Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.67 KB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BIỆN THỊ THU

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI
SAU CAI NGHIỆN MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BIỆN THỊ THU

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI
SAU CAI NGHIỆN MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Hành chính
Mã số

: 838.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TUẤN KHANH

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của TS. Nguyễn Tuấn Khanh, Phó
Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra, tôi đã hoàn thành luận văn với đề tài
“Quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy từ thực tiễn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng”.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Tuấn
Khanh - người đã hướng dẫn, giúp em có cách tiếp cận một cách khoa học để
nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Em cũng xin trân trọng cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trong khoa Luật Hiến
pháp và Hành chính, cùng các thầy cô giáo Học viện Khoa học xã hội, những người
đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ và hỗ trợ trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo đơn vị, gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã luôn ủng hộ, động viên và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành đề tài.
Luận văn không tránh khỏi thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến quý báu của các thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Biện Thị Thu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ

Luật học "Quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy từ thực tiễn quận
sơn trà, thành phố Đà Nẵng" là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề
tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Biện Thị Thu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA TÚY .................................................. 7
1.1. Khái quát về ma tuý và người nghiện ma túy ...................................................... 7
1.2. Quan niệm, đặc điểm, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp quản lý nhà
nước đối với người sau cai nghiện ma túy ................................................................ 12
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma
túy

........................................................................................................................ 19

Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI SAU
CAI NGHIỆN TẠI QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..................... 29
2.1. Khái quát tình hình nghiện ma túy, công tác cai nghiện và quản lý sau cai
nghiện tại quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng.......................................................... 29
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện tại quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng.................................................................................................... 39
2.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy tại
quận Sơn Trà ............................................................................................................. 55

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU
QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN ............. 64
3.1. Phương hướng quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện thời gian tới .... 64
3.2. Giải pháp quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy..................... 66
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANCT

: An ninh chính trị

ANTQ

: An ninh Tổ quốc

Hội CCB

: Hội Cựu chiến binh

Hội LHPN

: Hội Liên hiệp Phụ nữ

LĐ-TB&XH

: Lao động - Thương binh và Xã hội


MTTQVN

: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

TTATXH

: Trật tự an toàn xã hội

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê số liệu xử lý vi phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng (2012 – 2017) ..................................................................................................33
Bảng 2.2. Tổng hợp đối tượng liên quan đến ma túy từ năm 2012 - 2017 ...............34
Bảng 2.3. Tổng hợp phân loại đối tượng ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
năm 2017 ...................................................................................................................38
Bảng 2.4. Tổng hợp tình hình thực hiện cảm hóa, giáo dục trên địa bàn quận Sơn
Trà năm 2016-2017 ...................................................................................................45
Bảng 2.5. Tình hình cấp kinh phí cho công tác cảm hóa, giáo dục, đào tạo nghề và
tìm kiếm việc làm năm 2016, 2017 tại thành phố Đà Nẵng .....................................47
Bảng 2.6. Chi phí cho quá trình huấn luyện, đào tạo nghề, khởi nghiệp ..................54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tệ nạn ma túy được coi là hiểm họa đối với loài người và đã thực
sự trở thành vấn đề nóng bỏng, vượt qua biên giới của mỗi quốc gia. Và Việt Nam

