Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về bảo vệ rừng đặc dụng từ thực tiễn vườn quốc gia yok đôn, tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (946.37 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ LÊ NA

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ RỪNG ĐẶC DỤNG
TỪ THỰC TIỄN VƯỜN QUỐC GIA YOK ĐÔN,
TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ LÊ NA

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ RỪNG ĐẶC DỤNG
TỪ THỰC TIỄN VƯỜN QUỐC GIA YOK ĐÔN,
TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 838.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Pháp luật về bảo vệ rừng đặc dụng từ
thực tiễn Vườn quốc gia Yok Đôn, tỉnh Đắk Lắk”là do tác giả thực hiện dưới dự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Văn Phương. Các số liệu nêu trong luận văn là trung
thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn dựa trên quá trình thu thập thông tin, khảo
sát. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Lê Thị Lê Na


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬTVỀ BẢO VỆ
RỪNG ĐẶC DỤNG ..................................................................................................7
1.1. Khái quát về bảo vệ rừng đặc dụng ......................................................................7
1.2. Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo vệ rừng đặc dụng ..........................16
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật bảo vệ rừng đặc dụng ở Việt
Nam ...........................................................................................................................21
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ RỪNG ĐẶC DỤNG
TỪ THỰC TIỄN VƯỜN QUỐC GIA YOK ĐÔN...............................................26
2.1. Các quy định của pháp luật về bảo vệ rừng đặc dụng: ......................................26
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng đặc dụng tại Vườn quốc gia Yok

Đôn, tỉnh Đắk Lắk .....................................................................................................55
CHƯƠNG 3.ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬTBẢO
VỆ RỪNG ĐẶC DỤNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢTHỰC HIỆN TẠI
VƯỜN QUỐC GIA YOK ĐÔN .............................................................................71
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo vệ rừng đặc dụng ...................................71
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ rừng đặc dụng ............................73
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo vệ rừng đặc dụng tại
Vườn quốc gia Yok Đôn ...........................................................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BVMT

: Bảo vệ môi trường

BVPTR

: Bảo vệ và phát triển rừng

FAO

: Food And Agriculture Organization of the United Nations
(Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc)


KBTTN

: Khu bảo tồn thiên nhiên

NN&PTNT

: Nông nghiệp và phát triển nông thôn

RĐD

: Rừng đặc dụng

TN&MT

: Tài nguyên và môi trường

VQG

: Vườn quốc gia


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Tổng hợp quy hoạch điều chỉnh diện tích các phân khu chức


56

bảng
2.1

năng, đơn vị hành chính của VQG Yok Đôn
2.2

Tổng hợp diện tích các phân khu chức năng, đơn vị hành

56

chính của VQG Yok Đôn sau đề nghị cắt trả cho các dự án
và cho địa phương
2.3

Tổng hợp diện tích đất dự kiến chuyển giao giai đoạn 2010-2020

57

2.4

Thống kê số lượng các vụ vi phạm về khai thác động vật, thực

66

vật rừng (theo Báo cáo tình hình vi phạm Luật BVPTR hằng
năm từ 2013-2017 của Hạt kiểm lâm VQG Yok Đôn)
2.5


Thống kê số lượng xử lý vi phạm về hành vi xâm hại VQG
Yok Đôn (theo Báo cáo tình hình vi phạm Luật BVPTR hằng
năm từ 2013-2017 của Hạt kiểm lâm VQG Yok Đôn)

66


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 50 năm hình thành và phát triển, hệ thống rừng đặc dụng ở nước ta hiện
nay đang ngày càng đóng vai trò to lớn trong việc bảo tồn các hệ sinh thái rừng, đa
dạng sinh học, cảnh quan thiên nhiên và các giá trị văn hóa, lịch sử, môi trường.
Với sự ra đời của Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã mang lại nhiều thành
tựu lớn trong công tác bảo vệ và phát triển RĐD như: tạo khuôn khổ pháp lý quan
trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng; kinh tế
lâm nghiệp từ chủ yếu dựa vào khai thác, lợi dụng rừng tự nhiên sang bảo vệ, phục
hồi rừng tự nhiên và trồng rừng mới, gắn phát triển kinh tế lâm nghiệp với phát huy
vai trò môi trường sinh thái, quốc phòng an ninh và an sinh xã hội. Nhờ đó, tính đến
năm 2016, diện tích hệ thống RĐD nước ta là 2.256.557 ha với diện tích có rừng là
1.931.527 ha chiếm 86%, đang được quản lý, bảo vệ và phát triển tốt về số lượng,
chất lượng rừng, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học rừng, phát triển dịch vụ môi
trường rừng, từng bước giải quyết hài hòa giữa bảo tồn và phát triển rừng. Cả nước
đang có 164 khu RĐD (với 31 VQG, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 10 khu bảo tồn loài
sinh cảnh, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa
học). Trong đó 80% khu RĐD đã thành lập Ban quản lý (trừ các khu rừng nghiên
cứu thực nghiệm khoa học)[6].
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều thành tựu đạt được, công tác quản lý, bảo vệ RĐD
vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, như: thiếu tính đồng bộ, chồng chéo giữa các Luật
BVPTR với các văn bản luật có liên quan trong việc quy định về quản lý RĐD; việc

phân cấp, phân quyền trong quản lý RĐD còn nhiều bất cập; tiêu chí xác lập và quy
định quy hoạch RĐD chưa đầy đủ và không thống nhất; chưa quy định toàn diện,
đồng bộ hệ thống quản lý nhà nước về lâm nghiệp; công tác thanh tra, giám sát thi
hành pháp luật chưa nghiêm, trong khi chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BVPTR
còn thiếu và chưa đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi vi phạm, nên tình trạng phá
rừng, khai thác vận chuyển lâm sản trái phép, lấn chiếm, chuyển đổi mục đích sử

