng ta đã biết, đất nước ta hiện nay nền kinh tế phát triển đang trên
đường hội nhập Quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác
nhau trên thế giới. Hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của
những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn
những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu
cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo
lực, và lối sống ích kỉ lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân
cách[2].
Năm học 2017-2018 là năm học ngành GD&ĐT tiếp tục triển khai thực
hiện phong trào: " Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực" do ngành
GD&ĐT phối hợp với ngành Văn hoá thể thao và du lịch và đoàn TNCS HCM
phát động. Phong trào đã được triển khai và thực hiện triệt để trong toàn ngành
Giáo dục với 5 nội dung chính. Một trong năm nội dung đó là: Rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh.
Trong nội dung của Đề án “ Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo
dục kĩ năng sống” của UBND huyện Quảng Xương đã nêu: “Trong giai đoạn
hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen giữa các yếu tố tích cực
và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những việc gì nên làm
và không nên làm. Do đó, tùy theo từng cấp học, bậc học các em học sinh phải
được trang bị những kiến thức, hiểu biết xã hội, những kĩ năng cần thiết để bước
vào cuộc sống và trở thành công dân tốt phù hợp với xu thế phát triển của xã
hội” [1].
Trước nay chúng ta vẫn nói giáo dục đạo đức cho học sinh và khi nói đến thì
ai cũng biết dó là giáo dục những gì? Cần phải làm thế nào để nêu những tấm
gương tốt cho học sinh học tập và neo theo? Nhưng kĩ năng sống là gì? Không
phải ai cũng chỉ ra ngay được.
Nhiều người còn nhầm lẫn giữa kỹ năng và hành động nên trong việc dạy trẻ
có được những hành động theo yêu cầu của người lớn thì cho rằng trẻ đã có kỹ
năng, điều đó hoàn toàn chưa đúng. Một ví dụ cụ thể cho vấn đề này, khi bạn
cho trẻ đi chơi, bạn nhắc trẻ con hãy bỏ rác vào thùng rác và trẻ thực hiện theo
những gì bạn nói thì đó là hành động. Phần lớn những trẻ ở lứa tuổi mầm non
đều có những hành động đơn giản diễn ra trong cuộc sống hàng ngày như: Chào
hỏi, cảm ơn, xin lỗi…nhưng đó nhiều khi vẫn là những hành động làm theo yêu
cầu của người lớn và để những hành động đó trở thành kỹ năng cho trẻ thì đòi
hỏi phải có một quá trình. Khi hành động đó trở thành kỹ năng chính là lúc trẻ
nhìn thấy rác tự nhặt cho vào thùng rác hoặc trẻ gặp người lớn tự chào hỏi… mà
không cần người lớn phải nhắc nhở nữa[6].
Có khá nhiều định nghĩa rất rõ về kĩ năng sống, nhưng có thể nêu lên một
cách ngắn gọn: Kĩ năng sống là khả năng tự chủ, khả năng tự đưa ra quyết định,
khả năng nói không và khả năng thích nghi, biết chấp nhận, hoá giải được những
tác động tiêu cực trong cuộc sống chung quanh[7].
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên mà bản thân tôi thấy cần phải nghiên
cứu sâu hơn, tìm những giải pháp cụ thể để giúp CBGV trong nhà trường có
được những nội dung và các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hình thành
và rèn kĩ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả cao nhất.
1. 2. Mục đích nghiên cứu
Năm học 2017-2018 tôi tiến hành nghiên cứu và đưa vào áp dụng đề tài:
"Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ trong trường Mầm non" với mục đích giúp Cán bộ, giáo viên, nhân viên
cũng như các bậc phụ huynh học sinh toàn trường xác định rõ hơn những nội
dung trọng tâm, phương pháp và cách thức hình thành giáo dục kĩ năng sống cho
trẻ mầm non đạt hiệu quả góp phần cùng với giáo dục nhằm hoàn thiện nhân
cách và phát triển toàn diện cho trẻ mầm non trong thời đại ngày nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung vào một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ mầm non.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp lý
luận về việc vận dụng các biện pháp.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, đàm thoại, thực
nghiệm (thực hành, trải nghiệm) …
* Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: thông qua đọc các tài liệu sách
báo, tạp chí có liên quan đến Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
*Phương pháp quan sát sư phạm:
+ Quan sát trẻ: Thông qua hành động, lời nói, nét mặt cử chỉ, biểu hiện
xúc cảm, tình cảm… của trẻ.
+ Quan sát giáo viên: Dự giờ và quan sát cách tổ chức các hoạt động có
lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nghiên cứu về sự phát triển trẻ em cho ta khẳng định: Sự phát triển của
trẻ nhỏ bao gồm cả sự tăng trưởng về chiều cao, về cân nặng, những thay đổi
của não và giác quan, vừa bao gồm tất cả những thay đổi do kết quả các trãi
nghiệm và việc luyện tập: thay đổi về sự vận động và sự thích nghi với môi
trường, khả năng tư duy và ngôn ngữ, thay đổi trong hành vi xã hội, trong sự tự
ý thức và sự tự kiềm chế bản thân.
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cũng cho thấy rằng khả
năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác
của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề
cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học
tập của trẻ tại trường[4].
Tại Đề án “ Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kĩ năng
sống” của UBND huyện Quảng Xương –tháng 8 năm 2017 thể hiện rất rõ nội
dung dành riêng cho từng cấp học, bậc học trong đó nội dung dành cho bậc học
Mầm non bao gồm:
- Giáo dục gắn với kĩ năng tự bảo vệ bản thân
- Giáo dục gắn với rèn kĩ năng giao tiếp
- Giáo dục gắn với rèn kĩ năng tự lập
- Giáo dục gắn với rèn kĩ năng hoạt động nhóm[2].
Thực tế cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ trong đó yếu tố giáo viên có ảnh hưởng rất lớn, bản thân trẻ là yếu tố có
tính chất quyết định, các yếu tố môi trường, giáo dục…góp phần quan trọng
trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ở trường mầm
non.
Có nhiều giáo viên mầm non thường tập trung lo lắng cho những trẻ có những
vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến
trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt,
không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không
thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất
nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản
ở trường mầm non[6].
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
2.2.1.Thuận lợi:
- Từ Bộ Giáo dục cho đến Sở, Phòng GD &ĐT trong những năm gần đây
đã có nhiều văn bản, hướng dẫn liên quan đến việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
trong trường mầm non.