cũng đang phải gánh chịu mối hiểm họa đó. Theo báo cáo rà soát, quản lý người
nghiện của Bộ Công an, tình hình nghiện ma túy ở nước ta những năm gần đây tiếp
tục diễn biến phức tạp. Số người nghiện ma túy đã xuất hiện ở 100% các tỉnh, thành
phố, gần 90% quận, huyện và khoảng 70% số xã, phường, thị trấn trong cả nước; số
người tái nghiện chiếm tỷ lệ tương đối cao, có những nơi lên đến hơn 85%. Số
người nghiện ma túy ngày càng gia tăng và có những chuyển biến khó lường. Theo
Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2017, cả nước có 210.751
người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tăng 10.617 người so với cùng kỳ năm 2015
(200.134 người).
Mặc dù công tác phòng, chống ma túy, cai nghiện và quản lý sau cai nghiện
được Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo, bổ sung
nguồn lực, kiên trì thực hiện trong nhiều năm qua và đã có những nỗ lực nhất định
nhưng do nhiều nguyên nhân, tình trạng người tái nghiện ma túy vẫn chiếm tỷ lệ
cao. Các số liệu cho thấy, dù đã có nhiều phương pháp cai nghiện được ứng dụng
rộng rãi ở Việt Nam nhưng tỉ lệ tái nghiện vẫn có thể lên đến hơn 85% trong năm
đầu tiên nếu không chăm sóc sau cai nghiện.
Với tình hình tội phạm ma túy ngày càng tinh vi và phức tạp, công tác quản
lý người nghiện ma túy, cai nghiện và sau cai nghiện ma túy còn nhiều bất cập thì
đòi hỏi tất yếu phải chú trọng hơn nữa về công tác quản lý nhà nước đối với người
sau cai nghiện và phải có sự vào cuộc của cả gia đình, toàn thể cộng đồng xã hội
cũng như của tất các cấp ngành, chính quyền địa phương để giúp người sau cai
nghiện có cuộc sống hòa nhập với cộng đồng một cách tốt hơn.
Thành phố Đà Nẵng nói chung và địa bàn quận Sơn Trà nói riêng không phải
là một trong những địa phương có số người nghiện ma túy đứng đầu cả nước nhưng

1


với thế mạnh về phát triển du lịch và các lễ hội, lượng du khách tập trung đông nên
các đối tượng lợi dụng để hoạt động mua bán và sử dụng ma túy trái phép ngày

càng nhiều, diễn biến phức tạp, tinh vi, khó phát hiện, tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh
hưởng đến trật tự an ninh xã hội. Những năm qua, số người nghiện ma túy trên địa
bàn có xu hướng gia tăng về số lượng và ngày càng trẻ hóa. Công tác quản lý người
sau cai nghiện còn nhiều bất cập, thể hiện qua việc số tái nghiện còn chiếm tỷ lệ
cao. Nếu không có biện pháp quản lý, kiểm soát chặt với đối tượng này sẽ tiềm ẩn
nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự.
Do vậy, trong những năm gần đây thành phố, UBND các quận huyện tập trung
đẩy mạnh công tác quản lý sau cai nghiện tại nơi cư trú. Nội dung quản lý sau cai
nghiện tại nơi cư trú bao gồm: Quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ người sau cai nghiện
phòng, chống tái nghiện; tư vấn cho họ để thay đổi hành vi, nhân cách; Hỗ trợ học
nghề, tìm việc làm và tạo điều kiện để người sau cai nghiện tham gia các hoạt động
xã hội, hoà nhập cộng đồng.
Tuy nhiên, tỷ lệ thành công sau một đợt cai nghiện còn thấp, tỉ lệ tái nghiện
vẫn còn cao; Công tác giúp đỡ, tư vấn cho họ để thay đổi hành vi, nhân cách đã
được thực hiện nhưng chưa có chương trình cụ thể, hiệu quả chưa cao. Kết quả giải
quyết việc làm cho người nghiện ma túy sau chữa trị, phục hồi còn nhiều hạn chế.
Hàng năm số đối tượng được tạo việc làm ở cộng đồng chiếm tỷ lệ rất thấp khoảng
12%. Nguyên nhân của tình trạng này ngoài những khó khăn khách quan còn do:
Việc tư vấn kỹ năng sống chuyên sâu và tạo việc làm cho người sau cai
nghiện là một trong những nội dung quan trọng, là yêu cầu thiết yếu để cho đối
tượng tái hòa nhập cộng đồng, phòng chống tái nghiện có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện
nay việc giúp đỡ, tư vấn mới chỉ dừng lại ở đối thoại, tuyên truyền, vận động mang
tính giáo dục, chưa có mô hình hỗ trợ kỹ năng sống, hỗ trợ định hướng nghề phù hợp
và hỗ trợ học nghề, giới thiệu việc làm với từng đối tượng, theo dõi quá trình ổn định
cuộc sống của đối tượng để hỗ trợ.