1


dụng rừng và đất lâm nghiệp trái pháp luật còn diễn ra phức tạp ở nhiều địa phương
gây bức xúc trong xã hội và làm suy giảm tài nguyên rừng, nhất là rừng tự nhiên….
Những điều này dẫn đến tình trạng phá rừng, lấn đất RĐD diễn ra ngày càng phổ
biến và gia tăng về mức độ nghiêm trọng gây thiệt hại nặng nề cho toàn xã hội.
Ngày 15 tháng 11 năm 2017, Quốc hội đã thông qua Luật Lâm nghiệp năm
2017, luật bao gồm 12 chương, 108 điều thay thế cho Luật BVPTR năm 2004 và sẽ
có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2019. Luật quy định về quy hoạch lâm
nghiệp, bảo vệ, phát triển rừng, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng, thẩm quyền giao
rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, thu hồi rừng, dịch vụ môi
trường rừng, hoạt động tài chính trong lâm nghiệp, khoa học và công nghệ về lâm
nghiệp, quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Sựra đời của Luật Lâm nghiệp năm 2017
đã khắc phục được các hạn chế của Luật BVPTR năm 2004, tuy nhiên, hiện nay luật
này chưa có hiệu lực. Mặc khác, trong quản lý, sử dụng và khai thác RĐD, tình
trạng khai thác trái phép động vật rừng, thực vật rừng vẫn diễn ra hàng ngày mà đối
tượng vi phạm chủ yếu là người dân sinh sống bên trong và xung quanh khu RĐD.
Giải quyết được bài toán làm thế nào để vừa có thể bảo vệ RĐD hiệu quả và kết hợp
hài hòa với lợi ích của cộng động dân cư sinh sống bên trong và xung quanh khu
RĐD đang là vấn đề cấp thiết hiện nay trong công tác bảo vệ RĐD nói riêng và tài
nguyên rừng nói chung. Chính vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài ‘‘Pháp luật về bảo vệ
rừng đặc dụng từ thực tiễn Vườn quốc gia Yok Đôn, tỉnh Đắk Lắk” làm Luận văn

tốt nghiệp thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ RĐD đóng vai trò hết sức quan trọng, tuy nhiên, hiện nay chưa có
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu ở các cấp độ khác nhau như:
- Ở cấp độ tiến sĩ, đã có các luận án “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ rừng”, Luận án tiến sĩ Luật học, của Hà Công Tuấn, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006; “Hoàn thiện pháp luật về quản lý và
bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học, của Nguyễn
Thanh Huyền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012

2


- Ở cấp độ thạc sĩ, đã có các luận văn: “Một số vấn đề cơ bản về pháp luật bảo
vệ rừng ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Thanh
Huyền, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; “Pháp luật về bảo vệ tài
nguyên rừng ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ Luật học, của Phạm Thị Thủy, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà nội, năm 2014, “Pháp luật về kiểm soát suy thoái tài
nguyên rừng ở Việt Nam”,luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Thị Thanh Nga,
Đại học Luật Hà Nội, năm 2016.
- Ở cấp độ cử nhân, đã có các khóa luận“Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ các
loài động, thực vật nguy cấp, quý, hiếm”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, của
Hoàng Hiền Lương, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009; “Pháp luật về buôn
bán động, thực vật hoang dã”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, của Nguyễn Thị
Hoa, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012.
- Và một số bài viết trên tạp chí về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam và bảo
vệ các loài động vật, thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm như: “Quản lý bảo vệ rừng
trên cơ sở cộng đồng”, của TS. Nguyễn Huy Dũng, Tạp chí Bảo vệ môi trường, số
12/2008; “Sử dụng luật tục hương ước một chiến lược quản lý rừng”, của ThS. Hà

Công Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 03/2006; “Nghiên cứu một số tội
phạm xâm hại môi trường rừng được quy định tại chương XVII- Các tội xâm phạm
môi trường trong Bộ luật hình sự năm 1999”, của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 6/2008; “Nghiên cứu chính sách thuế
trong phát triển lâm nghiệp”, của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, tháng 5/2007; “Bàn về tội hủy hoại rừng theo điều 189 Bộ luật
hình sự”, của Nguyễn Văn Dũng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2009; “Vướng mắc
cần giải quyết trong việc áp dụng điều 190 bộ luật hình sự về tội vi phạm các quy
định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm”, của Nguyễn Duy Giảng, Tạp chí
Kiểm sát, số 4/2009; “Hương ước, quy ước trong quản lý bảo vệ rừng và tài nguyên
thiên nhiên”, của Bàn Văn Trung, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề
tháng 6/2010; “Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định về quản lý,
khai thác và bảo vệ rừng”, của Cao Anh Đức, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2010; “Về

3


tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng tại điều 175 Bộ luật hình sự”,
của Phạm Văn Beo, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2010; “Quyền tài sản của chủ
rừng đôi điều bàn luận”, của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số 10/2011; “Nghiên cứu một số quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển thực
vật, động vật hoang dã ở Việt Nam”, của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Nông
Nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 6/2011; “Hoàn thiện quy chế pháp lý cho cá
nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng tại Việt Nam”, của Nguyễn Thanh Huyền,
Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 27/2011; ‘‘Công tác phòng chống vi phạm pháp
luật về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm ở nước ta một số khó khăn, vướng mắc
và giải pháp khắc phục”, của Đặng Thu Hiền, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
5/2011; “Thực trạng công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực buôn bán động vật hoang dã, quý, hiếm ở nước ta”, của Trần Minh Hưởng,
Tạp chí Kiểm sát, số 7/2012; “Hoàn thiện pháp luật đối với chủ rừng là doanh

nghiệp có vốn đầu tư nhà nước”, của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 4, tháng 2/2012…
Các công trình nghiên cứu, đề tài, bài viết trên đây đã chỉ ra những vai trò
quan trọng của pháp luật về bảo vệ rừng nói chung và RĐD nói riêng. Tuy nhiên,
chưa có một công trình hay đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về
pháp luật bảo vệ RĐD, nhất là từ thực tiễn cụ thể của VQG Yok Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn (qua việc nghiên cứu về VQG Yok Đôn, tỉnh Đắk Lắk) của pháp luật bảo
vệ RĐD ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật bảo vệ RĐD và nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ RĐD.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lí luận về khái niệm rừng, RĐD, bảo vệ RĐD, vai trò
của việc bảo vệ RĐD; khái niệm và đặc điểm, nội dung điều chỉnh và nguyên tắc
điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ RĐD ở Việt Nam hiện nay.