- Trường Mầm non xã nhà đạt chuẩn quốc gia mức độ I, tình hình cơ sở
vật chất tương đối đồng bộ, đội ngũ CBGV đoàn kết, có trình độ năng lực sư
phạm vững vàng, có lòng nhiệt tình, say mê với nghề được cấp trên đánh giá tốt
nên thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học đặc biệt là đã có kinh
nghiệm trong nhiệm vụ giáo dục lễ giáo cho học sinh từ những năm học trước.
Học sinh được học chương trình liên tục từ nhà trẻ đến các lớp Mẫu giáo.
- Đa số phụ huynh có sự quan tâm, phối hợp với giáo viên chủ nhiệm và
nhà trường Mầm non trong việc giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
- Việc rèn kĩ năng sống cho trẻ mầm non đã được giáo viên lồng ghép vào
các hoạt động. Thông qua các hoạt động trẻ đã biết phân biệt được nơi chơi, đồ
chơi an toàn và không an toàn, biết phân biệt người lạ, người quen, không nhạn
quà hoặc đi theo người lạ. Một số trẻ 4-6 tuổi đã biết giúp cô làm một số việc tự
phục vụ bản thân và cất đồ dùng cá nhân.
2.2. Khó khăn
-Về nhà trường mầm non: tuy cơ sở vật chất tương đối tốt, đồ dùng đồ
chơi đã có song vẫn còn thiếu các mô hình cho trẻ hoạt động trãi nghiệm. Trong
những năm học trước nội dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ đã có tuy nhiên
mới chỉ dừng ở mức độ giáo viên tự giác lồng ghép vào trong chương trình giáo
dục, trong các hoạt động hàng ngày(nếu có thể), nhà trường chưa có kế hoạch cụ
thể trong việc chỉ đạo thực hiện các nội dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
- Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa hiểu rõ tầm quan trọng của
việc rèn kĩ năng sống cho trẻ, còn hời hợt, chưa chịu khó lồng ghép các hoạt
động để dạy và rèn kĩ năng sống, chưa linh hoạt trong việc vận dụng, tạo các cơ
hội cho trẻ thực hành trãi nghiệm. Một số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh
nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng
tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi có năng động,
sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về nghề chưa
được sâu sắc.
- Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy con. Khi trẻ về
nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái
quá. Đồng thời một số phụ huynh lại chiều chuộng, cung phụng con cái quá
mức không để trẻ tự làm bất cứ công việc nào dù là nhỏ nhất hoàn toàn làm thay
trẻ khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ hoặc kĩ năng tự phục vụ thấp, một số
trẻ không thích nghi được với môi trường xung quanh dẫn đến những sai lệch
trong nhận thức lẫn hành động.
2.2.3. Khảo sát thực trạng chất lượng trước khi thực hiện.
Để việc nghiên cứu đạt hiệu quả, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo
sát nhằm đánh giá vốn kĩ năng sống hiện tại của trẻ đến trường và mức độ kiến
thức dạy kĩ năng sống cho trẻ của giáo viên.
Bảng1: Kết quả khảo sát học sinh về vốn kĩ năng sống( số HS KS 473 trẻ)
Nội dung khảo sát
Kết quả
Số lượng
Tỷ lệ
Trẻ mạnh dạn, tự tin
196/473
41,3%
Kĩ năng giao tiếp, lễ phép
251/473
53%
Kĩ năng tự lập
183/473
38,7%
Kĩ năng hoạt động nhóm( có ý thức hợp
245/473
51,8%
tác, chia sẻ với bạn bè)
Nhìn vào kết quả của bảng ta thấy rõ đa số trẻ chưa tự tin, thiếu sự mạnh dạn,
các kĩ năng tự lập thấp, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác chia sẻ với bạn bè còn
hạn chế.
Bảng 2. Kết quả khảo sát đội ngũ về kiến thức dạy kĩ năng sống cho trẻ
(số GV khảo sát 30)
Nội dung khảo sát
Kết quả
Số lượng
Số lượng
Nắm vững các nội dung GDKNS cho trẻ
18/30
60%
mầm non
Lựa chọn các nội dung giáo giục KNS phù
17/30
56,6%
hợp độ tuổi
Biết tổ chức các hoạt động lồng ghép giáo
16/30
53,3%
dục KNS cho trẻ
Tự tin trong giao tiếp với phụ huynh, đồng
21/30
70%
nghiệp và trước nơi đông người.
Qua kết quả khảo sát cho thấy số giáo viên nắm các nội dung, lựa chọn, lồng
ghép các hoạt động để GD KNS cho trẻ chưa nhiều. Sự mạnh dạn tự tin trong
giao tiếp của giáo viên vẫn còn hạn chế.
2.3. Biện pháp thực hiện
2.3.1. Bồi dưỡng đội ngũ, giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về nhiệm
vụ dạy trẻ kỹ năng sống trong năm học
Xác định giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là một quá trình tác động sư phạm
có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên
quan tới kiến thức và thái độ, giúp cá nhân trẻ có ý thức về bản thân, giao tiếp,
quan hệ xã hội, thực hiện công việc, ứng phó với các yêu cầu hàng ngày.
Năm học 2017-2018 nhà trường đã xác định mục tiêu của việc hình thành
và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ MN là nhằm giúp trẻ có kĩ năng tự lập, biết
làm những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động trong hoạt
động nhóm và biết cách xử lí các tình huống trong cuộc sống.
Tổ chức chuyên đề tại trường về việc triển khai kế hoạch thực hiện công tác
chuyên môn năm học trong đó nội dung quan trọng hướng dẫn giáo viên xác
định nội dung trọng tâm của việc rèn kĩ năng sống cho trẻ. Đó là song song việc
thực hiện cả 4 nội dung giáo dục theo Đề án thì nhà trường lựa chọn Nội dung
giáo dục gắn với kĩ năng tự lập và nội dung giáo dục gắn với kĩ năng hoạt
động nhóm là hai nội dung trọng tâm trong việc rèn kĩ năng sống cho trẻ.