2


Công tác hỗ trợ học nghề, giới thiệu việc làm không được phân loại đối

tượng, hỗ trợ học nghề theo xu hướng chung của xã hội là trên địa bàn cần nghề gì,
đào tạo nghề đó, ít quan tâm theo sở trường, sở thích của đối tượng. Nguồn kinh phí
hỗ trợ học nghề cào bằng, chủ yếu hỗ trợ các nghề ngắn hạn và kinh phí thấp, không
hỗ trợ chuyên sâu.
Chưa kết nối được với doanh nghiệp cần sử dụng lao động, lao động tự tìm
việc làm, có khi đi làm không đúng nghề đã được đào tạo. Các doanh nghiệp còn tâm lý
chưa tin tưởng đối với đối tượng sau cai nghiện khi nhận đối tượng vào làm việc.
Bản thân đối tượng và gia đình còn thờ ơ, phó mặc cho xã hội, không nỗ lực
tìm kiếm việc làm, không quyết tâm thay đổi cuộc đời.
Mặt khác, những cơ chế chính sách của Nhà nước ban hành nhiều năm đã lạc
hậu, không còn phù hợp với thực tế, không khuyến khích được các doanh nghiệp,
xã hội tham gia vào công tác thiện nguyện giúp đỡ, tư vấn, giải quyết việc làm cho
đối tượng.
Xuất phát từ thực trạng trên đây, việc nghiên cứu đề tài: “Quản lý nhà nước
đối với người sau cai nghiện ma túy từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng” là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, hoạt động phòng, chống ma túy, tổ chức cai
nghiện và quản lý sau cai nghiện ma túy ở Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu
ở nhiều góc độ và những cách tiếp cận khác nhau, có thể kể đến một số đề tài sau:
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về tổ chức cai nghiện, quản lý sau cai
nghiện và tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố “Nghiên cứu các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai” mã số 02-X07 của Tiến sỹ
Nguyễn Thành Công, Hà Nội, 2003.
- Tài liệu “giới thiệu và hướng dẫn áp dụng mô hình cai nghiện có hiệu quả”,
Cục Phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội, 2007.
- Công trình nghiên cứu “Cai nghiện ma túy, thực trạng và giải pháp” của

3



Viện Nghiên cứu và ứng dụng dược liệu điều trị bệnh hiểm nghèo, Hà Nội, 2005.
- Công trình “Mô hình quản lý, giáo dục, tư vấn cho người nghiện ma túy tái
hòa nhập cộng đồng của Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội – Sở Lao động TB&XH
thành phố Hà Nội, Câu lạc bộ B93, Hà Nội, 2003.
- Bài viết nghiên cứu “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001 –
2010” của Tiến sỹ Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Lao động xã hội, 2001.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về ma túy, người nghiện ma túy, tội
phạm ma túy
- Sách “Tội phạm về ma túy, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp phòng
ngừa” của Tiến sỹ Vũ Quang Vinh, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2005.
- Luận án Tiến sỹ “Quản lý nhà nước về công tác phòng, chống ma túy ở
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của Phan Thị Mỹ Hạnh, Hà Nội, 2016.
- Tài liệu nghiên cứu “Nghiện ma túy – điều trị và dự phòng” của Trường
Đại học Y Hà Nội, Hà Nội, 1998.
Bên cạnh đó cũng có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết liên quan
đến hai nhóm công trình nêu trên được công bố trên các tạp chí và sách báo.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu các vấn đề
liên quan đến ma túy, nghiện ma túy, tệ nạn ma túy và cai nghiện ma túy trên cả hai
khía cạnh lý luận và thực tiễn. Từ đó tập trung nhấn mạnh các giải pháp cai nghiện và
hạn chế tội phạm về ma túy. Tuy nhiên chưa có nhiều đề tài nghiên cứu sâu về người
sau cai nghiện ma túy và quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy.
Trên cơ sở những vấn đề chưa được giải quyết trong các công trình đã được
công bố, tôi có tham khảo và tiếp thu có chọn lọc những vấn đề liên quan đến đề tài
nghiên cứu và tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác quản lý nhà
nước đối với người sau cai nghiện ma túy trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý

