Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ góc độ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.45 KB, 86 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình những người tạo mọi điều
kiện để tôi hoàn thành việc học cũng như thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Lê Vũ Nam – Người thầy đã
tận tình hướng dẫn, dành thời gian quý báo của mình để chỉ bảo tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu luận văn. Những kiến thức bổ ích đó đã chỉ dạy, giúp tôi
có thêm nhiều kinh nghiệm không chỉ trong suốt thời gian làm luận văn mà còn vận
dụng vào cuộc sống và công việc.
Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã nhiệt tình truyền đạt kiến thức
cho tôi trong suốt thời gian qua, đó chính là cơ sở, nền tảng giúp tôi có thể hoàn
thành tốt luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, những người đã ủng hộ, khích
lệ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Chân thành cảm ơn tất cả!
Ngày 15 tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Huỳnh Hồng Duy


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên: Huỳnh Hồng Duy, mã số học viên 7701250405A là học viên lớp
LOP_K25_MBL_CaMau; khóa K25-2 chuyên ngành Luật Kinh tế, Khoa Luật,
Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, là tác gia luận văn thạc sĩ luật học
với đề tài “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ góc độ bảo vệ quyền lợi của người gửi
tiền tại các tổ chức tín dụng”.
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong luận văn này là kết
quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đề được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và


có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn hoàn toàn có
tính khách quan và trung thực.
TÁC GIẢ

Huỳnh Hồng Duy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết tắt

Nguyên văn

01

BHTG

Bảo hiểm tiền gửi

02

TCTD

Tổ chức tín dụng

03

NHTM


Ngân hàng thương mại

04

QTDND

Quỹ tín dụng nhân dân

05

BHTGVN

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

06

NHNNVN

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................................ 2
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu ............................... 3
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 3
3.2. Giới hạn đối tượng, phạm vi nghiên cứu nghiên cứu ......................................... 3
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu..................................................................... 4
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ....................................................... 4
6. Kết cấu của luận văn ................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1 .......................................................................................................................... 5
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ ................................................................ 5
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI ............................................................................... 5
1.1. Lý luận chung về bảo hiểm tiền gửi ........................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi ................................................... 5
1.1.2. Phân loại bảo hiểm tiền gửi ............................................................................. 12
1.1.3. Vai trò của BHTG ............................................................................................. 14
1.1.4. Sự cần thiết phải bảo hiểm tiền gửi ................................................................. 18
1.1.5. Các mô hình hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi: ................................. 19
1.2. Khái quát pháp luật về bảo hiểm tiền gửi: ........................................................... 22
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi: ...................................................... 22
1.2.2. Quan hệ pháp luật về bảo hiểm tiền gửi:......................................................... 23
1.2.3. Pháp luật bảo hiểm tiền gửi là công cụ quan trọng bảo vệ người gửi tiền. ... 25
1.3. Tổng quan về người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng ......................................... 26
1.3.1. Khái niệm người gửi tiền.................................................................................. 26
1.3.2. Phân loại người gửi tiền ................................................................................... 26
1.3.3. Các quyền và lợi ích của người gửi tiền tại các TCTD ................................... 27
1.3.4. Sự cần thiết bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền ................................. 29


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN NHẰM BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI

CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG ............................................................................................ 32
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi dưới góc độ bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền ..................................................................................................... 32
2.1.1. Quy định về chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tiền gửi .............................. 33
2.1.2. Các quy định về loại tiền gửi, phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức chi trả bảo
hiểm tiền gửi. .............................................................................................................. 43
2.1.3. Hoạt động đầu tư của Bảo hiểm tiền gửi......................................................... 49
2.1.4. Quy định về thời điểm tổ chức BHTG có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho
người gửi tiền và thủ tục chi trả bảo hiểm. ............................................................... 50
2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền. .................................................................................................... 55
2.2.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định pháp luật BHTG trong việc
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ........................................................................... 55
2.2.2. Các nguyên tắc và định hướng cơ bản hoàn thiện các quy định pháp luật bảo
hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền................................... 60
2.2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi nhằm
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. .......................................................................... 61
2.2.4. Các giải pháp hỗ trợ cho việc hoàn thiện pháp luật về BHTG ....................... 71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................................. 74
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn đất nước đang thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hóa thì nhu cầu huy động các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng ngày

càng tăng lên theo xu thế phát triển của xã hội. Kèm theo sự tăng lên về nhu cầu đó
là những rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ này cũng tăng lên do quá trình
cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh.
Trong khi các tổ chức tín dụng thường là một bộ máy to lớn với nhiều khâu
quản lý, điều hành chuyên nghiệp thì người gửi tiền ở đây đơn thuần chỉ là những tổ
chức, cá nhân với những khoản tiền gửi nhằm mục đích chủ yếu là gửi tiết kiệm,
đầu tư sinh lời. Đặc biệt, đối với người gửi tiền là các cá nhân thì đó là những khoản
tiền dành dụm, chắt chiu của họ gửi gắm niềm tin vào ngân hàng vì muốn sự an
toàn cho số tiền gửi của họ thì việc bảo vệ quyền, lợi ích của những con người này
là việc làm hết sức cần thiết và ý nghĩa. Họ cần một cơ chế để bảo vệ cho họ khi mà
nơi họ đã tin tưởng, đặt niềm tin khi tham gia gửi tiền gặp sự cố trong kinh doanh,
không còn khả năng thanh toán cho số tiền họ đã bỏ ra.
Hiện nay, để tồn tại và phát triển, các Tổ chức tín dụng (TCTD) phải nổ lực
cạnh tranh bằng nhiều hình thức khác nhau để có thể kêu gọi các nguồn vốn từ bên
ngoài có hiệu quả nhất, từ đó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền càng
có nhiều sự lựa chọn, hưởng được nhiều chính sách ưu đãi hơn từ các TCTD. Ngoài
ra, trong bối cảnh Việt Nam đang ra sức tham gia hội nhập với nền kinh tế thế giới,
bên cạnh những thuận lợi, những ưu đãi mà Việt Nam được hưởng trong quá trình
này thì những khó khăn, thách thức và sức ép to lớn từ hội nhập, việc các TCTD
nước ngoài với nguồn, tiềm năng vốn dồi dào được tự do cạnh tranh với các TCTD
trong nước là thử thách khó khăn, to lớn đối với các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng
chưa có chiến lược cạnh tranh phù hợp, rỏ ràng của Việt Nam. Hậu quả là sự tồn tại
và phát triển của các TCTD có năng lực cạnh tranh thấp, quy mô vốn, năng lực
quản lý chưa đủ sức phòng ngừa, xử lý những rủi ro đối với những hệ lụy xảy ra
trong quá trình cạnh tranh,… có nguy có rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán,


