VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH TÙNG
MÔ HÌNH NỘI TRÚ DÂN NUÔI
TRONG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Ở HUYỆN YÊN MINH, TỈNH HÀ GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH TÙNG
MÔ HÌNH NỘI TRÚ DÂN NUÔI
TRONG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Ở HUYỆN YÊN MINH, TỈNH HÀ GIANG
Ngành/chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số:
8 31 03 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN NGỌC THANH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là do tôi viết và chƣa công bố. Các tƣ
liệu trong Luận văn là trung thực và khách quan. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày tháng
năm 2018
Học viên cao học
Nguyễn Thanh Tùng
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản Luận văn Thạc sĩ với đề tài “Mô hình nội trú dân
nuôi trong giáo dục phổ thông ở huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang”, ngoài sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ to lớn, quý báu của giảng
viên hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thanh. Nhân dịp này, cho phép tôi
được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể cán bộ, giảng viên khoa Dân tộc học
và Nhân học của Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam đã giúp đỡ tôi về chuyên môn trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học.
Tôi xin gửi tới các cán bộ công tác ở Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
Yên Minh, cán bộ chính quyền, tập thể giáo viên, lãnh đạo trường phổ thông
cơ sở tại các xã Sủng Thài, Sủng Cháng, Lao Và Chải, Na Khê, Phú Lũng,
Đường Thượng..., cùng cộng đồng người dân tộc thiểu số nơi tôi đến nghiên
cứu điền dã đã tạo điều kiện giúp đỡ và cung cấp thông tin, tư liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và biết ơn sâu sắc đến
thầy giáo Mua Thiên Sính, Nguyên Hiệu trưởng trường nội trú dân nuôi Sủng
Thài, một trong bốn cá nhân có công khởi xướng mô hình nội trú dân nuôi ở
Yên Minh nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung hơn 30 năm về trước. Sự gặp
gỡ, tiếp xúc với “nhân chứng sống” này là một trong những điều kiện tiên
quyết giúp Luận văn được hoàn thành với chất lượng tốt nhất.
Hà Nội, ngày tháng
năm 2018
Học viên cao học
Nguyễn Thanh Tùng
ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: Cơ sở lý thuyết và khái quát địa bàn nghiên cứu
8
1.1. Cơ sở lý thuyết
12
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
12
1.1.2. Lý thuyết nghiên cứu
17
1.2. Khái quát về huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang
21
1.2.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên
21
1.2.2. Đặc điểm dân cư, xã hội
23
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của mô hình NTDN ở Yên Minh
24
Tiểu kết chương 1
29
CHƢƠNG 2: Thực trạng và hiệu quả hoạt động của mô hình nội trú dân nuôi 30
2.1. Thực trạng hoạt động của mô hình NTDN ở Yên Minh
30
2.1.1. Quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường
30
2.1.2. Xây dựng, củng cố cơ sở vật chất cho nhà trường
32
2.1.3. Công tác đảm bảo đời sống sinh hoạt cho học sinh
34
2.1.4. Chế độ học tập, sinh hoạt của học sinh
37
2.1.5. Chế độ chi trả, bồi dưỡng cho giáo viên và người cấp dưỡng
39
2.2. Hiệu quả và ý nghĩa thực tiễn của mô hình
40
2.2.1. Về mặt kinh tế
40
2.2.2. Về mặt xã hội
41
2.2.3. Về mặt văn hóa - đời sống
43
2.2.4. Về kết quả giáo dục phổ thông
46
2.2.5. Củng cố quan hệ dân tộc và góp phần thực hiện chính sách dân tộc
49
2.3. Yếu tố cơ bản tác động tới hoạt động và hiệu quả của mô hình
2.3.1. Đời sống kinh tế của cộng đồng địa phương
iii
51
51
2.3.2. Văn hóa địa phương và tâm lý tộc người
55
2.3.3. Vai trò của nhà trường và hệ thống chính trị cơ sở
59
2.3.4. Trợ cấp giáo dục từ Nhà nước và các đối tượng ngoài Nhà nước
62
Tiểu kết chương 2
64
CHƢƠNG 3: Bài học kinh nghiệm từ mô hình nội trú dân nuôi và
một số vấn đề đặt ra hiện nay cho trƣờng học cấp xã có nội trú
65
3.1. Một số vấn đề đặt ra hiện nay cho trường học cấp xã có nội trú
65
3.1.1. Đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ học sinh nội trú không đồng đều
65
3.1.2. Người dân địa phương chưa nhận thức tốt về XHHGD
66