4


luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy;
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản
lý nhà nước đối với người sau cai nghiện tại các quận trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng nói chung và tại quận Sơn Trà nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ quan niệm, đặc điểm, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức
quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy;
- Phân tích, đánh giá đúng đắn thực trạng, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và
tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng của hoạt động động quản lý nhà nước đối với người
sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà;
- Đưa ra được quan điểm, định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với người sau cai nghiện tại quận Sơn Trà nói
riêng và các quận khác nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Pháp luật và công tác thực hiện pháp luật về quản lý sau cai nghiện
- Hoạt động quản lý Nhà nước đối với người sau cai nghiện
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: đề tài nghiên cứu công tác quản lý đối với người sau cai nghiện
ma tuý có hồ sơ quản lý sau cai nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: nghiên cứu thực trạng quản lý Nhà nước đối với người sau cai
nghiện ma tuý từ năm 2012 đến năm 2017.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và nghiên cứu liên ngành: Sử dụng

5


các nguồn thông tin thu thập được dựa trên các tài liệu nghiên cứu đã có, các số liệu
thống kê, báo cáo, tổng hợp và một số đề tài nghiên cứu khoa học, điều tra khảo sát
của Chi Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Sở Lao động - Thương binh và Xã hội,
cũng như các báo cáo tổng kết của địa phương để khái quát hóa các vấn đề cơ bản.
- Điều tra xã hội học: Khai thác những vấn đề liên quan đến đề tài thông qua
tiến hành một số cuộc trao đổi, hỏi chuyện trực tiếp tại các trung tâm, phường nhằm
mục đích minh hoạ.
5. Ý nghĩa của luận văn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến
quản lý Nhà nước về ma tuý và quản lý sau cai nghiện.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài tổng kết, đánh giá được thực tiễn quản lý nhà nước đối với người sau
cai nghiện ma túy ở Việt Nam nói chung và quận Sơn Trà, Đà Nẵng nói riêng.
Luận văn cũng là nguồn cung cấp thông tin, có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các nhà quản lý có cái nhìn khái quát, đúng đắn hơn về công tác
quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện, từ đó đề ra được những chính sách
quản lý phù hợp với điều kiện, và tình hình ở mỗi địa phương, góp phần đẩy mạnh
công tác phòng chống ma tuý, làm giảm tỷ lệ tái nghiện và thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội nói chung.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn có bố cục gồm 03 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước đối với người
sau cai nghiện ma túy.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện tại
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp quản lý nhà nước đối với người sau cai
nghiện tại quận Sơn Trà.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA TÚY
1.1. Khái quát về ma tuý và người nghiện ma túy
1.1.1. Quan niệm về ma tuý và tác hại của ma túy
1.1.1.1. Quan niệm về ma túy
Theo khái niệm khoa học, ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên, bán
tổng hợp hay tổng hợp, có tác dụng lên thần kinh trung ương gây cảm giác như
giảm đau, hưng phấn hay cảm thấy dễ chịu... mà khi dùng nhiều lần thì sẽ phải sử
dụng lại nó nếu không sẽ rất khó chịu.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), “ma túy là bất kỳ chất gì mà khi đưa vào
cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng sinh lý của cơ thể”. Năm
1991, chương trình kiểm soát ma túy quốc tế của Liên Hợp quốc (UNDCP) cũng đã
xác định: “Ma túy là những chất độc có tính gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên
hoặc nhân tạo khi xâm nhập vào cơ thể con người thì có tác dụng làm thay đổi tâm
trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc vào chúng gây nên những tổn
thương cho từng cá nhân và cộng đồng”[12] [14].
Theo cách hiểu thông thường trong xã hội Việt Nam hiện nay, ma túy thường
được hiểu đó là thuốc phiện, heroin, bạch phiến. Sở dĩ gọi là “ma túy” vì các chất
này có tác dụng như ma thuật, ma quái, nó làm tăng hưng phấn hoặc ức chế thần

kinh, làm cho con người mê mẩn, không còn tỉnh táo.
Theo Điều 2 của Luật phòng, chống ma túy số 23/2000/QH12 được Quốc hội
khóa X kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09 tháng 12 năm 2000 quy định:
“1. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định
trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình
trạng nghiện đối với người sử dụng.