2

gây thiệt hại cho toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và ảnh hưởng đến quyền và lợi

ích của người gửi tiền là điều không tránh khỏi. Một trong những công cụ để phòng
ngừa rủi ro đối với hoạt động của các TCTD đang được áp dụng phổ biến hiện nay
đó là Bảo hiểm tiền gửi (BHTG).
Có vai trò hết sức quan trọng với sự tồn tại, phát triển của hệ thống các
TCTD và nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi
vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa bảo vệ lợi
ích của nhà đầu tư. Tác giả nhận thấy việc nghiên cứu và đánh giá một cách toàn
diện pháp luật bảo hiểm tiền gửi trên phương diện pháp lý, có sự đối chiếu với thực
tiễn để làm rỏ những ưu điểm và những hạn chế, tồn tại của pháp luật Việt Nam
hiện hành về Bảo hiểm tiền gửi dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi
tiền, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi của Việt
Nam là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Từ những lý do trên, tác giả lựa
chọn đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi từ góc độ bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền tại các tổ chức tín dụng” để làm luận văn tốt nghiệp cao học ngành luật của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xét về góc độ đảm bảo an toàn cho tiền gửi đã có nhiều tác giả, bài viết
nghiên cứu lựa chọn làm đề tài khoa học, luận văn tốt nghiệp như “Các giải pháp
phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”- Luận án tiến sĩ kinh tế của tác
giả Nguyễn Thị Kim Oanh, bảo vệ tại Học viện Quốc gia vào năm 2004; “Giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ kinh
tế của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền, bảo vệ tại Học viện chính sách và phát triển
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào năm 2014,… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
trên chủ yếu nghiên cứu ở góc độ các vấn đề kinh tế, không tập trung trọng tâm vào
các quy định của pháp luật, các vấn đề pháp lý đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó cũng có một số công trình nghiên cứu ở góc độ pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi như “Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam” luận án
tiến sĩ của tác giả Hoàng Thu Hằng, bảo vệ tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội



3

vào năm 2013; “Bảo hiểm tiền gửi – quy định của pháp luật và áp dụng thực tiễn” –
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Diệu Linh, bảo vệ tại trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2009;… các nghiên cứu trên cũng chỉ tập trung
giải quyết các vấn đề pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, chưa nghiên cứu sâu đến các
quyền lợi, lợi ích khác về pháp luật liên quan đến người gửi tiền.
Vì vậy, việc tập trung nghiên cứu để hoàn thiện hơn các quy định của pháp
luật về bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức
tín dụng trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn Việt Nam đang ra sức hội nhập với nền
kinh tế chung của thế giới thì đây là việc làm hết sức cần thiết.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề còn bất cập, vướng mắc về pháp luật
hiện hành của bảo hiểm tiền gửi đang tác động trực tiếp, gián tiếp đến quyền lợi của
người gửi tiền tại các TCTD. Tìm hiểu những khó khăn, trăn trở của người gửi tiền
để làm rỏ hơn các hạn chế của hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi hiện nay;
đồng thời đề xuất một số giải pháp của bản thân nhằm tiếp tục phát huy những ưu
điểm và giải pháp khắc phục các hạn chế, khuyết điểm để góp phần hoàn thiện hơn
hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, tạo niềm tin cho người gửi tiền khi gửi tiền
tại các tổ chức tín dụng, giúp họ yên tâm sản xuất, lao động và kinh doanh,… góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3.2. Giới hạn đối tượng, phạm vi nghiên cứu nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu thực tiễn việc áp dụng pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của người gửi tiền tại các TCTD. Các
chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tiền gửi, loại tiền được bảo hiểm, phí bảo hiểm
tiền gửi, hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, thời điểm chi trả bảo hiểm và thủ tục chi
trả bảo hiểm tiền gửi khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh. Từ đó lý giải những nội
dung mang tính thực tiễn về thực trạng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.
Dưới góc độ nhìn nhận, đánh giá những thành tựu cũng như hạn chế của những quy



4

định về những vấn đề trên, luận văn sẽ đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng biện pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để giải quyết các vấn đề khoa học và thực tiễn một cách toàn diện
nhất. Ngoài ra, luận văn sẽ phân tích các vấn đề và tìm ra phương hướng giải quyết
trên nguyên tắc tổng hợp, thống kê các thông tin thu thập, so sánh nhiều thông tin
khác nhau nhằm đảm bảo tính chính xác, thực tế của các vấn đề và cách giải quyết
trong khuôn khổ luận văn này.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn nghiên cứu các vấn đề trên cơ sở khoa học và thực tiễn, các vấn đề
và cách giải quyết của tác giả hi vọng góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật
về bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của người gửi tiền tại các TCTD,
tạo thêm niềm tin của người gửi tiền đối với các TCTD.
Sau khi nghiên cứu hoàn thành, luận văn cũng có thể là tài liệu để các cá
nhân, tổ chức có nhu cầu nghiên cứu đến lĩnh vực này tìm đến, phục vụ nhu cầu cá
nhân hoặc nhu cầu giảng dạy, học tập,… Đặc biệt, đây là hành trang quan trọng đối
với tác giả trong việc nghiên cứu cao hơn về lĩnh vực này trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 02 chương, bao gồm:
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM TIỀN GỬI
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN NHẰM BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI GỬI
TIỀN



5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1. Lý luận chung về bảo hiểm tiền gửi
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Nói đến lịch sử hình thành các khái niệm cơ bản về bảo hiểm tiền gửi thì Mỹ
là một trong những quốc gia tiên phong trên thế giới trong hình thành các hình thức
về bảo vệ tiền gửi, “Mỹ là quốc gia đầu tiên trên thế giới hình thành hệ thống
BHTG. Tổng Công ty BHTG Liên bang Mỹ (FDIC) thành lập ngày 16/6/1993. Tính
đến nay, số TCTD hiện tại đang hoạt động và đang được bảo lãnh bởi FDIC lên tới
6656”1.
Nguồn gốc ra đời của BHTG là xuất phát từ hoạt động “bảo vệ tiền gửi công
khai”. Bảo vệ tiền gửi công khai là chính sách đảm bảo tất cả hoạt một phần tiền gửi
cùng với tiền lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được thanh toán cho người gửi
tiền theo cơ chế hợp đồng hoặc cam kết công khai2. Bảo vệ tiền gửi công khai xuất
hiện đầu tiên ở New York vào năm 1892 với tên gọi “Chương trình bảo hiểm trách
nhiệm ngân hàng”3.
Còn theo quy chế bảo hiểm của Công ty BHTG Canada, quy định:
Bảo hiểm tiền gửi bảo vệ những khoản tiền gửi quy định tại các tổ chức
thành viên của hệ thống bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp tổ chức thành viên bị
phá sản. Nếu một tổ chức thành viên bị phá sản, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng
ra bồi thường cho thành viên bị phá sản, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra bồi
thường cho những người gửi tiền tại tổ chức đó.