4


- Phân tích các quy định của pháp luật thực định về bảo vệ RĐD thông qua
việc phân tích các quy định của pháp luật về quản lý RĐD như xây dựng quy hoạch
RĐD, các tiêu chí để xác định các loại RĐD, xác lập RĐD và công tác phân cấp
quản lý và bảo vệ RĐD.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ RĐD hiện nay, làm rõ những
vướng mắc gặp phải trong quá trình quản lý và bảo vệ RĐD, nguyên nhân và đề
xuất những giải pháp từ những tình huống thực tế trên cả nước nói chung và VQG
Yok Đôn nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ
rừng đặc dụng và thực tiễn thi hành Vườn quốc gia Yok Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
Trong chừng mực nhất định, trong luận văn có đề cập một số quy định của
Luật Lâm nghiệp năm 2017, sẽ có hiệu lực từ 1/1/2019.
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Về thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về về bảo vệ rừng đặc dụng, học
viên chủ yếu tìm hiểu tại Vườn quốc gia Yok Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, trong
luận văn, học viên có đề cập một số tình huống từ các địa phương khác.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của Triết học Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước về hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật bảo vệ RĐD nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp như phương
pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp và
phương pháp thống kê tình hình thực tiễn, áp dụng thực tiễn trong việc thực hiện
pháp luật về bảo vệ RĐD của cơ quan có thẩm quyền tại VQG Yok Đôn. Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ đó đưa ra một số kiến

5


nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng quy địnhcủa pháp luật
về bảo vệ RĐD tại VQG Yok Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1 Về ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ khái niệm, căn cứ, mục đích, ý nghĩa của việc
bảo vệ RĐD. Từ đó làm rõ hơn ý nghĩa lý luận về quyền và nghĩa vụ của các chủ

thể trong công tác bảo vệ RĐD.
6.2 Về ý nghĩa thực tiễn
Về ý nghĩa thực tiễn, từ kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra được các giải
pháp kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật và khắc phục hạn chế trong
thực tế của hoạt động bảo vệ RĐD, đề xuất các phương án thay đổi cơ chế quản lý
mới cho VQG Yok Đôn phù hợp hơn với các thay đổi của pháp luật.
Các kiến nghị của luận văn có thể được dùng để nghiên cứu, xem xét áp dụng
khi sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về bảo vệ RĐD.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận của pháp luật về bảo vệ rừng đặc dụng
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ rừng đặc dụng và thực tiễn thực hiện
tại Vườn quốc gia Yok Đôn, tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ rừng đặc
dụng và nâng cao hiệu quả thực hiện tại Vườn quốc gia Yok Đôn.

6


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ RỪNG ĐẶC DỤNG
1.1. Khái quát về bảo vệ rừng đặc dụng
1.1.1. Khái niệm bảo vệ rừng đặc dụng
1.1.1.1. Khái niệm rừng:
Những năm đầu thế kỷ XX, tồn tại các quan điểm khác nhau về rừng.Quan
điểm thứ nhất, của các nhà khoa học Liên Xô, coi rừng là một quần địa sinh lạc
(biogeocenose).Trong tác phẩm “Học thuyết về rừng” (1912) G.F. Morozov đã định
nghĩa như sau “rừng là những quần xã cây gỗ, trong đó chúng biểu hiện các ảnh

hưởng qua lại lẫn nhau làm nảy sinh ra những hiện tượng mới mà những cây mọc
đơn lẻ không có. Trong quần lạc sinh địa rừng không chỉ có mối quan hệ qua lại
giữa các cây rừng với nhau mà còn có mối quan hệ qua lại giữa chung với đất và
môi trường không khí; rừng có khả năng tự phục hồi”. Phát triển học thuyết này,
V.I. Sucachev (1964) đã cho rằng rừng là một quần lạc sinh địa và “quần lạc sinh
địa rừng là một khoảnh đất bất kỳ có sự đồng nhất về thành phần, cấu trúc và các
đặc điểm của các thành phần tạo nên nó và về mối quan hệ giữa chúng với nhau, có
nghĩa là đồng nhất về thực vật che phủ, về thế giới động vật và vi sinh vật cư trú tại
đó về các điều kiện tiểu khí hậu, thủy văn và đất đai, về các kiểu trao đổi vật chất và
năng lượng giữa các thành phần của nó với nhau và với các hiện tượng tự nhiên
khác”. Có thể hiểu quần lạc sinh địa gồm năm thành phần: khí hậu, đất, quần lạc
thực vật, quần lạc động vật và quần lạc vi sinh vật. Mối quan hệ qua lại giữa khí hậu
và thổ nhưỡng hình thành nên hoàn cảnh sinh thái. Mối quan hệ giữa các thành phần
thực vật, động vật và vi sinh vật tạo nên hoàn cảnh sinh vật. Mỗi hoàn cảnh sinh
thái sẽ có một hoàn cảnh sinh vật nhất định và mối liên hệ giữa hoàn cảnh sinh vật
và hoàn cảnh sinh thái sẽ tạo nên một đơn vị sinh học cơ bản trong giới tự nhiên,
đơn vị này được gọi là quần lạc sinh địa. Và theo các nhà khoa học nghiên cứ theo
quan điểm này, một quần lạc sinh địa chỉ được coi là rừng khi quần lạc thực vật là