7


3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu
sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng”[18, tr.9-10]
Như vậy, có thể quan niệm ma túy là chất có nguồn gốc tự nhiên, bán tổng
hợp hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người sẽ làm thay đổi trạng thái ý
thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ lệ thuộc vào nó,
khi đó sẽ gây tổn thương và nguy hại cho cả người sử dụng lẫn cộng đồng xã hội.
1.1.1.2. Tác hại của ma túy
Ma túy được coi là hiểm họa đối với loài người và đã thực sự trở thành vấn
đề nóng bỏng, vượt qua biên giới của mỗi quốc gia. Cộng đồng quốc tế đã tốn nhiều
công sức, tiền của để đấu tranh chống ma túy nhưng tình trạng nghiện hút và buôn
lậu ma túy vẫn có chiều hướng gia tăng và ngày càng nghiêm trọng. Theo tuyên bố
của khóa họp đặc biệt lần thứ 20 của Đại hội đồng Liên hợp quốc từ ngày 08 đến
ngày 10 tháng 6 năm 1998 tại Hoa Kỳ đã nhấn mạnh: “Ma túy hủy hoại cuộc sống
và cộng đồng, làm xói mòn sự tồn tại và phát triển của loài người và là nguồn phát
sinh tội phạm. Ma túy ảnh hưởng mọi lĩnh vực xã hội của tất cả các nước. Đặc biệt
sự lạm dụng ma túy đã ảnh hưởng tới tự do và phát triển của lớp trẻ, một giá trị của
nhân loại. Ma túy là mối đe dọa lớn đối với sức khỏe và sự tồn tại của con người,
đến độc lập, dân chủ và ổn định của các nhà nước và các dân tộc, đến cấu trúc của
một xã hội, nhân phẩm và hy vọng của hàng triệu người và gia đình họ” [27, tr.2]

Ma túy làm hủy hoại sức khỏe của con người, là nguyên nhân phát sinh
nhiều loại bệnh tật, ảnh hưởng đến sự phát triển nòi giống, làm mất nhân cách con
người và nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS dẫn đến phá vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Nghiện ma túy dẫn đến
tình trạng nhiễm độc ma túy mãn tính, suy nhược toàn thân, người gầy gò, xanh
xao, mắt trắng, môi thâm, nước da tái xám, dáng đi xiêu vẹo, cơ thể gầy đét do suy
kiệt hoặc phù nề do thiếu chất dinh dưỡng, rối loạn nhịp tim sinh học, thức đêm,
ngủ ngày, sức khỏe giảm sút rõ rệt. Do tính cách người nghiện thường hay thay đổi
và do mâu thuẫn về quyền lợi, nên họ luôn chống lại người thân trong gia đình; họ
hay gây gổ, cáu gắt, lừa dối người thân dẫn đến tình cảm sứt mẻ, xung đột trong gia

8


đình ngày càng tăng.
Những người nghiện ma túy nếu không được cai nghiện, giáo dục tích cực
thì sẽ dễ dẫn đến các tệ nạn xã hội và gây ảnh hưởng nặng nề đối với nền kinh tế
của đất nước. Hàng năm ngân sách phải chi hàng trăm tỷ đồng cho công tác cai
nghiện phục hồi, phòng chống tái nghiện, trả lương cho đội ngũ cán bộ làm công tác
phòng chống tệ nạn ma túy, chưa kể tiền của gia đình người nghiện đóng góp. Thêm
vào đó, nghiện và tái nghiện ma túy làm tổn thất một nguồn nhân lực rất lớn cho
phát triển kinh tế vì đại đa số người nghiện, tái nghiện đều trong độ tuổi lao động và
còn rất trẻ. Sự tăng nhanh của số người nghiện ma túy đòi hỏi phải có nhiều cơ sở
cai nghiện ma túy và các dịch vụ chữa trị khác. Hàng năm, ngân sách nhà nước chi
cho việc xây dựng và hoạt động các trung tâm cai nghiện ở các tỉnh, thành phố
trong cả nước tốn kém hàng trăm tỷ đồng. Như vậy, thiệt hại về kinh tế do tái
nghiện ma túy gây ra rất lớn.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm của người nghiện ma tuý và người sau cai
nghiện ma tuý
1.1.2.1. Quan niệm về người nghiện ma túy và người sau cai nghiện ma túy