Cung cấp tài liệu cho giáo viên: Xây dựng toàn bộ nội dung, các tiêu chí
đánh giá trẻ trong việc thực hiện các nhóm kĩ năng cho từng chủ điểm, từng độ
tuổi. Ví dụ: Đối với nội dung giáo dục rèn kĩ năng tự lập Trong chủ điểm Bản
thân trẻ biết tự cất đồ dùng cá nhân vào nơi quy định, biết tự mặc quần áo, đi
dép, đội mũ, lấy gối khi đi ngủ; Biết rửa tay và dùng khăn khô lau tay; Biết cất
đồ dùng vào nơi quy định; Biết tự xúc cơm ăn, nhặt cơm rơi cho vào đĩa; Biết
cùng cô xắp xếp bàn ăn( giờ ăn), lấy đồ dùng học tập(giờ học)…
Sưu tầm các tài liệu có nội dung về giáo dục kĩ năng sống cho giáo viên
tham khảo. Bản thân ghi chép các nội dung và phương pháp dạy trẻ kĩ năng sống
poto cho từng đồng chí CBGV. Các nội dung giáo dục kỹ năng sống trong
chương trình GDMN không xa lạ mà hết sức đơn giản, gần gũi và thiết thực với
trẻ. Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo
viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ.
Giáo viên phải hiểu được dạy kĩ năng sống cho trẻ không phải là ép trẻ
làm những cái mà người lớn muốn mà là dạy trẻ có ý thức vào những gì trẻ cần
làm và thực hiện đúng cách.
2.3.2. Biệp pháp cụ thể hóa nội dung những kỹ năng cơ bản mà giáo
viên cần dạy trẻ:
Từ những nội dung giáo dục mà nhà trường xác định và xây dựng thành
nội dung trọng tâm của năm học thì tôi hướng dẫn giáo viên cách xác định các kĩ
năng, nhóm kĩ năng cần thiết cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Việc xác
định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn
đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ.
+ Kĩ năng sống tự tin : Đây là một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo
viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ
cảm nhận được mình là ai, là trai hay gái, là con thứ mấy trong gia đình. Trong
mối quan hệ với bạn bè trong lớp với cô giáo và những người khác. Kỹ năng
sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi lúc mọi nơi.
+ Kĩ năng tự lập: Giáo dục cho trẻ hiểu và biết thực hiện thành thạo một
số kĩ năng phục vụ trong ăn uống, sinh hoạt, học tập… hàng ngày. Biết giúp
người lớn làm một số việc đơn giản phù hợp với độ tuổi. Biết nói lên nhu cầu,
nguyện vọng, sở thích riêng của bản thân. Đây là nội dung trọng tâm của năm
học nên yêu cầu giáo viên phải thực hiện thường xuyên, có chiều sâu và đạt
được hiệu quả thực sự. Cụ thể đó là: Giáo viên cần dạy trẻ từ hành động theo
yêu cầu của người lớn(con hãy tìm chỗ ngồi, con hãy cất đồ dùng cá nhân của
con vào đúng nơi quy định; con hãy nhặt rác bỏ vào thùng) cho đến khi đạt được
kĩ năng(Đến lớp trẻ nhà trẻ tự đi vào lớp, tự tìm đúng chỗ ngồi, trẻ tự giác cất
đồ dùng cá nhân vào ngăn tủ của mình, trẻ thấy rác tự nhặt bỏ vào thùng…).
+ Kĩ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi (Trò chơi phân vai và trò chơi
đóng kịch), câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với
bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác
sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
+ Kĩ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ: Nhận và làm một việc trong
gia đình, trong lớp học, phù hợp với trẻ như gấp một cái khăn tay, xếp gọn đồ
chơi sau khi chơi xong, bản thân trẻ phải nỗ lực vượt qua khó khăn để thực hiện
công việc, hoàn thành đến cùng công việc được giao.
+ Kĩ năng tuân thủ các quy tắc xã hội như: Quy tắc giao thông( đội mũ
bảo hiểm khi ngồi trên mô tô xe máy, đi bộ bên lề đường bên phải, không chơi
dưới lòng đường, đi theo tín hiệu đèn giao thông...); Quy tắc nơi công cộng( Đi
nhẹ, nói khẽ, không làm ồn, không vứt rác bừa bãi...)
+ Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát
khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để
khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu
chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí
não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
+ Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn
đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến
thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá
quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác
như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi
nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn
sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn
sàng học mọi thứ.
+ Kĩ năng ứng xử văn hoá, ý thức sống thân thiện
Cần dạy trẻ biết nói lời "cảm ơn" khi nhận được sự quan tâm từ người
khác, biết nói lời " xin lỗi" khi làm việc hay nói lời sai. Không lấy( không tranh
giành) đồ của người khác. Dạy trẻ biết sự khác nhau của việc " nói thật", " nói
dối"
Ngoài ra, ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ thói quen giữ gìn sức
khoẻ và ý thức tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa các tai nạn như đuối nước, điện
giật, không lại gần nơi có người hút thuốc lá. Dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn
uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa
tay sạch sẽ trước khi ăn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không
gây tiếng ồn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ
bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp.
2.3.3. Biện pháp xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm
trong việc dạy trẻ kỹ năng sống
* Trách nhiệm của trường mầm non
- BGH phải xây dựng được kế hoạch cụ thể, chi tiết đến từng tiêu chí,
từng độ tuổi và theo từng chủ điểm để giáo viên dễ dàng lựa chọn nội dung rèn
các kĩ năng sống cho trẻ( Ví dụ cụ thể)
- Ban giám hiệu trao đổi với giáo viên để xác định mục tiêu của trường,
kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của trẻ và kiểm tra, đánh giá
kết quả thực hiện của giáo viên về rèn kĩ năng sống cho trẻ.
- Tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức tốt các họat động nuôi dưỡng, chăm
sóc giáo dục trẻ theo thời gian biểu của nhà trường đã đưa ra.
- Tập huấn cho giáo viên về các kỹ năng làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội,
tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên tăng cường phối hợp nhất quán với
gia đình để dạy trẻ kỹ năng sống đạt hiệu quả.
- Tăng cường cơ sở vật chất tạo điều kiện để GV có điều kiện cho trẻ thực
hành trãi nghiệm. trong năm học 2017-2018 nhà trường đã thiết kế xây dựng mô
hình Vườn rau của bé; Góc để dụng cụ giáo dục phát triển vận động. Cải tạo,
bổ sung cây hoa, cây cảnh vào Vườn cổ tích…Có các kế hoạch hoạt động kèm
theo cụ thể.