1


Nguyễn Thị Thu Trang, “Hoạt động bảo hiểm tiền gửi (BHTG), kinh nghiệm một số nước trên thế giới”,
Truy
cập này 20/3/2017
2
Nguyễn Thị Kim Oanh(2009), “Nghiên cứu bảo hiểm tiền gửi trên thế giới”, Bản tin Đại học quốc gia Hà
Nội, (số 220), tr.21.
3
Nguyễn Thị Kim Oanh (2009), tlđd số 220, tr.30.


6

Nhìn chung, BHTG là một loại dịch vụ bảo hiểm, theo đó nghĩa vụ chi trả
trong tương lai các khoản tiền gửi của người gửi tiền tại các tổ chức tham gia
BHTG được bảo đảm khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Khi tham gia tổ chức BHTG, các tổ chức
huy động tiền gửi phải đóng góp một khoản chi phí nhất định theo một định kỳ nhất
định, khoản chi phí này là một trong những nền tảng cơ bản duy trì hoạt động của tổ
chức BHTG. Trường hợp các tổ chức huy động tiền gửi bị phá sản, bị lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán, tổ chức BHTG sẽ đứng ra thanh toán một số tiền
phù hợp với hạn mức chi trả tối đa theo quy định của pháp luật cho người gửi tiền
tại các tổ chức huy động tiền gửi đó.
Ở Việt Nam, Nghị định số 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 9
năm 1999 về BHTG và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 24
tháng 8 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 đã không đưa ra khái niệm về BHTG.
Mãi đến khi Luật BHTG được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18
tháng 6 năm 2012 (Luật bảo hiểm tiền gửi năm 2012) Việt Nam chính thức có khái
niệm đầu tiên về BHTG: “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền cho người

được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền
hoặc phá sản”4. Khái niệm này đã xác định rỏ thời điểm tổ chức BHTGVN có nghĩa
vụ chi trả trong hạn mức cho người gửi tiền là khi tổ chức tham gia BHTG lâm và
tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.
1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi:
BHTG là một loại hình bảo hiểm đặc biệt chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị
trường. Bên cạnh những đặc tính, bản chất chung của hình thức bảo hiểm là một
phương thức chia sẻ hoặc giảm thiểu rủi ro bằng cách biến tổn thất cá thể thành tổn
thất cộng đồng và có thể dự tính, ngăn ngừa, hạn chế rủi ro thì BHTG còn có những
nét khác biệt, mang tính chất đặc thù, được thể hiện như sau:
4

Khoản 1 Điều 4 Luật BHTG năm 2012.


7

Thứ nhất, BHTG là loại nghiệp vụ bảo hiểm phi thương mại: Thông thường
tổ chức đứng ra thực hiện nhiệm vụ BHTG là các định chế do nhà nước thành lập và
cấp vốn hoạt động. Các tổ chức này thường hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận
mà vì mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy
trì sự ổn định của toàn hệ thống ngân hàng. Ngoài những mục tiêu chính đó, hoạt
động BHTG còn tạo ra một môi trường cạnh tranh để các ngân hàng nhỏ, mới thành
lập có thể cạnh tranh được với các ngân hàng có quy mô lớn, lâu đời; tăng cường
tiết kiệm và khuyến khích tăng trưởng kinh tế; xác định mức độ can thiệp của Chính
phủ đối với các thiệt hại xảy ra khi một các tổ chức tín dụng bị mất khả năng thanh
toán hoặc phá sản. Hoạt động này không nhằm mục tiêu sinh lời mà thực hiện
những mục tiêu xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng. Điều này giúp phân biệt
BHTG với các loại hình bảo hiểm khác hoạt động theo luật kinh doanh bảo hiểm

như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản,… Hiện nay, có hơn 33 quốc gia tổ chức
BHTG theo hình thức này5. Tuy nhiên, ở ở một số nước, BHTG là hoạt động bảo
hiểm mang tính thương mại, thực hiện theo nguyên tắc hạch toán. Điển hình là
BHTG tại Đức, quỹ BHTG do hiệp hội ngân hàng thương mại (NHTM) Đức tổ
chức6. Quỹ bảo hiểm tiền gửi được thành lập với mục đích tương trợ các ngân hàng
hội viên để đảm bảo an toàn cho hệ thống. Các ngân hàng thành viên của hiệp hội
có nghĩa vụ đóng góp phí bảo hiểm vào quỹ bảo hiểm. Tổ chức thực hiện BHTG có
quyền tiến hành đầu tư tìm kiếm lợi nhuận dựa trên vốn nhàn rỗi đó.
Thứ hai, BHTG là loại hình dịch vụ thuộc hàng hóa công không thuần túy7,
BHTG hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền tại các TCTD,
mang tính chất bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng. Xuất phát từ một trong các mục
đích của hoạt động BHTG là góp phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính
quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ BHTG là toàn xã hội.

5

Bùi Thị Kim Ngân (2010), Kinh nghiệm của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Hoa Kỳ trong việc xử lý các ngân
hàng bị đỗ vỡ và bài học cho Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Đại học Ngoại thương, tr.5.
6
Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.14
7
Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Các giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, luận án
tiến sỹ kinh tế,bảo vệ tại Học viện ngân hàng năm 2004, tr.9.