* Nghiện ma túy
Là sự lệ thuộc của con người cụ thể đối với các chất ma túy, làm cho con
người không thể quên hay từ bỏ ma túy được. Khi dùng lần đầu, người ta sẽ cảm
giác ngây ngất, dễ chịu, và thèm muốn được dùng lại và trở nên nghiện, nếu không
dùng tiếp sẽ rất khó chịu, đau đớn, vật vã.
Một người bị nghiện ma túy sẽ bị mọi người hiểu là nghiện heroin hay ngược
lại mà không có sự phân biệt về chất người đó lệ thuộc. Tùy vào loại ma túy cũng
như số lượng và sự điều độ trong việc sử dụng là những tác nhân có thể dẫn đến
việc nghiện của người sử dụng. Thông thường, số lớn chất ma túy tổng hợp (nhân
tạo) có khả năng gây nghiện cao đồng thời có sức tàn phá cơ thể của người dùng
hơn chất tinh khiết tự nhiên.
Có thể hiểu khái niệm nghiện ma túy như nhận định của tổ chức y tế thế giới
(WHO): “Nghiện ma túy là trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính có hại cho cá

9


nhân và xã hội do dùng lặp lại một chất ma túy tự nhiên hay tổng hợp” [13].
* Người nghiện ma túy
Tổ chức y tế thế giới (WHO) định nghĩa: “Người nghiện ma túy là người sử
dụng ma túy, chất gây nghiện, chất hướng thần dưới các hình thức khác nhau như
hút, hít, tiêm chích và bị lệ thuộc vào các chất này”.
Cũng có thể hiểu, người nghiện ma túy là người sử dụng lặp lại nhiều lần
một chất ma túy tự nhiên hay tổng hợp và bị lệ thuộc vào các chất ma túy đó, không
thể quên hay từ bỏ được nó.
* Cai nghiện ma túy
Với những hậu quả, tác hại mà ma túy gây ra cho người nghiện và gia đình,
xã hội... thì tất yếu phải có hoạt động cai nghiện ma tuý, đó là biện pháp giúp người
nghiện ma tuý thông qua chữa trị để từ bỏ ma tuý, phục hồi sức khoẻ tinh thần và
tái hoà nhập cộng đồng.

Nghị định số 94/2010/NĐ-CP ngày 09 tháng 09 năm 2010 của Chính phủ đã
chỉ rõ: “Cai nghiện ma túy là việc áp dụng các hoạt động điều trị, tư vấn, học tập,
lao động, rèn luyện nhằm giúp cho người nghiện ma túy phục hồi về sức khỏe, nhận
thức, tâm lý và hành vi, nhân cách để trở về tình trạng bình thường.” [33, tr.1]
Còn theo như định nghĩa của Liên hợp quốc đưa ra thì: “Cai nghiện là một
biện pháp tổng hợp gồm các tác động về y học, pháp luật, giáo dục học, đạo đức …
nhằm điều trị giúp người nghiện ma túy cắt các hội chứng cai nghiện, phục hồi sức
khỏe và tái hòa nhập xã hội.”
* Người sau cai nghiện ma túy: được hiểu là những người đã được gia
đình, chính quyền, các đoàn thể tại địa phương giúp đỡ, giáo dục, chữa trị cai
nghiện để trở lại cuộc sống bình thường trong xã hội. Người sau cai nghiện ma túy
được giáo dục, điều trị nhằm điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách,
giải quyết các chấn thương tâm lý, mâu thuẫn nội tâm của họ.
Theo Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật phòng,
chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy thì “tái nghiện là tình trạng người

10


nghiện ma túy sau khi đã thực hiện xong quy trình cai nghiện ma túy theo quy định
nhưng vẫn tiếp tục sử dụng chất ma túy”. [34, tr.1]
1.1.2.2. Đặc điểm của người nghiện ma túy và người sau cai nghiện ma túy
Nghiện ma túy là một bệnh não mãn tính, khó chữa và có đặc tính là dễ tái
nghiện. Quá trình nghiện ma túy thường trải qua năm giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Dùng ma túy thấy người lâng lâng dễ chịu, không có thì thấy
nhạt nhẽo, thèm muốn;
- Giai đoạn 2: Dùng ma túy trở thành nhu cầu, thiếu nó thì không chịu được,
phải dùng mọi cách để có nó, kể cả phạm pháp;
- Giai đoạn 3: Dùng ma túy với liều lượng ngày càng tăng;