- Chỉ đạo tổ chức các hoạt động ngoài trời, các hoạt động dạo chơi tham
quan, trãi nghiệm qua đó giúp giáo viên có cơ hội quan sát, hướng dẫn trẻ cụ thể
các kĩ năng như phân biệt các nơi nguy hiểm, nơi không an toàn không nên chơi,
phải tuân thủ các quy tắc giao thông khi đi ra ngoài khu vực trường…
- Thường xuyên kiểm tra đánh giá việc thực hiện của giáo viên qua từng
chủ đề, có sơ kết tổng kết học kì và năm học nhằm động viên khuyến khích kịp
thời giáo viên, học sinh thực hiện tốt đồng thời có kế hoạch tiếp tục chỉ đạo GV,
HS chưa đạt yêu cầu.
Ví dụ: Các tiêu chí của nội dung Giáo dục gắn với kĩ năng tự lập:
Độ tuổi Thứ
Nội dung yêu cầu cần đạt
Cách thực hiện
Thời gian
tự
thực hiện
1
2
Trẻ 2436
tháng
3
1
Trẻ MG 2
3-4 tuổi
3
4
5
1
2
-Nói được một số thông tin về bản
thân
(tên, sở thích,…)
- Nhận biết phân biệt được người
quen, người lạ và không đi theo
người lạ
- Không nhận quà của người lạ khi
chưa có ý kiến của người lớn
- Không ăn, uống một số thứ có hại
cho sức khoẻ.
- Dạy trẻ biết cất đồ dùng cá nhân
(quần áo, dày dép, mũ,..) vào đúng
nơi quy định.
- Trẻ biết chải hoặc vuốt lại tóc khi
bù rối, chỉnh lại quần áo.
Tự mặc và cởi được quần áo:
- Tự mặc được quần áo đúng cách
- Trò chuyện, tạo Tháng 9
tình huống
CĐ:" Bé và
gia đình"
- Quan sát hoạt
động của trẻ
Hàng ngày
Tập đánh răng, lau mặt, đi vệ sinh
đúng nơi qui định
Rèn luyện thao tác rửa tay sạch bằng
xà phòng
Trẻ biết cùng cô sắp xếp bàn ghế đồ
dùng, biết lấy và cất đồ chơi đúng
nơi qui định.
- Dạy trẻ biết cất đồ dùng cá nhân
vào đúng nơi quy định.
- Quan sát, trò
chuyện, đàm
thoại,
Hàng ngày
Thực hành.
Hàng ngày
- QS, trò chuyện,
đàm thoại
Thực hành.
- Quan sát, trò
chuyện
- Thực hành.
- QS;Thực hành.
Hàng ngày
- Trẻ biết soi gương chải vuốt lại
tóc, chỉnh quần áo hoặc phủi bụi đất
bị dính bẩn.
3
- Tự mặc được quần áo đúng cách
- Cài và mở được hết các cúc
4
- Biết rửa tay sạch bằng xà phòng
trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh.
- Biết cùng cô kê sạp ngủ, bàn ăn.
- Giúp cô chia cơm cho các bạn, tự
Trẻ MG
lau miệng, uống nước sau khi ăn
5-6 tuổi
xong.
5
- Biết giúp cô kê và sắp xếp bàn ghế
- Tìm vở, đồ dùng theo kí hiệu của
mình
* Trách nhiệm của giáo viên Mầm non
- Phối kết hợp với
cha mẹ trẻ
- Quan sát, đàm
thoại.
Thực hành.
- Quan sát, thực
hành.
- QS, trò chuyện.
Thực hành.
- Quan sát, trò
chuyện, đàm
thoại,
Thực hành.
Hàng ngày
Hàng ngày
Chủ đề bản
thân
Chủ đề bản
thân
Chủ đề bản
thân
Chủ đề bản
thân
Hàng ngày
Hàng ngày
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến
khích sự tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu,
tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo
dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc
sống.
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc
giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển
đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm
mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi,
biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác
nhau.
- Hướng dẫn cho giáo viên có thể thông qua nhiều hình thức, nhiều
phương pháp dạy kĩ năng sống cho trẻ đó là:
+ Thông qua hoạt động vui chơi: vui chơi là hoạt động tạo cho trẻ nhiều hứng
thú và cũng cho trẻ cơ hội được vận dụng nhiều kiến thức kĩ năng khác nhau vào
giải quyết nhiệm vụ chơi. Trẻ được thử nghiệm nhiều vai trò khác nhau qua các
vai chơi, được phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo, học hỏi và hợp tác với các bạn
cùng chơi…
Ví dụ trong trò chơi gia đình trẻ phải điều hoà các mối quan hệ với 2 vai trò
khác nhau: mối quan hệ với bạn cùng chơi (quan hệ thật) và quan hệ với các
nhân vật trong trò chơi (quan hệ giả). Để trò chơi phát triển mỗi trẻ đều phải
cùng cố gắng hoàn thành tốt vai trò của mình đồng thời phải biết chia sẻ, hợp tác
với các bạn khác.
+ Thông qua sinh hoạt hàng ngày: sinh hoạt hàng ngày của trẻ đa phần là
những hoạt động lặp đi lặp lại vì vậy trẻ được rèn luyện nhiều và thực hiện các
công việc đó một cách dễ dàng vì đã thành nếp sinh hoạt. Ngoài ra, trong sinh
hoạt trẻ cũng gặp phải những vấn đề mới nảy sinh – đó chính là cơ hội quý để
hình thành những kĩ năng sống mới.
Thông qua xem phim, nghe kể truyện: nội dung các bộ phim, câu chuyện phù
hợp sẽ là gợi ý cho trẻ về cách cư xử đúng, cách giải quyết vấn đề hiệu quả.
+ Thông qua hoạt động sáng tạo: Với trò chơi đóng vai, trẻ “nhập vai” và giải
quyết tình huống giả định, giúp trẻ tập các kĩ năng sống một cách nhẹ nhàng, thú
vị. Ví dụ: đi siêu thị mà bị lạc thì trẻ làm gì?, làm hỏng đồ chơi của bạn trẻ sẽ
làm thế nào? Khi bố mẹ vắng nhà có người lạ đến gọi cửa con phải làm gì? Hoặc
khi sảy ra sự cố cháy nổ con phải làm gì?…
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là việc làm
cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Mỗi trẻ có những yếu tố cá nhân khác nhau và
sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội cũng như hoàn cảnh sống, môi trường trải
nghiệm khác nhau nên nhà giáo dục cần có những hình thức, biện pháp linh
hoạt, hợp lý và tận dụng các điều kiện để tạo ra nhiều cơ hội cho trẻ được tự trải
nghiệm.
- Giáo viên phải biết phân công công việc cho bé và khuyến khích trẻ làm việc .