7


cây gỗ lớn chiếm ưu thế và chi phối các thành phần khác trong toàn bộ quần lạc
sinh địa đó [22 ,tr. 29-30]. Ngày nay, quan điểm này không còn được sử dụng nhiều
trong các văn bản hay tài liệu nghiên cứu khoa học trên thế giới.
Quan điểm thứ hai, của các nhà khoa học phương Tây, coi rừng là một hệ sinh
thái. A. Tansley là người đầu tiên đề cập đến khái niệm hệ sinh thái vào năm 1935,
“mặc dù các cơ thể sống luôn có xu hướng muốn tách khỏi môi trường sống để
dành được sự chú ý đặc biệt, nhưng thực tế các cơ thể sống không thể tách khỏi môi
trường mà chúng phải cùng với môi trường sống đó hợp thành một thể thống nhất

vật lý – sinh học thống nhất. Những hệ thống này là những đơn vị cơ bản của tự
nhiên và được gọi là hệ sinh thái ”. Quan điểm này đã được các nhà khoa học như
Linderman (1942), C.Wilee (1957), P.E. Odum (1971,1975) và Whitetaker
(1975)…phát triển và hoàn thiện sau này. Các nhà khoa học này đều coi hệ sinh thái
là đơn vị chức năng cơ bản trong sinh thái học, trong đó bao gồm các thành phần tự
sinh vật và các hoàn cảnh vô sinh, giữa các thành phần đó luôn có ảnh hưởng qua
lại đến nhau và đều cần thiết để giữ gìn sự sống dưới dạng như đã tồn tại trên trái
đất. Tương tự như quan điểm về quần lại sinh địa, một hệ sinh thái được gọi là hệ
sinh thái rừng khi các thành phần thực vật trong đó bao gồm những cây thân gỗ
(hoặc các loài cây họ tre nứa, cau dừa…) sống lâu năm, có mật độ đủ lớn để chi
phối các hoạt động trao đổi vật chất và tích lũy năng lượng của hệ sinh thái đó tạo
ra một môi trường sinh thái bên trong hoàn toàn khác biệt [22,tr. 31].
Hai quan điểm trên giống nhau về bản chất, đó là coi quần lạc sinh địa hay hệ
sinh thái là một đơn vị cơ bản của tự nhiên, có cấu trúc thành phần giống nhau. Tuy
nhiên, theo quan điểm rừng là hệ sinh thái, các nhà khoa học nhấn mạnh hơn đến
tính thống nhất trong các chu trình dinh dưỡng và năng lượng. Vì thế, việc coi rừng
là một hệ sinh thái không chỉ nhấn mạnh tới vai trò của các thành phần sống và
không sống hay thuần túy về các mối quan hệ giữa chúng mà còn thấy một các rõ
nét hơn về năng suất sinh học của hệ sinh thái đó. Ở trong hệ sinh thái rừng, không
ngừng diễn ra sự trao đổi vật chất, năng lượng và xảy ra các quá trình cạnh tranh
sinh tồn giữa cây gỗ, xuất hiện những cây mới, do đó, rừng là một hệ thống có thể

8


tự điều hòa. Cây rừng có khả năng tái sinh, tuy nhiên, sự tái sinh của rừng không
phải là vô tận, nếu con người không biết khai thác và bảo vệ hệ sinh thái rừng một
cách thận trọng, phù hợp với nguồn gốc phát sinh, xu thế phát triển, với quy luật tự
điều hòa của rừng thì rừng sẽ không tự phục hồi và trở thành tài nguyên không tái
tạo được.

Ngày nay, rừng trở thành thực thể hết sức quan trọng tới cuộc sống, đến sự tồn
tại của con người, rừng chi phối và tác động tới nhiều môi trường xung quanh như
đất, nước, không khí, các định nghĩa về rừng được định lượng một cách rõ ràng.
Để hướng dẫn đo đạc và công bố độ che phủ rừng mỗi nước, trong Báo cáo
FRA năm 2015, FAO đã định nghĩa rừng như sau: Rừng là một diện tích đất rộng
hơn 0.5 hec-ta với cây cao hơn 5 mét, có tán bao phủ hơn 10 phần trăm, hoặc cây có
thể vươn tới ngưỡng đó trong những điều kiện đặc biệt, không bao gồm đất mà
trong đó, phần lớn thuộc về đất nông nghiệp hay đất thành thị…[16]. Tổ chức gỗ
nhiệt đới quốc tế đưa ra định nghĩa, giống như FAO, được Thang Hooi Chiew
(2006) tiếp nhận như sau: “Đất phải rộng trên 0,5 héc-ta, với chiều cao của các cây
hơn 5m và độ che phủ hơn 10 phần trăm hoặc các cây có khả năng đạt đến ngưỡng
nguyên vị của nó. Điều này không bao gồm đất mà phần lớn đang sử dụng đất đô
thị hoặc nông nghiệp. Các cây có khả năng đạt đến độ cao tối thiểu là 5 mét . Những
diện tích đang khôi phục mà chưa đạt được nhưng hy vọng sẽ đạt độ che phủ 10
phần trăm thì được chấp nhận và bao gồm cả các cây có chiều cao 5
mét…”[33].Như vậy, theo quan điểm chung của các tổ chức quốc tế, để xác định
rừng cần phải căn cứ các yếu tố: đất rừng, cây rừng và độ che phủ của cây rừng, đất
rừng trải dài rộng ít nhất 5 héc-ta, chiều cao tối thiểu của cây rừng là 5 mét và độ
che phủ của rừng là 10 phần trăm diện tích đất rừng.
Trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam, định nghĩa về rừng được đưa ra
lần đầu tiên trong Luật BVPTR năm 1991, “rừng bao gồm rừng tự nhiên và rừng
trồng trên đất lâm nghiệp, gồm có thực vật rừng, động vật rừng và những yếu tố tự
nhiên có liên quan đến rừng”[44, Điều 1].Trải qua quá trình phát triển, Luật
BVPTR năm 2004 đã đưa ra khái niệm về rừng hoàn thiện hơn, tiếp cận hài hòa hóa

9


được khái niệm về rừng của Việt Nam với khái niệm về rừng của FAO: “Rừng là
một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng,

đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật
đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm
rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc
dụng” [45, Điều 3].
Như vậy, theo định nghĩa pháp quy về rừng trên đây, rừng có một số các đặc
điểm sau:
Thứ nhất, là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng, động vật rừng, vi
sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác. Việc khẳng định rừng là hệ sinh
thái đã giúp khái quát nên mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành hệ sinh thái đó
như thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật, đất rừng…dù định nghĩa không đề
cập mối quan hệ đó.
Thứ hai, thành phần chính của rừng là cây thân gỗ, tre, nữa, cây họ cau hoặc
hệ thực vật đặc trưng khác. Hệ thực vật đặc trưng là một khái niệm mang tính mở
rộng, nó được dùng để chỉ các quần thể thực vật đang trong quá trình hình thành
rừng hoặc chỉ những nhóm thực vật rừng đặc thù như rừng ngập mặn, hệ sinh thái
rừng thông…. Việc nhấn mạnh về các quần thể thực vật khẳng định vai trò của các
quần thể thực vật sẽ tạo nên sự khác biệt giữa các hệ sinh thái rừng.
Thứ ba, độ tàn che phủ từ 0.1 trở lên. Trong đó, độ tàn che được hiểu là mức
độ che kín của tán cây rừng theo phương thẳng đứng trên một đơn vị diện tích rừng
được biểu thị bằng tỷ lệ phần mười, tỷ lệ che phủ rừng là tỷ lệ phần trăm giữa diện
tích rừng so với tổng diện tích đất tự nhiên trên một phạm vi địa lý nhất định.
Định nghĩa về rừng tại Luật BVPTR năm 2004 khá đầy đủ, tuy nhiên định
nghĩa này vẫn bộc lộ một số nhược điểm như: việc xác định rừng là một hệ sinh
thái, chưa làm rõ quy mô hay diện tích tối thiểu của hệ sinh thái này là bao nhiêu.
Ngoài ra, định nghĩa về rừng trong Luật BVPTR năm 2004 mới chỉ đề cập thành
phần chính của rừng là cây rừng các loại và độ tàn che (mức độ che phủ của tán cây
rừng), chưa quy định tiêu chí về cây rừng [1].

10



Trên cở sở kế thừa những điểm hợp lý của các định nghĩa về rừng trước đây,
đồng thời tiếp thu quan điểm của quốc tế, Luật Lâm nghiệp năm 2017 vừa được
Quốc hội thông qua vào ngày 15 tháng 11 năm 2017 đã xây dựng khái niệm rừng
như sau: “Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng, động vật rừng,
nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó thành phần chính
là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau có chiều cao được xác định
theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc
trưng khác; diện tích liên vùng từ 0,3 ha trở lên; độ tàn che từ 0,1 trở lên”. Có sự
thay đổi về tiêu chí xác định rừng so với định nghĩa về rừng trong Luật BVPTR
năm 2004, để được coi là rừng thì diện tích tối thiểu phải đạt được là 0.3 héc-ta.Đối
với tiêu chí chiều cao cây rừng được xác định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá,
đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác. Quy định như vậy xuất phát
từ thực tế chiều cao không phải yếu tố chính mà yếu tố chính là độ tàn che, mà độ
tàn che có quan hệ với mật độ của rừng và loài cây để tạo nên sinh cảnh rừng. Thực
tế rừng trồng cây bản địa theo qui định sau 3 năm thống kê là rừng, nhiều rừng
trồng chiều cao chưa đạt 5 mét nhưng đã khép tán tạo sinh cảnh có thể gọi là rừng.
Như vậy, thuật ngữ về rừng đã vận dụng định nghĩa rừng của FAO theo ba tiêu chí:
chiều cao, diện tích, độ tàn che; tuy nhiên, đã có điều chỉnh để phù hợp với điều
kiện Việt Nam [8].
Tóm lại, dù tồn tại nhiều định nghĩa về rừng khác nhau, nhưng mục đích
hướng tới của các cách định nghĩa đều là nhận thức một cách đúng đắn nhất về
rừng, vai trò và tầm quan trọng của rừng, để từ đó có thể tiến hành quản lý và bảo
vệ rừng một cách tối đa.
1.1.1.2. Khái niệm rừng đặc dụng
Rừng được phân loại để có thể bảo vệ một cách hiệu quả, tùy vào các tiêu chí
khác nhau, rừng được phân thành nhiều loại khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc của
rừng, có thể phân thành rừng tự nhiên và rừng trồng. Căn cứ vào mục đích sử dụng,
rừng được phân thành các loại sau: rừng phòng hộ, RĐD và rừng sản xuất. Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ nêu và phân tích khái niệm của RĐD.


11


Theo quy định của pháp luật hiện hành, RĐD được định nghĩa như sau: “Rừng
đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng
của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử,
văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp
phần bảo vệ môi trường, bao gồm: VQG; KBTTN gồm khu dự trữ thiên nhiên,
khu bảo tồn loài - sinh cảnh; Khu bảo vệ cảnh quan gồm khu rừng di tích lịch sử,
văn hoá, danh lam thắng cảnh; Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa
học;”[45, Điều 4].
Việc xác lập các khu RĐD phải đảm bảo các tiêu chí đối với từng loại RĐD
dưới đây.
Đối với Khu dự trữ thiên nhiên: Có ít nhất 01 hệ sinh thái rừng tự nhiên quan
trọng đối với quốc gia, quốc tế chưa hoặc ít bị biến đổi có giá trị đặc biệt về khoa
học, giáo dục hoặc du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Trong trường hợp đặc biệt nếu là
rừng trồng thì khu rừng đó phải đảm bảo diễn thế phát triển ổn định tiếp cận và từng
bước tái tạo hệ sinh thái tự nhiên; là sinh cảnh tự nhiên của ít nhất 05 loài sinh vật là
các loài động, thực vật nguy cấp, quý, hiếm ưu tiên bảo vệ theo quy định của pháp
luật; diện tích liền vùng tối thiểu trên 5.000 ha, trong đó ít nhất 90% diện tích là các
hệ sinh thái tự nhiên (hoặc nếu là rừng trồng thì khu rừng đó phải đảm bảo diễn thế
phát triển ổn định tiếp cận và từng bước tái tạo hệ sinh thái tự nhiên).
Đối với Khu bảo tồn loài - sinh cảnh phải có ít nhất 01 loài sinh vật đặc hữu
hoặc loài nguy cấp, quý, hiếm theo quy định của pháp luật; phải đảm bảo các điều
kiện sinh sống, thức ăn, sinh sản … để bảo tồn bền vững các loài sinh vật đặc hữu,
nguy cấp, quý, hiếm; có diện tích liền vùng đáp ứng yêu cầu bảo tồn bền vững của
các loài sinh vật đặc hữu, nguy cấp, quý, hiếm.
Đối với Khu rừng bảo vệ cảnh quan: Khu rừng có giá trị cao về lịch sử, văn
hóa, trong đó có di tích lịch sử, văn hóa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

công nhận; khu rừng có giá trị cao về cảnh quan môi trường, trong đó có danh lam
thắng cảnh cần được bảo vệ và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
khu rừng do cộng đồng dân cư quản lý, bảo vệ theo phong tục tập quán, hoặc theo