- Giai đoạn 4: Cai nghiện ma túy, tái nghiện … quá trình này diễn ra phức tạp
làm cho người nghiện khốn khổ về mặt tinh thần, đau đớn về mặt thể xác, kiệt quệ
về tài chính;
- Giai đoạn 5: Ở giai đoạn 4 mà không cai được sẽ chuyển qua thời kỳ nguy
hiểm: khủng hoảng tinh thần trầm trọng, dễ dẫn đến hành vi thiếu lý trí, nguy hiểm.
Người nghiện ma túy có các biểu hiện sinh lý đi kèm với các biểu hiện về
tâm lý như sau:
- Khi đói thuốc (hội chứng đau vật vã): sốt nhẹ, sợ nước, uể oải, đau nhức,
ngáp vặt, chảy nước mắt sống, đồng tử giãn nở; tính tình dễ cáu gắt nhưng luôn tỏ
thái độ thành khẩn, đầy thuyết phục, lại sẵn sàng hành động xấu, miễn là có tiền để
mua thuốc.
- Khi no thuốc: Bị táo bón, tiểu gắt, mắt đỏ, đồng tử teo dần, thân nhiệt tăng,
ăn không đúng bữa, hay ăn vặt, uống nhiều nước, toàn thân như kim châm, nhẹ
nhàng sảng khoái; thường hay nói nhiều, vui vẻ hoạt bát và thích âm thanh mạnh,
xúc giác mạnh, mắt không mở hết hoặc nhắm hờ, không thích tiếng ồn, sẽ cáu gắt
nếu bị quấy rầy. Nếu sử dụng các tân dược thì rất hung hãn, lao vào các cuộc chơi
nguy hiểm, đốt da tay, rạch da chân, gây sự đánh nhau, đua xe; xuất hiện những
hành vi cô lập như cắt móng tay, nhổ râu, nặn mụn một cách vô thức.
Khi người nghiện sử dụng ma túy càng lâu, liều lượng càng tăng thì hậu quả

11


tác hại càng nhiều và càng nặng nề. Khi đã nghiện, người sử dụng ma túy không đủ
nghị lực cũng như không đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, lành mạnh,
không có kỹ năng làm việc, vô trách nhiệm với gia đình và xã hội.
Người sau cai nghiện ma túy có sức khỏe được phục hồi đáng kể sau khi
được cắt cơn nghiện và lại có nhiều mâu thuẫn trong chính bản thân họ: ham muốn
cuộc sống tử tế, ổn định hơn nhưng cũng là lúc cảm giác dễ đến với ma túy hơn nên
họ thường tỏ thái độ lạc quan giả để xây dựng lòng tin với người thân.

Quá trình nghiện ma túy đã tạo cho người nghiện có phản xạ cực nhạy cảm
với ma túy nên mặc dù đã cắt cơn rồi nhưng trong phạm vi 60 tháng hễ cứ nhìn thấy
ma túy, ngửi thấy hơi người nghiện, tiếp xúc với người nghiện, thậm chí chỉ ngửi
thấy mùi mồ hôi thoáng qua của người nghiện hay nhắc đến tên loại ma túy trước
đây quen dùng là cơn thèm khát ma túy lại bùng lên dữ dội không thể kiềm chế
được. Vì vậy, sau khi ra khỏi các trung tâm cai nghiện, người sau cai nghiện trở lại
sống với gia đình và cộng đồng, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xã hội
còn chưa trong sạch ma túy dẫn đến khả năng tái sử dụng ma túy là rất cao. Đó
chính là tái nghiện ma túy.
Tái nghiện được xem như một quá trình, một loạt kích thích không tốt và
cuối cùng dẫn đến việc dùng trở lại các chất ma túy. Ranh giới giữa cai nghiện, dứt
khoát đoạn tuyệt với ma túy và tái nghiện ma túy là rất mong manh và nhiều vấn đề
cần được quan tâm. Chính vì vậy cần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả trong
quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện để giúp họ có thể tái hòa nhập cộng
đồng một cách tích cực nhất.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp
quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện
ma túy
1.2.1.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện là hoạt động chấp hành và
điều hành của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức xã hội do Nhà nước ủy quyền,