8

Tổ chức BHTG có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại
các TCTD có tham gia BHTG khi các TCTD đó mất khả năng thanh toán. Tổ chức
nhận tiền gửi cũng là đối tượng được hưởng lợi từ dịch vụ BHTG ở chổ tính ổn định

của hệ thống tài chính giúp cho họ sử dụng tiền vay được an toàn và có trách nhiệm
hơn đối với những khoản tiền đó. Chính vì đặc tính không loại trừ thụ hưởng tuyệt
đối mà dịch vụ BHTG được xếp vào hàng hóa không thuần túy. Bên cạnh đó, hoạt
động BHTG cũng như của tổ chức BHTG không chịu sự điều chỉnh của Luật Bảo
hiểm như các loại bảo hiểm tài sản khác mà theo quy định của Luật chuyên ngành
như Luật ngân hàng, Luật bảo hiểm tiền gửi,..
Thứ ba, BHTG là loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Bởi nghĩa vụ thực
hiện trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền của các TCTD chính là
một trách nhiệm dân sự và BHTG là tổ chức đứng ra làm thay cho các TCTD những
nghĩa vụ đó. Trách nhiệm dân sự này phát sinh từ hợp đồng huy động tiền gửi được
ký kết giữa người gửi tiền và các TCTD. Khác với các loại bảo hiểm thương mại
như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản,… một khi TCTD huy động tiền gửi có
tham gia BHTG mà bị mất khả năng thanh toán thì trong hoạt động BHTG, trách
nhiệm này sẽ được chuyển giao cho tổ chức BHTG. Số tiền vượt quá hạn mức chi
trả tiền gửi được bảo hiểm cho mỗi khoản tiền gửi của người gửi tiền sẽ được nhận
trong quá trình thanh lý, tổ chức tham gia BHTG với thứ tự ưu tiên về vị trí chủ nợ
theo quy định của pháp luật về giải thể hoặc phá sản.
Thứ tư, chủ thể tham gia BHTG là những chủ thể đặc thù: khác với các loại
hình bảo hiểm khác như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản,… (gọi chung là các
loại hình bảo hiểm thương mại), thì chủ thể tham gia BHTG có nhiều điểm đặc thù
hơn. Cụ thể là khi gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi, người gửi tiền không phải
làm các thủ tục để tham gia BHTG. Chỉ có tổ chức nhận tiền gửi mới có trách
nhiệm tham gia BHTG. Người gửi tiền sẽ đương nhiên được tổ chức BHTG bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp khi tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán hoặc
phá sản. Tuy nhiên, không có bất kỳ hợp đồng bảo hiểm nào được hình thành giữa
người gửi tiền và tổ chức BHTG.


9


Một điểm đáng lưu ý nữa là người nộp phí BHTG trong mọi trường hợp luôn
tách rời với người thụ hưởng bảo hiểm. Người nộp phí BHTG luôn là tổ chức huy
động tiền gửi. Còn người gửi tiền trong mọi trường hợp luôn là người thụ hưởng
bảo hiểm.
Thứ năm, đối tượng được bảo hiểm là nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gửi
tại các tổ chức có hoạt động huy động tiền gửi: Trong khi đối tượng được bảo hiểm
của các bảo hiểm thương mại khác chính là tính mạng, sức khỏe, tài sản,… được
thỏa thuận trực tiếp giữa doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm với người tham gia bảo
hiểm. Sau khi hợp đồng bảo hiểm đã được hình thành thì việc bảo hiểm của BHTG
được phát sinh một cách tự động. Đó là nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gửi của
tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền.
Việc xác định loại tiền gửi nào được bảo hiểm là cơ sở tính phí BHTG định
kỳ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia. Nguyên tắc hoạt động BHTG
nói chung là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền với số
lượng không lớn. Tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của cá nhân bằng nội tệ là loại tiền
gửi mà đến nay tất cả các hệ thống BHTG trên thế giới đều bảo vệ. Việc loại trừ
những khoản tiền gửi được bảo hiểm cũng như quy định mức BHTG tối đa nhằm
giảm thiểu rủi ro cho tổ chức BHTG và nâng cao trách nhiệm quản lý hoạt động
kinh doanh của các tổ chức tham gia BHTG. Các khoản tiền gửi không được bảo
hiểm thường là bằng ngoại tệ hoặc tiền của các tổ chức. Việc quyết định bảo hiểm
cho đồng ngoại tệ hay không là một vấn đề cần nghiên cứu kỹ đối với mỗi quốc gia.
Ở những quốc gia mà tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm tỷ lệ thấp, các giao dịch chủ yếu
được thực hiện thông qua đồng nội tệ thì việc loại trừ đối tượng bảo hiểm là đồng
ngoại tệ là điều dễ dàng được chấp nhận. Còn ở những nước đang phát triển, việc
loại trừ bảo hiểm đối với đồng ngoại tệ thường gắn với lý do là nhằm ngăn chặn
tình trạng đô la hóa hoặc ngoại tệ hóa nền kinh tế.
Thứ sáu, cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể tham gia
BHTG được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật: Các sản phẩm
bảo hiểm thương mại khác cũng là các văn bản quy phạm pháp luật nhưng đó là



10

những văn bản pháp luật quy định về vấn đề kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm.
Khác với các dịch vụ bảo hiểm thương mại khác, trong quan hệ BHTG sẽ
không có việc thỏa thuận giữa tổ chức tham gia BHTG và tổ chức BHTG, giữa
người gửi tiền và tổ chức BHTG. Tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền cũng như
tổ chức BHTG không thể tự thỏa thuận với nhau để thay đổi một nội dung nào đó
nếu không đồng ý, do đó không xuất hiện hợp đồng BHTG giữa tổ chức BHTG và
các tổ chức tham gia BHTG vì hợp đồng phải dựa trên cơ sở thỏa thuận, còn mối
quan hệ giữa các chủ thể tham gia BHTG là theo hình thức bắt buộc, BHTG là loại
hình dịch vụ thực hiện chính sách công của Nhà nước với mục tiêu là bảo vệ người
gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của hệ thống tài
chính – ngân hàng, nên ở đây hoàn toàn không có sự cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt
động BHTG như các sản phẩm bảo hiểm thương mại khác. Khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm, việc thanh toán của tổ chức tham gia BHTG sẽ được thực hiện căn cứ vào
việc tham gia BHTG của tổ chức huy động tiền gửi, tuân theo các quy định tại các
văn bản pháp luật mà không có sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể trên cơ sở hợp
đồng như bảo hiểm thương mại.
Thứ bảy, về cơ chế bảo hiểm: Đối với các loại hình bảo hiểm thương mại,
khi chủ thể tham gia bảo hiểm sẽ xuất hiện mối quan hệ trực tiếp giữa tổ chức bảo
hiểm với tổ chức tham gia bảo hiểm (đối tượng được bảo hiểm). Còn ở BHTG, khi
gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi, người gửi tiền không phải làm các thủ tục để
tham gia BHTG mà tổ chức nhận tiền gửi phải có trách nhiệm tham gia BHTG. Ở
đây, xuất hiện mối quan hệ ba bên, đó là mối quan hệ giữa tổ chức tham gia BHTG
và người gửi tiền (khi người dân gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi); mối quan
hệ giữa tổ chức BHTG và tổ chức nhân tiền gửi; mối quan hệ giữa tổ chức BHTG
với người gửi tiền (khi tổ chức nhận tiền gửi bị giải thể). Hiện nay, theo quy định
của pháp luật về BHTG của nhiều nước, bất cứ một TCTD nào có hoạt động nhận
tiền gửi từ dân cư thì điều này phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc.