Việc dạy trẻ kĩ năng sống bằng cách khen ngợi, khuyến khích đem đến những
biểu hiện tích cực cho bé, bé sẽ vui mừng hơn khi được khen ngợi. Điều này sẽ
khuyến khích những hành động tốt của bé trở thành thói quen, hình thành những
đức tính tốt cho bé sau này.
- Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn
khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết
lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ
khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều
này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với
mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ
đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp
nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi
không đẹp của trẻ.
- Giáo viên phải thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình
của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo
dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
2.3.4. Xây dựng môi trường giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ
kỹ năng sống
- Phát động giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi, trang trí lớp theo hướng mở
tạo môi trường trong và ngoài lớp cho trẻ hoạt động. Tổ chức cuộc thi Thiết kế
môi trường giáo dục theo chuyên đề Dạy học Lấy trẻ làm trung tâm, kết quả
trong năm có 14/14 lớp tham gia, 3 lớp đạt giải đặc biệt trong cuộc thi làm đồ
dùng và thiết kế môi trường hoạt động cho trẻ.
Hình ảnh một góc chơi của lớp đạt giải đặc biệt trong hội thi Thiết kế môi
trường GD trong chuyên đê Dạy học Lấy trẻ lam trung tâm
Ngoài việc xây dựng Kế hoạch thực hiện giáo dục rèn kĩ năng sống cho
trẻ trong năm học này bản thân tôi đã xây dựng thêm một số kế hoạch và chỉ đạo
thực hiện đó là:
Xây dựng Vườn rau của bé(Kèm theo lịch phân công thăm, quan sát và
chăm sóc vườn rau).
Cải tạo Vườn cổ tích(Lịch phân công tham quan và hoạt động ngoài trời
tại Vườn cổ tích).
Xây dựng Nơi để dụng cụ giáo dục phát triển thể chất(Có lịch sử dụng
dụng cụ GDPTTC cho các lớp).
- Hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ
theo các tiêu chí đúng hướng dẫn. Mỗi trẻ có mỗi biểu mẫu đánh giá riêng nhằm
giúp giáo viên quan sát ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ,
các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi
ngày làm căn cứ, thước đo để đánh giá cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát
triển của trẻ theo từng độ tuổi. Cũng từ biện pháp này, giáo viên sẽ có điều kiện
lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ
sung các biện pháp giáo dục từng trẻ vì trẻ con rất khác nhau và giúp trẻ hình
thành các kỹ năng sống.
- Nhằm tăng thêm khả năng giao tiếp của trẻ, ngay từ đầu tháng 9 nhà
trường làm văn bản trình các cấp có thẩm quyền và được sự đồng ý của Sở
GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, Trung tâm ngoại ngữ Vietlish nhà trường đã mở được
lớp học tiếng anh giao tiếp học vào các buổi học ngoài giờ thu hút được trên 170
học sinh ở cả 3 độ tuổi của khối Mẫu giáo. Theo đánh giá của nhà trường có tới
85% trẻ theo học tại lớp có khả năng giao tiếp tốt hơn, trẻ mạnh dạn, tự tin trong
các hoạt động đặc biệt là hoạt động nhóm, hoạt động tập thể và đa số phụ huynh
hài lòng về lớp học.
Hình ảnh Trẻ trong lớp học tiếng Anh giao tiếp giờ ngoại khóa
- Để tránh việc giáo viên sử dụng các ngôn từ, phát âm mang nhiều nét
riêng của địa phương tăng khả năng giao tiếp với học sinh, với đồng nghiệp
bằng tiếng việt chuẩn tiếng phổ thông nhà trường đã tổ chức cho CBGV nghiên
cứu học tập Kế hoạch số 04/KH-PGD&ĐT Quảng Xương ngày 4 tháng 1 năm
2018 về việc khắc phục nói và viết Tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông ở các
trường MN, TH, THCS trên địa bàn huyện. Xây dựng kế hoạch thực hiện cho
nhà trường trong năm học 2017-2018. Qua đó nhà trường phát động phong trào
thi đua nói và viết chuẩn tiếng phổ thông trong đội ngũ CBQL giáo viên, NV và
học sinh: khi đón trẻ, trả trẻ, hoạt động vui chơi, vận động, đặc biệt là việc tổ
chức các kịch bản, ngày hội ngày lễ và các hội thi.
2.3.5. Biện pháp tổ chức các hoạt động tập thể, các chuyến đi dã ngoại
Căn cứ vào nội dung giáo dục gắn với kĩ năng tự lập và kĩ năng hoạt động
nhóm, tôi đã xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện nhiều hoạt động một cách
thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể như sau:
- Duy trì hoạt động thể dục sáng tất cả các ngày trong tuần(riêng thứ tư và
thứ năm hàng tuần trẻ tập kết hợp với dụng cụ lấy tại góc để dụng cụ) như vòng,
gậy, nơ, búi bông.
- Duy trì biện pháp tăng cường các giờ hoạt động ngoài trời vào các ngày
trong tuần; Riêng sáng thứ hai hàng tuần, trẻ được nghe bài hát Quốc ca, xem
các kịch bản, các câu chuyện cổ tích (qua video). Các giờ hoạt động ngoài trời
được kết hợp với việc quan sát vườn rau, các khu vực của vườn cổ tích.Giáo
viên có thể tổ chức hoạt động quan sát có chủ đích hoặc vào các buổi chiều(theo
lịch đã phân công) giáo viên cho trẻ được thực hành tập trồng các loại rau, chăm
sóc như tưới nước, bắt sâu, nhặt cỏ
Hình ảnh một buổi hoạt động chăm sóc vườn rau của bé trong nội dung
dạy kĩ năng sống cho trẻ tại trường.
- Tổ chức các hoạt động tập thể, hoạt động dạo chơi tham quan
Cụ thể tôi đã chỉ đạo giáo viên tổ chức các hoạt động nổi bật như sau:
- Tháng 10: Chỉ đạo việc tổ chức sinh nhật theo tháng cho từng lớp, và
theo khối để trẻ có phạm vi giao tiếp rộng hơn (trong khối của mình). Khi tổ
chức sinh nhật trẻ được tham gia tự chuẩn bị bày bàn tiệc, làm quà tặng bạn,
thảo luận cách trang trí… giúp trẻ nhớ ngày sinh nhật và chia sẻ niềm vui cùng
bạn bè, giúp gắn kết các trẻ trong nhóm, trong lớp và trong khối của mình tốt
hơn.