3.1.3. Sĩ số học sinh chưa được duy trì ổn định
67
3.1.4. Môi trường rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh còn hạn chế
69
3.1.5. Quá trình giảng dạy trên lớp gặp khó khăn bởi sự đa dạng về
thành phần học sinh
70
3.2. Bài học kinh nghiệm và giải pháp cơ bản cho địa phương về phát triển,
nâng cao chất lượng học tập nội trú
71
3.2.1. Thực hiện phân cấp trong tuyển sinh căn cứ vào mạng lưới
trường, lớp sẵn có
71
3.2.2. Thực hiện công bằng trong công tác tuyển sinh
72
3.2.3. Xây dựng chế độ nội trú một cách hệ thống và chặt chẽ
73
3.2.4. Tận dụng nguồn nhân lực địa phương trong bộ máy quản lý nội trú
73
3.2.5. Giáo viên cần chú ý đến hoàn cảnh của từng học sinh
74
3.2.6. Giáo dục nếp sống tiến bộ phải nằm trong chương trình giảng dạy
74
3.2.7. Lồng ghép văn hóa truyền thống tộc người vào chương trình nội trú
75
3.2.8. Lãnh đạo nhà trường và chính quyền địa phương phải là người dẫn đầu
phong trào XHHGD
76
3.2.9. Phân chia hợp lý vai trò của các thành phần tham gia vào XHHGD
76
Tiểu kết chương 3
77
KẾT LUẬN
78
CHÚ THÍCH
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết thƣờng
DTTS
Dân tộc thiểu số
ĐBKK
Điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
HĐND
Hội đồng nhân dân
Mô hình NTDN
Mô hình trường có nội trú dân nuôi
NTDN
Nội trú dân nuôi
Nxb
Nhà xuất bản
PCGD
Phổ cập giáo dục
PTCS
Phổ thông cơ sở
PTDTBT
Phổ thông dân tộc bán trú
PTDTNT
Phổ thông dân tộc nội trú
PTTH
Phổ thông trung học
PVS
Phỏng vấn sâu
TiH
Tiểu học
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
tr
Trang
Trường NTDN
Trường có nội trú dân nuôi
Ủy ban nhân dân
UBND
XHHGD
Xã hội hóa giáo dục
v
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Stt
Bảng 2.1
Tên bảng, sơ đồ
Kết quả học lực của học sinh NTDN và học sinh trường
Trang
47
PTDTNT Yên Minh năm học 2008 - 2009
Bảng 2.2
Kết quả hạnh kiểm của học sinh NTDN và học sinh trường
48
PTDTNT Yên Minh năm học 2008 - 2009
Sơ đồ 2.1
Hệ thống GD&ĐT vùng DTTS ĐBKK
vi
50
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn lịch sử cho thấy, nguồn lực con người vừa là chìa khóa, vừa là
động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội ở bất kỳ địa phương hoặc quốc
gia nào. Nhận thức sâu sắc những giá trị lớn lao của nguồn lực con người, đặc biệt
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và
Chính phủ đã dành sự quan tâm, đầu tư không nhỏ cho sự nghiệp GD&ĐT, coi đây
là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội và đặc
biệt là nâng cao nhận thức, chỉ số phát triển của con người Việt Nam. Trên nền tảng
chung ấy, sự nghiệp giáo dục đối với vùng miền núi, vùng DTTS cũng ngày càng
được đẩy mạnh, nhằm nhanh chóng đưa đồng bào nơi đây thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, từng bước rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, tiến tới công
bằng và hạn chế sự phân hóa trong giáo dục. Hàng loạt chủ trương, chính sách
GD&ĐT nhằm xây dựng đội ngũ lao động, tri thức là người DTTS miền núi đã
được thi hành, qua đó đóng góp trực tiếp vào việc nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào các DTTS, góp phần quan trọng cho xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Song song với những thành tựu to lớn, việc phát triển giáo dục ở các vùng
DTTS và miền núi ở nước ta còn tồn tại nhiều vấn đề hết sức nan giải, mà một trong
số đó là ảnh hưởng của đặc điểm địa lý - dân cư đối với nhiệm vụ PCGD cho trẻ em
trong độ tuổi đến trường. Địa hình hiểm trở, phức tạp ở miền núi làm cho dân cư
phân bố không tập trung, đặc biệt là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Dân cư sống rải
rác ở khe suối, lưng đèo và đỉnh núi... đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc mở trường,
mở lớp. Đại đa số học sinh phải đi học xa nhà đến 5 - 10km đường rừng núi hoặc
hơn. Nhiều em đến lớp phải vượt đèo, lội suối rất gian nan, chưa kể nguy hiểm
trong mùa mưa lũ. Cùng với rào cản về kinh tế gia đình và sự hạn chế của cơ sở hạ
tầng giao thông, đây là khó khăn lớn cho việc vận động con em đồng bào các DTTS
đi học, mà hệ quả tất yếu là tỷ lệ học sinh bỏ học ở các cấp vẫn còn phổ biến, tỷ lệ
học sinh DTTS được tiếp xúc với giáo dục bậc cao còn rất thấp.