Thứ tám, phí bảo hiểm hình thành trên cơ sở quy định của pháp luật mà
không dựa trên sự thỏa thuận của các bên tham gia BHTG: Phí BHTG là khoản phí


11

do pháp luật quy định. Các bên tham gia quan hệ BHTG không thể thỏa thuận về
mức phí như các loại hình bảo hiểm khác. Các hệ thống BHTG trên thế giới thường
đứng trước sự lựa chọn hai loại phí bảo hiểm: phí đồng hạn hoặc phí căn cứ vào
mức độ rủi ro của từng ngân hàng. Các nước khi mới thành lập hệ thống BHTG
thường áp dụng mức phí bảo hiểm đồng hạng để dễ thực hiện và quản lý. Tuy
nhiên, chế độ phí này không đề cập tới mức độ rủi ro của từng ngân hàng đối với hệ
thống nên không đảm bảo tính công bằng, dễ gây những phản ứng từ các ngân hàng
hoạt động tốt, có quy mô và uy tín hơn trên thị trường. Do vậy, xu hướng những
năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, các nước chuyển sang chế độ tính phí theo mức
độ rủi ro. Theo cách tính này, cơ sở để xác định tỷ lệ phí BHTG là kết quả phân loại
tổ chức tham gia BHTG. Ngân hàng nào hoạt động với mức độ rủi ro lớn sẽ phải
chịu tỷ lệ phí BHTG cao, ngược lại ngân hàng nào hoạt động tốt, rui ro thấp sẽ được
áp dụng tính phí thấp và còn có thể được miễn phí.
Việc tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham
gia BHTG tạo ra cơ chế đối xử bình đẳng giữa các tổ chức này và thể hiện xu thế thị
trường trong hoạt động BHTG. Bên cạnh đó, nó còn góp phần hạn chế rủi ro đạo
đức phát sinh. Nếu áp dụng một mức phí, các ngân hàng dễ dàng hoạt động bất cẩn,
huy động vốn lãi suất cao, hoạt động đầu tư với mức độ rủi ro lớn và luôn an tâm
với các khoản tiền gửi của khách hàng vẫn được bảo hiểm khi bị mất khả năng
thanh toán. Trong trường hợp này, hệ thống ngân hàng dễ bị lâm vào tình trạng
khủng hoảng do các ngân hàng bị “yếu đi”, mất uy tín trên thương trường và tổ
chức chi trả bảo hiểm cũng phải chịu hậu quả nặng nề liên quan đến các khoản chi
phí bảo hiểm cho người gửi tiền8.
Thứ chín, BHTG là loại hình bảo hiểm bắt buộc: Tại nhiều quốc gia có hoạt

động BHTG trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đều quy định việc tham gia BHTG
là bắt buộc. Quy định này đã tạo nên sự bình đẳng giữa các TCTD có quy mô hoạt
động khác nhau trong hệ thống tài chính ngân hàng, cũng như đảm bảo nguyên tắc
8

Rủi ro đạo đức là rủi ro xuất phát từ hành vi cư xử thiếu đạo đức của những chủ thể hưởng lợi ích từ BHTG,
qua đó tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển lành mạnh của tổ chức BHTG. Rủi ro đạo đức có thể
xuất phát từ hành vi chủ yếu của người hưởng lợi là người gửi tiền hoặc tổ chức tham gia BHTG.


12

lấy “số đông bù số ít” của loại hình dịch vụ bảo hiểm. Điều này là hợp lý vì BHTG
là hoạt động mang tính chất công, nó không đơn thuần chỉ là hoạt động chia sẻ rủi
ro mà nó còn phục vụ công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng. Hơn
nữa, trong kinh doanh ngân hàng, tính lan truyền cao, dễ gây ảnh hưởng đến toàn hệ
thống các TCTD khi có sự cố xảy ra.
Trong khi đó, người tham gia bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ,…
là bất kỳ cá nhân nào có nhu cầu nhận dịch vụ bảo hiểm thương mại. Nói cách khác,
việc tham gia bảo hiểm thương mại phần lớn dựa trên tinh thần tự nguyện của các
chủ thể tham gia. Đây là một trong những điểm khác biệt quan trọng nhất của
BHTG với các loại hình bảo hiểm thương mại khác.
Ngoài sự khác biệt cơ bản nêu trên, giữa BHTG và các loại hình bảo hiểm
thương mại khác còn có sự khác nhau về mô hình tổ chức, về cách tổ chức hoạt
động9.
Tóm lại, BHTG là một định chế tài chính, được Nhà nước sử dụng để bảo vệ
người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh của hoạt động
ngân hàng. BHTG là nơi người gửi tiền gửi gắm niềm tin tại các tổ chức tín dụng,
góp phần thúc đẩy quy trình huy động vốn để phát triển kinh tế đất nước. Chính vai
trò quan trọng của hệ thống BHTG đối với quốc gia nên các nước rất chú trọng đến

việc xây dựng và phát triển hệ thống BHTG.
1.1.2. Phân loại bảo hiểm tiền gửi
Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, có thể chia BHTG thành những loại
khác nhau.
Một là, căn cứ theo đối tượng bảo hiểm, BHTG được phân thành 2 loại
BHTG đối với cá nhân và BHTG đối với tổ chức.
BHTG đối với cá nhân tức là đối tượng được BHTG là những cá nhân có tiền
gửi tại các TCTD. Tùy theo chính sách của mỗi quốc gia mà tiền gửi của đối tượng
là cá nhân có thể được xác định là tiền riêng của cá nhân, vợ chồng hay đồng sở hữu
9

Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học, của Văn phòng Quốc hội (2008), Vai trò của tổ chức
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an sinh xã hội, Chuyên đề nghiên
cứu chuyên sâu.