12


truyền thống và tín ngưỡng có giá trị về văn hóa, tín ngưỡng, giáo dục, du lịch sinh
thái đặc sắc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
Đối với Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học: Có các hệ sinh thái đáp
ứng yêu cầu nghiên cứu, thực nghiệm khoa học của các tổ chức khoa học, đào tạo
có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, thực nghiệm khoa học lâm nghiệm theo quy
định của pháp luật; có quy mô diện tích phù hợp với mục tiêu, yêu cầu nghiên cứu,
thực nghiệm khoa học, phát triển công nghệ, đào tạo lâm nghiệp lâu dài.
Đối với VQG đáp ứng ít nhất một trong ba tiêu chí sau đây: Có ít nhất 01 mẫu
chuẩn hệ sinh thái đặc trưng của một vùng sinh thái hoặc của quốc gia, quốc tế; có
diện tích liền vùng tối thiểu trên 10.000 ha, trong đó ít nhất 70% diện tích là các hệ
sinh thái tự nhiên; diện tích đất nông nghiệp và đất thổ cư phải nhỏ hơn 5%. Có ít
nhất 01 loài sinh vật đặc hữu của Việt Nam hoặc có thể bảo tồn sinh cảnh trên 05
loài sinh vật nguy cấp, quý, hiếm theo quy định của pháp luật; có diện tích liền vùng
tối thiểu trên 7.000 ha, trong đó ít nhất 70% diện tích là các hệ sinh thái tự nhiên;
diện tích đất nông nghiệp và đất thổ cư phải nhỏ hơn 5%. Có giá trị đặc biệt quan
trọng về bảo vệ cảnh quan, nghiên cứu thực nghiệm khoa học của quốc gia được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt [15, Điều 5].
1.1.1.3. Khái niệm bảo vệ rừng đặc dụng:
Hiểu theo nghĩa thông thường, bảo vệ là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ
cho luôn luôn được nguyên vẹn[67].
Bảo vệ rừng đặc dụng được hiểu theo nghĩa hẹp là hành động chống lại mọi
sự xâm phạm, giữ cho rừng đặc dụng được nguyên vẹn, không bị phá hoại. Theo
cách hiểu này, việc bảo vệ đồng nghĩa với bảo tồn, hành động bảo vệ rừng chỉ bao

gồm giữ nguyên hiện trạng ban đầu của RĐD, nghiêm cấm mọi hành vi khai thác
RĐD.
Tuy nhiên, như đã phân tích, rừng là một hệ sinh thái có hệ thống tự điều hòa,
tự phục hồi theo những quy luật riêng mà không hệ sinh thái nào có được, rừng nói
chung và RĐD nói riêng được coi là tái tạo nếu con người biết khai thác và sử dụng
hợp lý. Xuất phát từ quan điểm đó, bảo vệ RĐD được hiểu theo nghĩa rộng là hoạt

13


động kết hợp giữa bảo tồn và khai thác, sử dụng hợp lý rừng đặc dụng nhằm phát
triển bền vững nguồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học. Theo cách hiểu này,
hoạt động bảo vệ rừng sẽ bao gồm các hoạt động sau: quản lý RĐD, hoạt động bảo
vệ thực vật rừng, động vật rừng; hoạt động sử dụng RĐD; vi xử lý vi phạm và giải
quyết tranh chấp đối với hành vi xâm hại RĐD.
1.1.2. Vai trò của việc bảo vệ rừng đặc dụng
1.1.2.1. Vai trò của rừng đặc dụng
Rừng nói chung, và RĐD nói riêng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình tồn tại và phát triển của con người, có thể kể đến một vài vai trò, chức
năng tiêu biểu của rừng như:
Điều hòa và làm sạch không khí, được coi là lá phổi xanh của trái đất, đây là
vai trò chung của mọi loại rừng. Qua quá trình quang hợp, cây xanh hấp thụ khí
CO2 và sản sinh ra khí O2..Ngoài ra, một héc ta rừng lục hóa, rừng môi sinh và cây
xanh đô thị trong một năm có thể ngăn cản và làm sạch được 70-80 tấn bụi và giảm
30-40% lượng bụi trong không khí [22, tr.113].Việc hấp thụ khí CO2, nguyên nhân
chính gây nên hiệu ứng khí nhà kính làm biến đổi khí hậu, rừng giúp bảo vệ môi
trường và duy trì sự phát triển bền vững của đất nước.
Đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, nuôi dưỡng, điều hòa nguồn nước
và chống xói mòn đất. Rừng giữ gìn và tích lũy độ ẩm ở dưới dạng trữ lượng nước
trong đất và tăng trong nước ngầm, qua đó sẽ tiết kiệm được lượng nước bốc hơi từ

mặt đất và nuôi dưỡng nguồn nước ở dòng chảy khe, suối, làm sạch nguồn nước và
cải thiện chất lượng nước [22, tr.106]. Vai trò này của rừng phụ thuộc nhiều vào
loại rừng, so với rừng trồng chỉ có ít loại thực vật và cây rừng nghèo nàn, rừng tự
nhiên với hệ thống cây rừng đa dạng về độ tuổi, độ dày và có lớp thảm tươi, thảm
mục phong phú thực hiện vai trò giữ nước và chống xói mòn đất hiệu quả hơn rất
nhiều. Thông qua việc điều tiết, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn
rừng giúp giảm lũ lụt, xói mòn, rửa trôi đất, bảo vệ sản xuất và các công trình hạ
tầng cơ sở; giúp hạn chế hiện tượng sa mạc hoá cục bộ hay trên diện rộng.