1
Để vượt qua những khó khăn kể trên, đồng bào các DTTS cùng cán bộ, giáo
viên ở nhiều vùng sâu, vùng xa đã sáng tạo ra nhiều cách làm hay, những kinh
nghiệm quý báu. Một trong những sáng tạo đó là việc xây dựng trường nội trú cấp
xã bằng mô hình NTDN. Thành công điển hình của trường phổ thông cấp II Đạo
Viện (Yên Sơn, Tuyên Quang) những năm 1964 - 1969, trường Sủng Thài (Yên
Minh, Hà Giang) những năm 1990 - 1995 đã giúp mô hình lan rộng ra nhiều địa
phương trên cả nước, bước đầu mang lại hiệu quả giáo dục, phục vụ cho nhiệm vụ
chính trị là đào tạo nguồn nhân lực người DTTS. Mô hình còn là sự phù hợp với
chủ trương XHHGD của Đảng và Chính phủ trong thời kỳ đổi mới. Nhìn nhận về
những đóng góp to lớn đó, trong Hội nghị tổng kết giáo dục tổ chức vào năm 2009
tại Điện Biên Phủ, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân đã khẳng định đây
là “nhân tố quan trọng nhằm đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo tương lai tốt đẹp
hơn cho con em người dân tộc” và “cần phải được toàn ngành Giáo dục và chính
quyền các cấp quan tâm, phát triển”.
Tuy vậy, có một thực tế được phản ánh qua các phương tiện thông tin đại
chúng, đó là mô hình NTDN dù đã xuất hiện và phát triển ở nhiều huyện, tỉnh trên
cả nước, nhưng do tính chất tự phát của nó, trong công tác chỉ đạo triển khai thì mỗi
địa phương lại mang một sắc thái riêng, tổ chức hoạt động không đồng nhất, mang
tính chủ quan của cán bộ quản lý. Hiệu quả giáo dục của mô hình không đồng đều,
nơi cao, nơi thấp; nơi nào mạnh thì chất lượng khá, nơi nào ít được quan tâm thì dần
sa sút, thậm chí không thể duy trì được. Nhiều địa phương do không xem xét về tính
đặc thù và khả năng của mình nên đã thất bại trong việc huy động nguồn lực xã hội
hóa phục vụ cho mô hình.
Có thể nói, việc nghiên cứu cụ thể, toàn diện về thực trạng, thành tựu và hạn
chế trong hoạt động của mô hình NTDN tại “cái nôi” Yên Minh có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng cho việc đúc rút bài học kinh nghiệm góp phần giải quyết phần nào
những khó khăn, vướng mắc của ở các địa phương khác trên cả nước về vấn đề
NTDN nói riêng và trường nội trú cấp xã nói chung. Trước bối cảnh mà toàn xã hội
đang dành sự quan tâm lớn tới việc đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, tôi quyết
2
định thực hiện đề tài với tên gọi: “Mô hình nội trú dân nuôi trong giáo dục phổ
thông ở huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang”. Với đề tài này, tôi mong muốn đóng
góp một phần công sức nhỏ nhoi của mình vào sự nghiệp giáo dục ở huyện Yên
Minh nói riêng, tỉnh Hà Giang nói chung.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về giáo dục phổ thông vùng DTTS và miền núi
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục phổ
thông ở vùng DTTS, trong đó luận bàn ở nhiều bình diện và góc độ khác nhau. Hầu
hết các công trình thiên về hướng khái quát các lý luận liên quan đến vai trò của
giáo dục dân tộc, ít phân tích có tính phê phán thực trạng và chính sách giáo dục của
Nhà nước. Tuy nhiên, ở một chừng mực nào đó, các tài liệu này có giá trị tham
khảo giúp có được cái nhìn sâu hơn vào thực tế.