13

đứng tên của cá nhân mà tiền gửi này không đại diện cho bất kỳ cơ quan, tổ chức
nào. Nhìn chung, chính sách BHTG của các quốc gia trên thế giới đều BHTG cho
đối tượng này vì mục tiêu của BHTG là bảo vệ quyền lợi cho những người gửi tiền
nhỏ lẻ, thiếu thông tin, không có điều kiện tham gia sản xuất kinh doanh.
BHTG đối với tổ chức: tổ chức có thể được hiểu là hai hay nhiều người cùng
làm việc, phối hợp với nhau để đạt kết quả chung, gồm các tổ chức kinh tế, các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Với chính sách BHTG đối với
tổ chức thì các đối tượng nêu trên sẽ được BHTG khi có tiền gửi tại các tổ chức có
tham gia BHTG. Tùy theo chính sách của các nước mà tiền gửi của tổ chức có thể
được bảo hiểm hoặc không. Việc không bảo hiểm cho tiền gửi của các tổ chức
thường gắn với lý do tiền gửi này không nhằm mục đích tiết kiệm mà thường được
dùng để thanh toán, tính luân chuyển cao, được quản lý chặt chẽ bởi chế độ quản lý

của tổ chức nên ít có vấn đề thiếu thông tin về tổ chức huy động tiền gửi.
Hai là, căn cứ theo loại tiền gửi được bảo hiểm, BHTG được phân thành 3
loại, gồm: BHTG đối với tiền gửi là đồng nội tệ, BHTG đối với tiền gửi là đồng
ngoại tệ và BHTG đối với tiền gửi là vàng, kim khí, đá quý.
BHTG đối với đồng nội tệ: đối tượng được bảo hiểm là đồng tiền do các
quốc gia phát hành (đồng bản tệ). Đây là loại tiền gửi được bảo hiểm trong chính
sách BHTG của hầu hết các quốc gia có sử dụng BHTG như một công cụ giám sát
tài chính.
BHTG đối với đồng ngoại tệ: loại tiền gửi được bảo hiểm theo chính sách
này là đồng tiền nước ngoài hoặc đồng tiền chung của một nhóm nước được gửi tại
các tổ chức huy động tiền gửi từ công chúng.
BHTG đối với vàng, kim loại quý: vàng bao gồm vàng thuộc dự trữ nhà
nước, vàng trên tài khoản nước ngoài của người cư trú, vàng khối, vàng thỏi, vàng
miếng. Do vàng cũng là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người dân thì một khi
các tổ chức có huy động tiền gửi là vàng, kim loại quý thì dây cũng là thuộc đối
tượng được bảo hiểm tiền gửi.


14

1.1.3. Vai trò của BHTG
1.1.3.1. Bảo hiểm tiền gửi góp phần bảo vệ người gửi tiền, góp phần củng cố
và nâng cao niềm tin của người gửi tiền
Trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ người tiêu dùng nói chung và bảo vệ
người gửi tiền nói riêng là yêu cầu đặt ra đối với mỗi quốc gia. Bảo vệ người tiêu
dùng là để đảm bảo cân bằng giữa sự phát triển và đảm bảo quyền lợi của người dân
trong xã hội
Vai trò của BHTG xuất phát từ bản chất của hoạt động tài chính luôn gắn
liền với yếu tố niềm tin, mang tính nhạy cảm và có tính lan truyền cao. Trong hoạt
động tài chính ngân hàng, nếu niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống này bị mất

đi, điều đó không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của một TCTD đơn lẻ mà còn tác
động đến toàn bộ nền kinh tế.
Có thể nói, niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống tài chính ngân hàng
là rất quan trọng, và một trong những mối quan tâm của người người tiền là tính an
toàn của tiền gửi và tính ổn định trong hoạt động ngân hàng. Sự ra đời của BHTG
đã tạo ra và củng cố niềm tin của người gửi tiền khi chọn các tổ chức tham gia
BHTG là nơi gửi tiền. Niềm tin của người gửi tiền vào độ an toàn của tiền gửi được
thể hiện ngay từ lúc người gửi tiền lựa chọn TCTD nào để gửi tiền, đặc biệt thể hiện
rỏ nhất trong trường hợp tổ chức huy động tiền gửi gặp rủi ro gây ra tình trạng mất
khả năng thanh toán. BHTG xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng đối với
hệ thống ngân hàng thông qua một số hoạt động như:
Thứ nhất, tổ chức BHTG cung cấp đầy đủ hơn cho công chúng thông tin về
các ngân hàng ở một mức độ nào đó, giúp họ nắm bắt được tình hình hoạt động của
ngân hàng. Khi đó, họ lựa chọn được nơi gửi tiền tin cậy mà họ cảm thấy yên tâm
nhất.
Thứ hai, tổ chức BHTG thực hiện các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rủi ro đối
với tổ chức tham gia BHTG, hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG khi gặp khó khăn
về tài chính nhằm phục hồi hoạt động của tổ chức đó.


15

Thứ ba, khi tổ chức tham gia BHTG bị giải thể hoặc phá sản, BHTG sẽ tham
gia vào quá trình xử lý tổ chức bị đổ vỡ, đồng thời thực hiện chi trả tiền gửi cho
người gửi tiền (bao gồm cả phần tiền gốc và lãi phát sinh trên phần gốc) với mức
chi trả tối đa theo quy định của phát luật.
Qua đó cho thấy BHTG có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và củng cố
niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính – ngân hàng. Và một khi quyền
lợi của người gửi tiền được bảo đảm thì thực tế cho thấy, BHTG góp phần củng cố
lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Như vậy, sự ra đời của BHTG và

hoạt động tích cực của tổ chức này chính là chỗ dựa quan trọng cho các TCTD
trong việc củng cố, duy trì và làm tăng lòng tin của dân chúng cũng như toàn xã hội
trong việc mở rộng hoạt động huy động vốn.
1.1.3.2. Bảo hiểm tiền gửi góp phần xử lý khủng hoảng tài chính.
Hầu hết các cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới bùng nổ đều do ảnh
hưởng từ hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng, do đây là hoạt động mang
nhiều tính rủi ro và đổ vỡ theo dây chuyền, đôi khi chỉ vì những tin đồn không
chính xác mà không phải xuất phát từ nguyên nhân sâu xa do hoạt động của một
TCTD yếu kém nào đó. Trường hợp này, BHTG có những hoạt động quan trọng
công khai hỗ trợ tài chính, là “lá chắn” quan trọng để ngăn chặn hiện tượng đó.
BHTG sẽ chịu trách nhiệm chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức nhận tiền
gửi mất khả năng thanh toán, hoạt động hỗ trợ tài chính dưới các hình thức cho vay,
bảo lãnh, mua lại nợ, ngăn chặn sự phát triển của các khoản nợ xấu, nợ khó đòi, hạn
chế những rủi ro tiềm ẩn dẫn đến sự đổ vỡ của các TCTD, đối với các TCTD trước
khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, từ đó giữ lòng tin của người dân,
tránh hiện tượng người gửi tiền ào ạt rút tiền khi có một TCTD bị mất khả năng
thanh toán10.
Chính vì thế, xuyên suốt quá trình phát triển của hệ thống tài chính hiện đại,
các nhà hoạch định chính sách luôn coi BHTG là một công cụ quan trọng nhằm bảo
vệ quyền lợi của người gửi tiền và góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính. Điều
10

Lê Thị Thu Thủy (2008), “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam”. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
tr.23.