Hình ảnh tổ chức sinh nhật cho trẻ trong tháng của lớp Hoa Lan
(Mẫu giáo 5-6 tuổi)
- Tháng 12: Phối hợp với Hội phụ huynh học sinh, Ban chỉ huy quân sự xã tổ
chức cho trẻ tham quan Nhà bia Tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ của xã nhân
ngày 22 tháng 12. Trong đó Ban chỉ huy quân sự xã phối hợp dẫn trẻ qua đường,
có bài nói chuyện với các con về quá trình xây dựng Nhà Bia và ý nghĩa của
việc xây dựng nhà bia nhằm giáo dục lòng tự hào, biết kính trọng và thể hiện
tình cảm của mình với thế hệ cha ông, hiểu biết thêm một địa danh, một cảnh
đẹp của địa phương
Hình ảnh Trẻ nghe bác Chỉ huy trưởng quân sự địa phương nói chuyện trước
tượng đai liệt sĩ của xã nhân ngay 22/12.
Tổ chức cho HS khối MG Lớn đi tham khu sinh thái Hoàng Xuân, một khu
nghỉ dưỡng gia đình nhưng đủ diện tích, cảnh đẹp cho trẻ được tiếp xúc gần với
thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá, tạo không khí thoải mái, vui vẻ, phấn khởi cho học
sinh.
- Tháng 1+2: Tổ chức Hội thi: “ Bé tập làm nội trợ” cấp trường, tham
gia hội thi cấp cụm nhằm:
+ Nâng cao kiến thức, kỹ năng dạy trẻ ở lứa tuổi mầm non và thực hiện những
kỹ năng cơ bản về hoạt động hàng ngày của trẻ.
+ Thông qua hội thi tạo cơ hội để trẻ giao lưu học hỏi, thể hiện sự hồn nhiên,
nhí nhảnh, trí thông minh và tự tin trong giao tiếp, bước đầu hình thành cho trẻ
những kỹ năng sống. Giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách.
+ Thông qua hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục giúp trẻ tăng cường
thực hành trải nghiệm để hình thành những hành vi ứng xử đúng đối với môi
trường, thói quen tiết kiệm điện, nước trong sinh hoạt, thực hiện đúng các quy
định an toàn giao thông, giúp trẻ có các kỹ năng về giao tiếp, ứng xử, kỹ năng
làm việc nhóm...đặc biệt còn giúp trẻ phát triển tốt về kỹ năng khéo léo, linh
hoạt nhanh nhẹn trong các hoạt động hàng ngày.
Kết quả: tại Hội thi “ Bé tập làm nội trợ” cấp trường đã có 12 đội tuyển và 72
trẻ tham gia, trong đó có 3 đội đạt giải nhất đồng đội, 12 giải nhất cá nhân.
Tại hội thi cụm liên trường đội tuyển nhà trường đạt giải Nhì tập thể, một giải
Nhất và hai giải Nhì cá nhân. Chất lượng đội tuyển trong các phần thi cũng như
kĩ năng thao tác cá nhân riêng của từng trẻ( kĩ năng nội trợ, thể hiện kịch bản
tinh thần đồng đội...) được lãnh đạo ngành cũng như đồng nghiệp đánh giá cao.
Đặc biệt hơn đó là lòng cảm phục của các bậc phụ huynh dành cho đội ngũ
CBGV nhà trường trong việc rèn luyện(các kĩ năng) và tổ chức Hội thi tại
trường cũng như tham gia hội thi cấp cụm.
Hình ảnh Các đ/c lãnh đạo nganh va lãnh đạo địa phương cùng các cô, các
cháu nha trường trong hội thi “Bé tập lam nội trợ” cấp cụm tháng 3/2018
- Tháng 4 : Tổ chức cho trẻ MG Lớn tham quan trường Tiểu học: Nhằm giúp
các bé được mở rộng phạm vi giao tiếp, có tình cảm và yêu thích trường Tiểu
học, các anh chị học sinh lớp trên và các thầy, các cô. Giáo viên chủ động thay
đổi nội dung, hình thức tổ chức và luân phiên thay đổi thành phần tham dự để tất
cả các bậc cha mẹ đều được tham gia tình nguyện vào quá trình tham quan dạo
chơi của trẻ trong nhà trường. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia của
cha mẹ, các đoàn thể trong việc giáo dục lòng yêu quê hương trẻ sinh ra lớn hơn
nữa là lòng yêu đất nước Việt Nam.
2.3.6. Biện pháp tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống
trong gia đình
- Nề nếp giáo dục trong gia đình ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của trẻ
nhỏ. Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi
trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Nhiều giáo
viên thấy rằng, một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn
theo nhóm lớn, lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong
môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc
và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi
trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường,
khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ
hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.
Vì vậy ngay từ đầu năm học trong cuộc họp Ban đại diện Hội cha mẹ học
sinh bản thân tôi đã có bài viết( ngắn gọn) nói về nội dung của Giáo dục kĩ năng
sống(KNS) cho học sinh mầm non và thông qua buổi họp phụ huynh toàn
trường yêu cầu mỗi GV đều tuyên truyền nội dung này, thông qua Hội nghị
CBCCVC (có các thành phần khách mời là lãnh đạo địa phương, phụ huynh học
sinh) tôi cũng đã tiếp tục tuyên truyền về nội dung GDKNS cho học sinh.
- Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc
cho rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Sự bực bội của cha mẹ thường dẫn đến sự
trùng phạt . Sự trừng phạt của cha mẹ nếu sử dụng thường xuyên sẽ chỉ làm cho
trẻ vâng lời trong chốc lát mà không có tác dụng làm thay đổi thật sự thái độ
hành vi của trẻ. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng
khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết
các vấn đề quan trọng.
- Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ múôn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh
thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình
một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
- Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất
cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách
chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên
luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho
trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính
cha mẹ và những người xung quanh trẻ. Cha mẹ nên động viên trẻ xem những
chương trình tivi giáo dục thích hợp và hấp dẫn trẻ, đồng thời hạn chế cho trẻ
xem các chương trình tivi bạo lực và không hợp với độ tuổi.
Gia đình cần tạo bầu không khí hòa thuận, ấm áp mọi người ứng xử với
nhau thân tình, phân tích cho trẻ hiểu đúng, sai, điều nên làm và không nên làm
động viên, khuyến khích những hành vi tích cực của trẻ kịp thời sẽ tạo ra những
hành vi ứng xử tương ứng.