Đề cập về tình hình giáo dục và thực hiện chính sách giáo dục ở vùng DTTS
từ sau năm 1945 đến nay, những công trình, bài viết như: “Vài nét về sự phát triển
văn hóa giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc” của La Công Ý [130], “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay” của Bế Viết Đẳng và
cộng sự [25], “Những biến đổi về kinh tế - văn hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc”
của Viện Dân tộc học [125], “Những đặc điểm kinh tế xã hội các dân tộc miền núi
phía Bắc” do Khổng Diễn chủ biên [20], “Khảo sát việc thực hiện chính sách giáo
dục, y tế đối với trẻ em và phụ nữ dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn thuộc
Chương trình 135” của Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự [93], “Một số vấn đề về
chính sách giáo dục ở vùng cao miền núi phía Bắc Việt Nam” do Nguyễn Ngọc
Thanh chủ biên [96]… đã chỉ rõ khoảng cách chênh lệch giữa các tộc người, nhóm
xã hội, giới, độ tuổi... trong việc hưởng dụng chính sách giáo dục. Những tiến bộ
chung được thừa nhận song hành với các biểu hiện sa sút về chất lượng giáo dục, tỷ
lệ huy động trẻ đến trường, sự xuống cấp của cơ sở vật chất trường học và bất bình
đẳng trong việc tiếp cận nền giáo dục quốc dân, bao gồm cả vấn đề dạy, học tiếng
Việt và ngôn ngữ DTTS. Các kết luận được đưa ra cũng cơ bản phù hợp với số liệu
từ những cuộc tổng điều tra quy mô lớn cho thấy nền giáo dục dân tộc vẫn còn gặp
3
rất nhiều thách thức ngay cả trong nhiệm vụ cơ bản nhất là nâng cao tỷ lệ trẻ em
đến trường [7] [58] [59] [64] [127] .
Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu trường hợp của các nhà Nhân
học như: “Họ nói đồng bào không biết quý sự học: Những mâu thuẫn trong giáo
dục ở vùng đa dân tộc Tây Nguyên Việt Nam” của Trương Huyền Chi [12], “Học
không được hay học để l m gì Trải nghiệm học tập của học sinh dân tộc thiểu số”
của Nguyễn Thu Hương và Nguyễn Trường Giang 47], “The Educational Realities
of Hmong Communities in Vietnam: The Voices of Teachers” Thực tế giáo dục của
các cộng đồng người Hmông ở Việt Nam: Tiếng nói của giáo viên] của Constance
Lavoie [146], “Minority status and schooling of the Hmong in Vietnam” Địa vị
thiểu số và sự giáo dục tại trường của người Hmông ở Việt Nam] của Lương Minh
Phượng và Wolfgang Nieke [150], “Factors associated with low educational
motivation among ethnic minority students in Vietnam” Các yếu tố gắn với động
lực học tập thấp đối với học sinh dân tộc thiểu số ở Việt Nam] của Trần Ngọc Tiến
[168], “Eliminating Inter-Ethnic Inequalities? Assessing Impacts of Education
Policies on Ethnic Minority Children in Vietnam” Loại bỏ bất bình đẳng giữa các
dân tộc? Đánh giá tác động của chính sách giáo dục đối với trẻ em dân tộc thiểu số
ở Việt Nam] của Trương Huyền Chi [170]… đã tìm hiểu sâu về các khía cạnh đa
dạng liên quan đến giáo dục ở một số cộng đồng DTTS như Thái, Hmông, Dao, Pà
Thẻn, Mnông... Dựa trên những phân tích định tính cụ thể trên bình diện nhận thức,
hành động và trải nghiệm của người trong cuộc (bao gồm trẻ em không được đi học,
học sinh, phụ huynh, giáo viên, cán bộ địa phương…), các nhà nghiên cứu đã làm
rõ sự mâu thuẫn của tình trạng thiếu và yếu trong giáo dục địa phương trong khi các
nguồn lực chính sách của nhà nước cho sự phát triển giáo dục ngày càng tăng. Rào
cản đối với tiếp cận với giáo dục của học sinh DTTS không chỉ giới hạn trong bộ
khung phân tích của “tam giác đói nghèo”, mà thực tế chú trọng hơn vào các vấn đề
có tính thời sự như định kiến, va chạm trong quan hệ tộc người, hoặc nhấn mạnh
vào ảnh hưởng của những thực hành văn hóa truyền thống dựa theo cách tiếp cận
phổ biến của Nhân học giáo dục.