16

đó lý giải tại sao hệ thống BHTG đầu tiên trên thế giới hình thành sau khi xảy ra
khủng hoảng tài chính ở Mỹ và hàng loạt các quốc gia ở khu vực Châu Á thành lập

hệ thống BHTG sau khi xảy ra khủng hoảng tài chính, kinh tế trong khu vực. Có thể
thấy, ở một quốc gia mà hoạt động của hệ thống BHTG thực hiện hiệu quả thì việc
xử lý khủng hoảng tài chính ở quốc gia đó sẽ tốt hơn và ngược lại.
1.1.3.3. Bảo hiểm tiền gửi tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tín
dụng
Ngoài chức năng, nhiệm vụ lớn nhất là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền,
BHTG còn là một công cụ tạo nên sự phát triển, cạnh tranh lành mạnh trong hoạt
động của các TCTD trên thị trường. BHTG đã tạo ra thị trường bình đẳng cho tất cả
các TCTD, đặc biệt là TCTD có quy mô hoạt động nhỏ, năng lực cạnh tranh còn
hạn chế. Bên cạnh đó, yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân
hàng. Trong cuộc chạy đua giành thị phần khách hàng, thông thường lợi thế cạnh
tranh sẽ thuộc về các TCTD có quy mô lớn và uy tín hơn hoặc các TCTD được đảm
bảo hoạt động bởi nguồn vốn Nhà nước. Nếu không có BHTG thì thông thường
người gửi tiền sẽ có cảm giác yên tâm hơn khi gửi tiền tại các TCTD này. Tuy
nhiên, nếu có hoạt động của hệ thống BHTG thì họ cũng có thể lựa chọn nhiều
TCTD khác nhau, những TCTD có quy mô nhỏ nếu tổ chức đó có tham gia BHTG,
điều đó vẫn đảm bảo an toàn cho khoản tiền gửi của họ và thúc đẩy hoạt động tín
dụng phát triển bình đẳng, tránh tình trạng người gửi tiền chỉ quan tâm, ưu tiên và
tin tưởng khi gửi tiền tại các TCTD có quy mô lớn hoặc loại hình khác nhau.
Ngoài ra, bên cạnh BHTG đồng hạng, việc quy định mức phí BHTG trên cơ
sở xác định mức độ rủi ro được xây dựng trên kết quả đánh giá, xếp loại rủi ro của
các TCTD đã thúc đẩy các TCTD không ngừng cạnh tranh với nhau để giảm thiểu
rủi ro, nâng cao an toàn trong hoạt động của mình để được hưởng mức phí BHTG
thấp, thúc đẩy các TCTD hoạt động có trách nhiệm hơn đối với khách hàng và đối
với chính TCTD, bản thân ngân hàng đó11.

11

Nguyễn Thị Diệu Linh (2009), Bảo hiểm tiền gửi – quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, luận văn Thạc
sỹ luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.20.



17

1.1.3.4. Bảo hiểm tiền gửi góp phần thúc đẩy việc huy động các nguồn vốn
cho đầu tư phát triển đất nước
Huy động vốn trong dân để phục vụ phát triển là yêu cầu quan trọng đặt ra
đối với mỗi nền kinh tế, đặc biệt ở những nước đang phát triển thì nhu cầu này càng
cao hơn. Nhà nước sử dụng nhiều kênh để thu hút nguồn vốn đầu tư, trong đó thu
hút vốn đầu tư qua các TCTD được xem là một trong những kênh quan trọng nhất.
Để thu hút được vốn trong dân tức là người dân cần có hành động gửi tiền và các
ngân hàng thay vì cất giữ dưới dạng vàng, ngoại tệ, bất động sản hoặc cất giữ ở nhà.
Do đó, điều kiện đầu tiên là cần phải làm cho người dân có niềm tin đối với hệ
thống tài chính ngân hàng. Người dân biết được có tổ chức BHTG thay mặt Nhà
nước để bảo vệ tiền gửi của họ thì họ sẽ yên tâm hơn khi gửi tiền vào các TCTD.
Điển hình như ở Việt Nam, vào khoảng những năm 90, hàng loạt quỹ tín
dụng nhân dân (QTDND) sụp đổ và người dân mất tin tưởng vào hệ thống tài chính
ngân hàng, việc huy động vốn của các TCTD thời kỳ đó gặp rất nhiều khó khăn 12.
Mãi đến khi BHTGVN được thành lập và đi vào hoạt động vào năm 2000 đã chứng
minh được vai trò của mình trong việc bảo vệ người gửi tiền, nhờ đó người gửi tiền
an tâm hơn khi chọn việc gửi tiền vào các tổ chức huy động tiền gửi như một kênh
sinh lợi an toàn cho nguồn tiền nhàn rỗi của mình. Từ đó, việc huy động vốn phục
vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế được gia tăng, hội nhập quốc tế cũng dễ
dàng được thực hiện, xã hội bình ổn, các ngành kinh tế phát triển, giảm tình trạng
thất nghiệp, giúp cho đời sống nhân dân được đảm bảo và nâng cao, nhiều đối
tượng được hưởng lợi từ BHTG. Sự hưởng lợi này đem lại tính cộng đồng cao,
không loại trừ một cá nhân hay tổ chức nào một cách tuyệt đối. Điều đó cho thấy
BHTG có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
một đất nước nếu “nó” thể hiện và thực hiện hết vai trò của mình.
1.1.3.5. Bảo hiểm tiền gửi góp phần đảm bảo sự ổn định và an toàn hệ thống

tài chính – ngân hàng
12

Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học, của Văn phòng Quốc hội (2008), Vai trò của tổ
chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an sinh xã hội, Chuyên đề
nghiên cứu chuyên sâu.


18

Tổ chức BHTG có vai trò quan trọng đối với việc đảm bảo sự phát triển an
toàn, bền vững của hệ thống ngân hàng, điều đó được thể hiện qua một số khía cạnh
như:
Thứ nhất, hoạt động BHTG có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các
TCTD mới ra đời hoặc có quy mô hoạt động hạn chế có điều kiện phát triển tốt hơn.
Với các TCTD này, người dân có tâm lý lo ngại có thể mất tiền gửi khi nó bị mất
khả năng thanh toán. Tuy nhiên, khi các tổ chức này tham gia BHTG thì người gửi
tiền sẽ yên tâm hơn khi biết rằng tiền gửi có họ đã được bảo hiểm, điều đó hết sức
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các TCTD có quy mô nhỏ, lịch sử
kinh doanh còn mới mẻ.
Thứ hai, hoạt động BHTG giúp các TCTD thực sự yếu kém, không thể tiếp
tục duy trì hoạt động có thể rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng một cách có trật
tự, không ảnh hưởng tới các ngân hàng khác theo dây chuyền. Thông qua hoạt động
nghiệp vụ kiểm tra và giám sát của mình, tổ chức BHTG có khả năng đánh giá kịp
thời thực trạng hoạt động của ngân hàng tham gia BHTG. Chẳng hạn, trong trường
hợp phát hiện ngân hàng nào có hoạt động yếu kém, không hiệu quả thì tổ chức
BHTG sẽ triển khai một số biện pháp hỗ trợ như: đưa ra phương án sáp nhập với
ngân hàng khác, hay chi trả BHTG cho người gửi tiền thuộc đối tượng BHTG, hoặc
tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của ngân hàng đó để tiếp tục bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền,...