Trong gia đình cũng như ở trường trước hết, người lớn phải gương mẫu,
yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với mọi trẻ và đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho trẻ.
Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên suy nghĩ của trẻ, nói
chuyện với các bạn trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn
của mình. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính
tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động như tham gia vào kịch bản lễ hội, các
hội thi...tại trường sau này.
Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng ngừơi lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, tham khảo và xây dựng kế hoạch
cùng với kinh nghiệm của bản thân trong quá trình chỉ đạo, sự đồng thuận hợp
tác của tập thể nhà trường, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp nhà
trường đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ mầm non các kỹ năng sống cơ
bản thể hiện ở các kết quả sau:
2.4.1. Kết quả trên trẻ:
- 100% trẻ đến trường và ở nhà đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều
kiện khuyến khích thể hiện kĩ năng tự lập.
- 100% trẻ Mẫu giáo có thói quen lao động tự phục vụ, có kĩ năng tự lập.
100% trẻ 5 tuổi được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường phổ thông.
- 100% trẻ được rèn luyện kĩ năng hoạt động nhóm; chơi với bạn trong
nhóm một cách thân thiện, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường
cũng như ở gia đình. 100% trẻ được theo dõi và đánh giá theo các tiêu chí của
Bộ tiêu chí Giáo dục kĩ năng sống.
- 80-90% trẻ có một số hiểu biết về quy định ATGT qua các lần đi tham
quan dã ngoại, có tính kỉ luật, biết phát huy tinh thần tập thể.
- 100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức
khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ
phát triển.
- 80% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp
sau mỗi giai đoạn,
- Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 94% trở lên và ít gặp
khó khăn khi đến lớp, có kĩ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn,
tự chuẩn bị khăn ăn, bát, thìa, ….trong các giờ ăn, đối với trẻ MG lớn biết phân
công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp chăn gối trước và sau khi ngủ
Hình ảnh trẻ tự mang va kê sạp, xắp xếp chiếu, gối trước giờ đi ngủ của
các bé mẫu giáo 5-6 tuổi
Bảng 3 Kết quả khảo sát học sinh về vốn kĩ năng sống( số HS KS 473 trẻ)
Nội dung khảo sát
Kết quả khảo sát
Kết quả khảo sát sau
trước khi thực hiện đề
khi thực hiện đề tài
tài
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
Trẻ mạnh dạn, tự tin
196/473
41,3%
342/473
72,3%
Kĩ năng giao tiếp, lễ phép
251/473
53%
405/473
85,6%
Kĩ năng tự lập
183/473
38,7%
338/473
71,4%
Kĩ năng hoạt động
245/473
51,8%
398/473
81%
nhóm( có ý thức hợp tác,
chia sẻ với bạn bè)
2.5.4. Về phía giáo viên và nhà trường
Giáo viên: Giáo viên vui vẻ trả lời những câu hỏi của trẻ, không la mắng, giải
quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp.
Trong giảng dạy, giáo viên chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều
hơn. Khơi dậy tính tò mò, ham hiểu biết và tính chủ động của học sinh chứ
không áp đặt trẻ.
Giáo viên mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự
chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.
Bảng 4: Kết quả khảo sát đội ngũ về kiến thức dạy kĩ năng sống cho trẻ sau
thực hiện đề tài (số GV khảo sát 30 người)
Nội dung khảo sát
Kết quả KS trước khi
Kết quả KS sau
thực hiện đề tài
khi thực hiện ĐT
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng Tỷ lệ
Nắm vững các nội dung giáo dục
18/30
60%
30/30
100%
kĩ năng sống cho trẻ mầm non
Lựa chọn các nội dung giáo giục
17/30
56,6% 28/30
93,3
KNS phù hợp độ tuổi
Biết tổ chức các hoạt động lồng
16/30
53,3% 27/30
90%
ghép giáo dục KNS cho trẻ
Mạnh dạn tự tin trong giao tiếp
với phụ huynh, đồng nghiệp và
trước nơi đông người.
21/30
70%
30/30
100%
Nhà trường: Cơ sở vật chất được tăng cường, đặc biệt là bước đầu đã có các
mô hình cho học sinh được thực hành trãi nghiệm.
Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha mẹ trẻ
em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục, truyền thống cho
trẻ, đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống.
Và kết quả cho sự cố gắng của nhà trường là Lễ khởi công động thổ xây dựng
thêm 6 phòng(trong đó 4 phòng học và các phòng chức năng) được tiến hành
vào ngày 28 tháng 3 năm 2018
Hình ảnh đ/c Chủ tịch UBND xã va các đ/c lãnh đạo địa phương trong lễ
khởi công xây dựng khu nha C của nha trường tháng 3 năm 2018.
Trong khuôn viên mới này sẽ có đầy đủ các phòng học, phòng hội trường,
khu Chợ Quê, sân vận động mini và các khu vực khác. Đây không chỉ là sự quan
tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất của địa phương dành cho nhà trường mà còn
là niềm tin của các đồng chí lãnh đạo địa phương, của các bậc phụ huynh là
động lực để tập thể CBGV trong nhà trường tiếp tục phấn đấu xây dựng thành
công chuẩn Quốc gia mức độ II năm 2018.
2.5.3. Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
- Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo
dục trẻ ở nhà trường. Trong năm phụ huynh đã cùng con tham quan Chùa Nổ,
tham khu sinh thái Hoàng Xuân, phụ huynh tự nguyện tài trợ phương tiện đi lại
để các con đi dã ngoại, tự nghuyện đóng góp nguyên vật liệu như hoa, bánh, các
loại bột, các loại quả… để các con tập luyện trong hội thi.
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo
trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức
thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ; số lượng phụ huynh học sinh tham
gia đông hơn kết quả lượng phụ huynh dự họp trong cả hai kỳ họp đạt 85-90%.
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la
mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, biết phân công công việc cho
trẻ, không cung phụng trẻ thái quá trẻ MG bé đã biết tự xúc cơm ăn, biết tự
phục vụ bản thân...
- Phụ huynh tự giác và thường xuyên cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo
viên trang trí lớp, làm đồ chơi. Điều đặc biệt là trong quá trình tham gia hoạt
động cùng nhà trường nhiều phụ huynh thông cảm và chia sẻ nỗi vất vả của giáo
viên mầm non hơn.