14


Là nơi cung cấp gỗ và các sản phẩm khác ngoài gỗ phục vụ cho đời sống của
con người. Ngay từ thuở xa xưa, con người đã biết dựa vào rừng để sinh tồn và phát
triển, rừng cung cấp cây gỗ để dựng nhà, củi để đốt, các loại động thực vật là thức
ăn của con người. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu khai thác, sử
dụng rừng ngày càng cao, ngoài các giá trị trực tiếp như cây gỗ, các lâm sản
khác…rừng, nhất là RĐD, còn được khai thác dưới hình du lịch sinh thái, tổ chức
các hoạt động nghiên cứu khoa học, phục vụ đời sống của con người.
Một vai trò không thể không nói đến của rừng là nơi bảo tồn hệ sinh thái rừng
tự nhiên, nguồn gen sinh vật rừng mà RĐD đóng vai trò chính. Không có một công
nghệ hay phòng thí nghiệm nào trên thế giới có thể lưu giữ và bảo tồn các nguồn
gen động, thực vật đồ sồ như rừng [22, tr.26].RĐD được thành lập với mục đích
chính là bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng, nguồn gen sinh vật
rừng.Đối với VQG và KBTTN phải được xác định rõ phân khu bảo vệ nghiêm
ngặt, phân khu phục hồi sinh thái, phân khu dịch vụ - hành chính và vùng
đệm[45, Đ.49]. Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là nơi bảo vệ nghiêm ngặt các hệ sinh
thái rừng và động vật, thực vật rừng trong phân khu; phân khu phục hồi sinh thái
đóng vai trò tái tạo lại rừng tự nhiên trên diện tích đã bị phá hoại để phục hồi lại hệ
sinh thái rừng và giảm bớt tác động cảu con người vào phân khu bảo vệ nghiêm

ngặt, tăng cường bảo vệ môi trường và nguồn nước. Với giá trị như vậy, RĐD có
thể được xem là phòng thí nghiệm khổng lồ trong tự nhiên mà ở đó, các loài động
vật, thực vật khổng chỉ tồn tại mà còn có thể phát triển, tiến hóa.
1.1.2.2. Ý nghĩa của bảo vệ rừng đặc dụng
Qua tìm hiểu một số vai trò quan trọng của rừng nói chung và RĐD nói riêng,
có thể thấy được việc bảo vệ RĐD có ý nghĩa rất to lớn.
Bảo vệ RĐD góp phần bảo vệ môi trường sống của con người. Thông qua việc
điều hòa và làm sạch không khí, bảo vệ, nuôi dưỡng, điều hòa nguồn nước và chống
xói mòn đất, việc bảo vệ RĐD góp phần bảo vệ một phần lá phổi xanh của trái đất,
bảo vệ đất, chống xói mòn đất, bảo vệ tài nguyên nước. Đây đều là những nhân tố
cấu thành quan trọng trong môi trường sống của con người.

15


Bảo vệ RĐD còn giúp nâng cao chất lượng sống của con người, góp phần vào
sự phát triển kinh tế và khoa học, xã hội.RĐD với sự phong phú về các loại động
vật, thực vật hoang dã, đa dạng về cảnh quan thiên nhiên, là nơi thích hợp để phục
vụ cho việc tham quan, du lịch, giải trí và là nơi tiến hành các hoạt động tinh thần
khác tâm linh, tôn giáo. Phát triển các loại hình du lịch sinh thái, khai thác và sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên từ RĐD còn góp phần phát triển kinh tế,
tạo nguồn thu cho xã hội. Do đó, việc bảo vệ RĐD góp phần bảo vệ đời sống tinh
thần của con người và phát triển kinh tế. Ngoài ra, với vai trò là phòng thí nghiệm
lưu giữ nguồn gen lớn nhất, là nơi nghiên cứu thực nghiệm về các loài trong tự
nhiên, việc bảo vệ RĐD có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ đa đa dạng sinh học,
góp phần vào sự phát triển của khoa học.
Đóng một vai trò quan trọng trong cả đời sống vật chất và tinh thần của con
người, nhưng RĐD hiện nay đang bị tàn phá nặng nề, động vật rừng, thực vật rừng
đang bị khai thác quá mức và nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Chính vì
vậy, bảo vệ RĐD là vấn đề cấp thiết được đặt ra hiện nay.

1.2. Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo vệ rừng đặc dụng
1.2.1. Khái niệm của pháp luật bảo vệ rừng đặc dụng
Pháp luật bảo vệ RĐD là một lĩnh vực pháp luật gồm tổng hợp các quy phạm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp trong họat động quản lý và sử dụng
RĐD; bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng; xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp
đối với hành vi xâm hại RĐD. Các quy phạm này được chứa đựng trong các văn
bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành như
Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân…
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật bảo vệ RĐD là các quan hệ xã hội phát
sinh trực tiếp trong họat động quản lý và sử dụng RĐD; bảo vệ thực vật rừng, động
vật rừng và xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp đối với hành vi xâm hại RĐD.
Các quan hệ này có thể được chia thành hai nhóm như sau:
- Nhóm quan hệ thứ nhất:Nhóm quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân với nhau
trong họat động sử dụng RĐD; bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng.

16


- Nhóm quan hệ thứ hai: Nhóm quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau
và giữa cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân trong họat động quản lý và sử dụng
RĐD; bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng và xử lý vi phạm và giải quyết tranh
chấp đối với hành vi xâm hại RĐD
Trên cơ sở đối tượng đều chỉnh như đã nói ở trên, pháp luật bảo vệ RĐD sử
dụng hai phuơng pháp điều chỉnh sau:
- Phương pháp bình đẳng - thỏa thuận (dùng để điều chỉnh nhóm quan hệ thứ
nhất).
- Phương pháp quyền uy (dùng để điều chỉnh nhóm quan hệ thứ hai).
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật bảo vệ rừng đặc dụng:
Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật bảo vệ RĐDlà những nguyên lý, tư tưởng
chỉ đạo quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp bảo vệ RĐD,

trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ RĐD. Bao gồm các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, RĐD thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu quản
lý.Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do
Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.” Về nguyên tắc, tài nguyên rừng thuộc sở
hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Cụ thể tại Luật BVPTR năm 2004
quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý và định đoạt đối với rừng tự nhiên và rừng
được phát triển bằng vốn của Nhà nước, rừng do Nhà nước nhận chuyển quyền sở
hữu rừng sản xuất là rừng trồng từ các chủ rừng; động vật rừng sống tự nhiên,
hoang dã; vi sinh vật rừng; cảnh quan, môi trường rừng”. Như vậy, Nhà nước sở
hữu đối với tất cả các yếu tố cấu thành RĐD – sở hữu mang tính tuyệt đối.
Thứ hai, bảo vệ RĐD là trách nhiệm của toàn dân.RĐD là một thành phần cấu
tạo nên môi trường và như đã phân tích ở trên việc bảo vệ RĐD góp phần quan
trọng trong việc bảo vệ môi trường sống của con người. Bảo vệ môi trường là trách
nhiệm của toàn dân do đó việc bảo vệ RĐD là trách nhiệm chung của cả cộng đồng,

17


không chỉ riêng của cá nhân hay tổ chức nào. Nguyên tắc này Luật BVPTR năm
2004 quy định cụ thể: “Bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân”[15, Điều 9].Thể chế hóa nguyên tắc này, Luật BVPTR năm 2004 đã
quy định “Cơ quan nhà nước, tổ chức, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, cá nhân
có trách nhiệm bảo vệ rừng, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về bảo vệ rừng
theo quy định của Luật BVPTR, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy, pháp luật về
bảo vệ và kiểm dịch thực vật, pháp luật về thú y và các quy định khác của pháp luật
có liên quan. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoạt động trong rừng, ven rừng có trách
nhiệm thực hiện các quy định về bảo vệ rừng; thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước

có thẩm quyền hoặc chủ rừng về cháy rừng, sinh vật gây hại rừng và hành vi vi phạm
quy định về quản lý, bảo vệ rừng; chấp hành sự huy động nhân lực, phương tiện của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khi xảy ra cháy rừng”[45, Điều 36].
Thứ ba, việc bảo vệ RĐD phải đảm bảo phát triển bền vững, đảm bảo các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh. Nguyên tắc phát
triển bền vững được quy định tại Luật BVMT năm 2014: “Phát triển bền vững là
phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ,
hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi
trường”[48, Điều 3]. Nói cách khác, phát triển bền vững chính là phát triển trên cơ
sở duy trì được mục tiêu và cơ sở vật chất của quá trình phát triển. Muốn vậy việc
bảo vệ rừng đăc dụng cần phải có sự tiếp cận mang tính tổng hợp và bảo đảm sự kết
hợp hài hòa giữa các mục tiêu: kinh tế -xã hội-môi trường. Hoạt động bảo vệ không
chỉ đơn thuần là bảo tồn mà cần kết hợp với việc quản lý và khai thác RĐD một
cách hợp lý. Ngoài việc đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ RĐD còn phải đảm
bảo quốc phòng và an ninh, đây cũng là nguyên tắc chung của hoạt động bảo vệ và
phát triển tài nguyên rừng
Thứ tư, bảo vệ RĐD phải đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của nhà nước và tổ
chức, cá nhân. Việc bảo vệ RĐD phải đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước
với chủ rừng, chủ thể được giao quản lý RĐD, lợi ích giữa Nhà nước với các cộng

18


đồng, cá nhân sinh sống trong vùng lõi và vùng đệm của RĐD, với những chủ thể
sống phụ thuộc vào rừng. Để nguyên tắc này được thực hiện hiệu quả, cần lưu ý
việc thực thi pháp luật bảo vệ RĐD trong quá trình xác lập, thành lập các khu RĐD,
hoạt động khai thác và sử dụng RĐD. Khi các khu RĐD được thành lập, sẽ gây ảnh
hưởng tới đời sống của các cộng đồng dân cư sinh sống lâu đời ở vùng đó, các quy
định nghiêm ngặt nhằm bảo vệ RĐD đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh

tế và đời sống của người dân. Do đó, trong quá trình áp dụng pháp luật bảo vệ RĐD
cần phải đảm bảo hài hòa lợi ích người dân, gắn kết các lợi ích kinh tế của người
dân sinh sống xung quanh và bên trong khu RĐD với việc bảo vệ RĐD. Ngoài ra,
hiện nay tình trạng chồng lấn quyền sử dụng đất RĐD hiện nay trong quy hoạch và
quản lý RĐD được ghi nhận là xảy ra khá phổ biến, nó phản ánh những tranh chấp
về quyền đối với rừng và đất rừng giữa các hộ gia đình, cộng đồng và Ban quản lý
các khu RĐD. Tuy chưa dẫn đến những xung đột gay gắt nhưng hiện tượng chồng
lần được coi là một thách thức lớn đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả các mục
tiêu quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học; cũng như ảnh hưởng đến sinh
kế của người dân địa phương do hạn chế các quyền và cơ hội tiếp cận, sử dụng và
hưởng lợi từ tài nguyên rừng và đất rừng trong phạm vi ranh giới các khu
RĐD[65].Giải quyết những vấn đề này đồng thời phải thực hiện nguyên tắc đảm
bảo hài hòa lợi ích của nhà nước và tổ chức, cá nhân mới có thể đảm bảo thực hiện
được nguyên tắc khác trong bảo vệ RĐD như đảm bảo phát triển bền vững.
1.2.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật bảo vệ rừng đặc dụng
Như đã nêu trên, pháp luật bảo vệ RĐD là một lĩnh vực pháp luật gồm tổng
hợp các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp trong họat động
quản lý và sử dụng RĐD; bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng; xử lý vi phạm và
giải quyết tranh chấp đối với hành vi xâm hại rừng. Đồng thời, để thực hiện được
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo vệ RĐD, nội dung điều chỉnh của pháp luật
về lĩnh vực này bao gồm:
Một là, hoạt động quản lý RĐD.Việc bảo vệ RĐD được thực hiện thông qua
các hoạt động quản lý RĐD, nếu quản lý hiệu quả, rừng sẽ được bảo vệ. Hoạt động

19


×