Thứ ba, hoạt động BHTG tạo động lực để các ngân hàng giám sát lẫn nhau,
thúc đẩy nâng cao chất lượng hoạt động từ đó đảm bảo sự phát triển bền vững của
cả hệ thống tài chính ngân hàng quốc gia; đồng thời đây cũng là động lực để các
TCTD củng cố, hoàn thiện hơn cơ chế quản lý của TCTD mình, tránh được những
sai sót, sai phạm trong quá trình hoạt động, nâng cao được hiệu quả trong quản lý,
sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi này.
1.1.4. Sự cần thiết phải bảo hiểm tiền gửi
Từ những vai trò quan trọng của hoạt động BHTG, có thể thấy rằng đây là
một hoạt động hết sức cần thiết đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia cần


19

được quan tâm và đẩy mạnh hoạt động. Hoạt động ngân hàng được coi là một trong
những hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhưng song hành với nó là sự mạo hiểm,
rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Các rủi ro tín dụng như rủi ro mất khả năng
thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái,… là nguy cơ dẫn đến việc thua lỗ,
phá sản của hàng loạt các TCTD mà nguyên nhân của nó là xuất phát từ nhiều phía
như do môi trường kinh tế không ổn định, do quản lý nhà nước còn nhiều bất cập,
lỏng lẽo, do trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn hạn chế,… cũng có thể nó
xuất phát từ các TCTD như chuyên môn – nghiệp vụ kém, quá trình xét duyệt và
quản lý vốn vay kém hoặc do sự thay đổi của phát luật, điều chỉnh của chính trị, sự
thay đổi địa giới hành chính,…
Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh của các TCTD, mỗi quốc gia điều ban
hành những quy định pháp luật về an toàn kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ví dụ
như giới hạn cho vay đối với một khách hàng; tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn,… qua đó
nhằm bảo đảm độ an toàn trong hoạt động của các TCTD. Trên thực tế, các biện
pháp này cũng đã hạn chế được phần nào những rủi ro, tạo ra môi trường ổn định
cho hoạt động của các TCTD. Tuy nhiên, dường như những biện pháp đó vẫn chưa
đủ tạo niềm tin cho người gửi tiền cũng như đảm bảo an toàn đến mức cao nhất cho

các TCTD. Trước yêu cầu đó, BHTG ra đời nhằm góp phần vào sự bảo đảm an toàn
cho những người gửi tiền ở các TCTD, duy trì sự ổn định của các TCTD, sự ổn định
của nền kinh tế.
Nhận thấy được công dụng hiệu quả của BHTG, các quốc gia trên thế giới
cũng lần lượt cho ra đời các tổ chức BHTG nhằm bảo vệ người gửi tiền trước nguy
cơ phá sản của các tổ chức tài chính, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và
hạn chế các cuộc khủng hoảng tài chính. Vì thế, ngày nay BHTG đã trở thành thiết
chế không thể thiếu được trong bất kỳ nền kinh tế nào.
1.1.5. Các mô hình hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi:
BHTG trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế có những điểm đặc trưng cơ
bản, bị tác động bởi những yếu tố nhất định như: cạnh tranh giữa các ngân hàng,
nhu cầu kiện toàn bộ máy giám sát tài chính quốc gia. Trong điều kiện mở cửa của


20

thị trường và tự do hóa tài chính hiện nay, hệ thống TCTD đang phát triển rất nhanh
về quy mô và tốc độ, nhưng cũng đối mặt với không ít rủi ro, thách thức, khủng
hoảng mang tính hệ thống. Do vậy, cần có những chiến lược nhất định trong việc
phát triển các thiết chế nhằm giảm thiểu rủi ro ho hệ thống ngân hàng, trong đó
BHTG là thiết chế đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát an toàn hoạt động và
cảnh báo rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG. Trên thế giới hiện nay tồn tại 3
mô hình tổ chức BHTG cơ bản:
1.1.5.1. Mô hình chi trả
Tổ chức BHTG hoạt động theo mô hình chi trả thực hiện các mục tiêu của
chính sách công như: Khẳng định sự bảo đảm của Nhà nước đối với tiền gửi của
dân chúng tại các TCTD và bảo vệ những người gửi tiền nhỏ thông qua việc hình
thành có chế bồi thường13.
Với mô hình này, tổ chức BHTG chỉ thực hiện chức năng thu phí BHTG và
chi trả tiền BHTG cho người gửi tiền được bảo hiểm trong trường hợp tổ chức tham

gia BHTG bị mất khả năng thanh toán.
Với những đặc điểm nêu trên, mô hình chi trả thường được các nước đang
phát triển, hoặc tổ chức BHTG mới được thành lập, quy mô nhỏ và năng lực tài
chính chưa cao. Các nước theo mô hình này bao gồm: Phần Lan, Cộng hòa Sec,
Braxin, Lithuania, Cyprus, Hungary, Anh, Tazania, Slovenia, Tây Ban Nha, Anh,
Pháp, Thụy điển14.
1.1.5.2. Mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng
Ngoài các chức năng của mô hình chi trả, tổ chức BHTG có thêm chức năng
tham gia vào quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng
thanh toán.
Các mục tiêu chính sách công như hạn chế rủi ro, tránh xảy ra khủng hoảng
tài chính, gia tăng niềm tin của công chúng đối với tổ chức nhận tiền gửi,… cũng có
thể đạt được. Các nước theo mô hình này gồm: Bungary, Kazakhstan, Colombia,
13

Đinh Dũng Sỹ (2008), “Mô hình bảo hiểm tiền gửi hiện nay và những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng
Luật Bảo hiểm tiền gửi” Tạp chí nghiên cứu lập pháp (số 115)
14
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Báo cáo đánh giá tác động Luật bảo hiểm tiền gửi”, tr.4.


×