3.Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Với những kết quả đạt được trong quá trình do nghiên cứu tài liệu, tích
luỹ được trong suốt quá trình thời gian công tác với mong muốn gửi đến các
đồng nghiệp, cha mẹ trẻ một số điều cần làm và cần tránh nhằm giúp cô giáo,
cha mẹ trẻ dạy trẻ mầm non hình thành và rèn KNS cơ bản như sau:
* Một số điều người lớn cần làm giúp trẻ rèn luyện kỹ năng sống:
Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương,
tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ.
Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ
tự tin vào năng lực của bản thân.
Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi để
lớn lên. Vì thế, người lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều
cách học khác nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền
tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui
mà vừa có ý nghĩa.
Kể chuyện cho trẻ hàng ngày bằng phương pháp mưa dầm thấm lâu: Cô
giáo, cha mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe những câu chuyện,
dành thời gian trò chuyện với con trẻ vì chuyện là kho báu của dân tộc, kể
chuyện cổ tích là con đường ngắn nhất, đơn giản hiệu quả nhất giáo dục nhân
cách cho trẻ.
*Một số điều ngừơi lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống:
- Không hạ thấp trẻ: Không nên tạo cho trẻ thói quen kiêu ngạo nhưng
cũng không nên lăng nhục trẻ.
- Không dọa nạt trẻ: Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không
giúp cho hành vi của trẻ tốt hơn.
- Không bao bọc trẻ một cách thái quá: bởi làm như vậy sẽ làm trẻ yếu
đuối. Sự bảo bọc thái qúa sẽ dẫn trẻ đến ý nghĩ rằng bản thân trẻ không thể làm
điều gì nên thân. Hãy nhớ: đừng bao giờ làm những gì mà trẻ có thể làm được.
- Không nên yêu cầu trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự
phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều
kiện phát triển tính tự lập ở trẻ
- Không yêu cầu những điều không phù hợp với lứa tuổi của trẻ vì yêu
cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán
sẽ ảnh hửơng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức ở trẻ.
- Không thúc giục trẻ trong ăn uống vì làm trẻ ăn mất ngon, mất hứng
thú đối với đồ ăn, mà còn gây cản trở nghiêm trọng cho trẻ trong việc hình thành
những thói quen ăn uống.
Qua việc đánh giá kết quả đạt được trên đây cho thấy nếu mỗi nhà trường xác
định được từng mặt giáo dục nào làm trọng tâm trong năm học. Nếu mỗi CBGV
biết lựa chọn nội dung giáo dục để lồng ghép vào các hoạt động trong ngày của
trẻ thể hiện rõ nhiệm vụ trọng tâm ấy thì kết quả mặt giáo dục đó sẽ được nâng
lên, đạt hiệu quả cao hơn.
3.2 Kiến nghị
- Kiến nghị với đồng nghiệp:
Muốn hình thành và rèn kỹ năng sống cho trẻ Mầm non thì giáo viên là người
chủ động trong việc xác định nội dung từ đó có biện pháp hình thành và rèn kỹ
năng sống cho trẻ. Có biện pháp phối kết hợp với gia đình, xã hội để việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ có hiệu quả. Cần khẳng định việc đứa trẻ thích nghi
nhanh hay chậm, hình thành những kỹ năng sống diễn ra lâu hay mau phụ thuộc
rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong việc chuẩn của người lớn.
- Kiến nghị với lãnh đạo cấp trên:
Quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí để giúp các nhà trường mầm non có
thêm kinh phí xây dựng các mô hình cho trẻ thực hành và hoạt động trãi nghiệm
qua đó nâng cao chất lượng giáo dục KNS cho trẻ.
Trên đây là một số giải pháp của bản thân khi chỉ đạo thực hiện nội dung
giáo dục kĩ năng sống cho trẻ tại trường mầm non. Trong quá trình thực hiện
chắc rằng không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự giúp đỡ, góp ý của
hội đồng khoa học nhà trường để bản sáng kiến của tôi hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Lê Thị Nhâm
Thanh Hóa, ngay 15 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Hoàng Thị Tám
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đê án “Xây dựng trường học gắn với thực tiễn va giáo dục kĩ năng sống”
UBND Huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa theo Quyết định số 1615/QĐUBND ngày 16 tháng 8 năm 2017.
2. Theo dõi sự phát triển của trẻ 3 đến 6 tuổi, Tác giả Tạ Ngọc thanh (2008), Nhà
Xuất bản giáo dục
3. Tâm lí học trẻ em,Tác giả Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2010), Nxb Giáo dục
4. Giáo trình GD học mầm non, Tác giả Nguyễn Thị Hòa (2011), Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội
5. Nghiên cứu đặc điểm phát triển của trẻ Mẫu giáo ( 3-6 tuổi), Phan Thị Ngọc
Anh(2012), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. Mã số B2010-37-83
6. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ( Bộ kĩ năng toàn tập dành cho sinh viên và
GV mầm non), Lê Bích Ngọc(2013), Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội
7. Tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng xã hội cho trẻ mẫu giáo, Chu Thị
Hồng Nhung(2014), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện Mã số V2013-09.
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Hoàng Thị Tám
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng - Trường mầm non Quảng Ngọc,
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
T
T
1.
2.
3.
Tên đề tài SKKN
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh…)
Kết quả
đánh giá xếp
loại
(A, B, hoặc C)
“Một số biện pháp huy
động va duy trì sĩ số trẻ
đến trường mầm non”
- PGD&ĐT Quảng
Xương, Thanh Hóa
C
“Một số biện pháp phối
hợp trong việc lam đồ
dùng đồ chơi cho trẻ
bằng phế liệu vật liệu
có sẵn của địa phương”
“Một số biện pháp
nâng cao chất lượng
hoạt động giáo dục thể
chất cho trẻ mầm non
nông thôn”
- PGD&ĐT Quảng
Xương, Thanh Hóa
B
- SGD&ĐT Thanh
Hóa
C
- PGD&ĐT Quảng
Xương, Thanh Hóa
C
4.
“Một số biện pháp huy
động va duy trì sĩ số trẻ
đến trường mầm non”
5.
Cấp đánh giá xếp
loại
“Một số biện pháp
nâng cao chất lượng
hoạt động giáo dục thể
chất cho trẻ mầm non
nông thôn”
2007-2008
- PGD&ĐT Quảng
Xương, Thanh Hóa
B
- SGD&ĐT Thanh
Hóa
C
- PGD&ĐT Quảng
Xương, Thanh Hóa
Năm học
đánh giá
xếp loại
2008-2009
2009-2010
2012-2013
C
2015-2016