4
2.2. Nghiên cứu về trƣờng NTDN ở vùng DTTS và miền núi
Từ những năm 2000 trở đi, mô hình NTDN ở vùng DTTS và miền núi mới
thu hút được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu trong nước, trước hết là các
ngành Khoa học giáo dục, Quản lý giáo dục. Các bài viết, bài báo khoa học của của
Trương Xuân Cừ [19], Đoàn Văn Ninh 65], Trần Thanh Phúc [74], Lê Nguyên
Quang [77] [78], Lê Nguyên Quang và Tôn Thị Tâm [79], Ngô Quang Sơn 86],
Tôn Thị Tâm [91], Trần Thị Thành [97]... chủ yếu tập trung vào những vấn đề định
danh, vị trí, vai trò, hạn chế, phương pháp quản lý, phát triển và mở rộng mạng lưới
trường, lớp. Các tác giả đã phân tích sơ bộ đặc thù của vùng DTTS với các điều
kiện địa lý, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động của trường NTDN.
Bên cạnh những bài viết có ý nghĩa giới thiệu, phân tích lý luận, một số công
trình mang tính chất điều tra, khảo sát về trường NTDN đã được thực hiện trong
cùng thời điểm, với địa bàn nghiên cứu giới hạn ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Tư
liệu thực địa của nhóm tác giả Ngô Văn Doanh được trình bày trong công trình
“Nghiên cứu xây dựng mô hình trường nội trú dân nuôi ở vùng cao” 22] đã cung
cấp một số thông tin về lịch sử hình thành và phát triển của trường NTDN ở 4 tỉnh
Lào Cai, Hà Giang, Sơn La và Yên Bái. Công trình “Nghiên cứu các loại hình
trường, lớp vùng dân tộc từ năm 1991 đến nay” do Vi Văn Điểu làm chủ nhiệm cho
thấy sự phát triển nhanh chóng về quy mô của trường, lớp NTDN trên cả nước trong
những năm đầu của thế kỷ XX [27]. Trong cuốn “Một số vấn đề về chính sách giáo
dục ở vùng cao miền núi phía Bắc Việt Nam” do Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên
[96], các tác giả cũng đề cập nhiều thông tin về hiện trạng cơ sở vật chất, sự khác
biệt trong phương thức huy động XHHGD liên quan đến trường NTDN ở các địa
phương vùng cao ĐBKK.
Các luận văn chuyên ngành Quản lý giáo dục của Hoàng Văn Khánh 49], Lê
Mã Lương 56], Hoàng Đức Quế [82], Ngô Tiến Sỹ [90] và đặc biệt là công trình
“Mô hình quản lý trường phổ thông dân tộc bán trú ở các xã đặc biệt khó khăn của
tỉnh Hà Giang” của Phạm Huy Trà [113] đã trình bày cụ thể hơn về thực trạng công
tác quản lý các trường NTDN. Dựa trên phương pháp tiếp cận Sư phạm học, tác giả
5
của những luận văn đã đánh giá sâu sắc về những mặt yếu - mạnh, những thuận lợi
và khó khăn trong công tác tổ chức hoạt động trong và ngoài giờ học, từ đó đề xuất
một số giải pháp cơ bản để khắc phục những vướng mắc đã được nhìn nhận. Trong
khi đó, bài viết “Trường phổ thông dân tộc bán trú - sự nỗ lực sáng tạo cộng đồng
để phát triển giáo dục bền vững vùng dân tộc và miền núi” của Nguyễn Hồng Thái
[98] lại đưa ra nhiều nhận xét đáng chú ý về các vấn đề thực tiễn mang tính chính
trị, xã hội của trường NTDN ở một phạm vi rộng bằng tư liệu phỏng vấn sâu và
điều tra xã hội học ở Đắk Lắk, Hà Giang và Tuyên Quang.
Nhìn chung, các tác giả đều khẳng định trường NTDN là một hiện tượng
XHHGD điển hình, một mô hình phát triển giáo dục bền vững phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội ở khu vực miền núi nhờ khả năng huy động được một số lượng
lớn học sinh trong độ tuổi đến trường và từng bước cải thiện chất lược giáo dục,
được đa số nhân dân đồng tình ủng hộ. Họ cũng chỉ ra những bất cập phổ biến của
nó như: chất lượng nội trú thấp kém, chưa có cơ chế chính sách thống nhất, chưa có
mô hình quản lý phù hợp, chưa huy động tối đa sức mạnh của cộng đồng trong công
tác xây dựng cơ sơ vật chất và quản lý nhà trường... Đề xuất và khảo nghiệm một số
giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý, các tác giả nhấn mạnh vào yêu cầu đảm bảo
tính chuyên biệt và đặc thù địa phương, đồng thời phải có sự liên hệ đa chiều, đảm
bảo sự tham gia của nhiều thành phần theo cơ chế dân chủ.
Tuy có nhiều cố gắng, hạn chế chung của hệ thống tài liệu đã có là chưa quan
tâm đưa những yếu tố văn hóa, xã hội đặc thù của địa phương và vai trò của thể chế
chính trị vào khung phân tích, đánh giá, cho nên những tồn tại được đưa ra khó có
giá trị suy rộng và các giải pháp còn thiếu tính thuyết phục. Mặt khác, các nghiên
cứu thường thiên về việc đề xuất giải pháp tập trung vào yếu tố Nhà nước trong khi
chưa chú ý đến vấn đề XHHGD dân tộc, phát huy sức mạnh cộng đồng và các tổ
chức phi chính phủ trong lĩnh vực này. Cuối cùng, về mặt phương pháp, các nghiên
cứu nói chung thường dựa vào thu thập tài liệu từ các nguồn thứ cấp, tiếng nói của
người dân thường chưa được phân tích một cách khoa học và thấu đáo.
6
Như vậy, có một khoảng trống lớn trong nghiên cứu về vấn đề trường
NTDN. Việc tìm hiểu, phân tích những yếu tố làm nên sự thành công (hoặc chưa
được thành công) của nó cũng chưa được quan tâm đúng mức. Đây chính là hạn chế
lớn về mặt khoa học cho việc định hướng nhân rộng, hoàn thiện loại hình trường
nội trú cấp xã tại các địa bàn miền núi vùng sâu, vùng xa trên cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Từ các nguồn tư liệu thành văn và điền dã Dân tộc học, Luận văn bước đầu
đánh giá một số mặt hoạt động của mô hình NTDN ở huyện Yên Minh, tỉnh Hà
Giang.
- Luận văn đóng góp thêm cơ sở khoa học, góp phần nâng cao chất lượng
của mô hình NTDN nói riêng và công tác XHHGD nói chung ở tỉnh Hà Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát, làm rõ bối cảnh ra đời và phát triển của mô hình NTDN trong
giáo dục phổ thông ở huyện Yên Minh.
- Khảo sát thực trạng và đánh giá hiệu quả, yếu tố tác động đối với hoạt động
của mô hình NTDN ở một số trường phổ thông trên địa bàn huyện.
- Đề xuất một số giải pháp và bài học kinh nghiệm có giá trị ứng dụng ở các
địa bàn miền núi vùng sâu, vùng xa khác.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là mô hình NTDN trong giáo dục phổ
thông ở huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: giới hạn không gian nghiên cứu trong địa bàn huyện Yên
Minh, tỉnh Hà Giang, trong đó tập trung vào 6 xã điển hình từng áp dụng mô hình
NTDN là: Sủng Thài, Sủng Cháng, Lao Và Chải, Na Khê, Phú Lũng, Đường
Thượng
7
Luận văn đầy đủ ở file:Luận văn Full