12


được tiến hành trên cơ sở pháp luật, để thi hành pháp luật nhằm thực hiện các chức
năng quản lý nhà nước về quản lý người sau cai nghiện ma túy.
Có thể hiểu khái niệm quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy
là việc các cơ quan chức năng, có thẩm quyền tổ chức quản lý, giáo dục, hướng dẫn,

giúp đỡ người sau cai nghiện phòng, chống tái nghiện; hỗ trợ học nghề, tìm việc
làm và tham gia các hoạt động xã hội để hòa nhập cộng đồng cho người sau cai
nghiện ma túy.
Quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy là một nhiệm vụ quan
trọng trong quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy, an ninh trật tự và tệ nạn xã
hội.
1.2.1.2. Đặc điểm
Quản lý sau cai nghiện ma túy có 2 hình thức: quản lý sau cai nghiện tại
Trung tâm quản lý sau cai và quản lý sau cai nghiện tại nơi cư trú.
Theo Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ quy định cơ sở quản lý sau cai nghiện ma túy được gọi là Trung tâm quản lý
sau cai nghiện. Đó là các đơn vị do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) thành lập để thực hiện công tác quản lý sau cai
nghiện đối với người đã hoàn thành thời gian cai nghiện ma túy bắt buộc nhưng có
nguy cơ tái nghiện cao.
Cơ sở của quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy là hệ thống
các thể chế, chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể
và đối tượng trong công tác quản lý đối với người sau cai.
Mục tiêu quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy không chỉ
dừng lại ở việc giúp đỡ người cai nghiện ma túy có thể cắt cơn hoàn toàn, ngăn
chặn nguy cơ tái nghiện trở lại để họ có thể tái hòa nhập cộng đồng nhanh chóng
nhất mà còn hướng tới mục tiêu chung của toàn xã hội nhằm huy động sức mạnh
tổng hợp của các cấp, các ngành và toàn thể xã hội trong công tác phòng chống ma
túy, tệ nạn xã hội và đảm bảo an sinh xã hội.

13


Quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện là một nhiệm vụ trọng yếu,
cấp bách trong tình hình hiện nay nhằm đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội.

1.2.2. Chủ thể, đối tượng quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện
1.2.2.1. Chủ thể
Chủ thể quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện là các cơ quan hành
chính nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Vì ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, đến trật tự an toàn xã
hội, thậm chí đến an ninh quốc gia, nên chủ thể quản lý nhà nước đối với người sau
cai nghiện ma túy phải là Chính phủ. Chính phủ là cơ quan hành pháp đứng đầu và
chịu trách nhiệm cao nhất về kết quả thực hiện công tác quản lý nhà nước về các
mặt, trong đó có công tác quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với các cơ quan hữu
quan trong công tác phòng chống ma túy, tổ chức cai nghiện và quản lý người sau
cai nghiện.
Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước đối với người sau cai
nghiện ma túy tại địa phương, chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức phòng,
chống ma túy trên địa bàn; quản lý việc cai nghiện ma túy và hòa nhập cộng đồng
của người đã cai nghiện ma túy.
Các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân các cấp là bộ phận tham mưu
và trực tiếp thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện tại địa
bàn mình được giao quản lý. Đây cũng là cầu nối để các chính sách, chủ trương,
biện pháp thực hiện được quán triệt thống nhất từ trung ương đến địa phương một
cách hiệu quả, nhanh chóng và sát thực nhất.
1.2.2.2. Đối tượng
Đối tượng quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện là các cá nhân là
công dân Việt Nam hoặc nước ngoài cư trú tại Việt Nam nghiện ma túy nhưng đã
được giúp đỡ, điều trị cắt cơn nghiện, đã hoàn thành xong thời gian cai nghiện tại
Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội, hay còn gọi là người sau cai

14



nghiện ma túy.
Người được quản lý sau cai nghiện chịu sự quản lý, giúp đỡ của tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền trong thời gian từ một đến hai năm kể từ ngày người đó được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cho phép trở về cộng đồng sau khi
chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Người được quản lý sau cai nghiện có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
công dân trong thời gian chịu sự quản lý tại địa phương và phải thực hiện quyền và
nghĩa vụ này theo đúng quy định.
1.2.3. Nội dung, phương pháp quản lý nhà nước đối với người sau cai
nghiện ma túy
1.2.3.1. Nội dung
Mục tiêu trực tiếp của quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy
nhằm quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ người sau cai nghiện ổn định tâm lý, sức khỏe,
phòng, chống tái nghiện; tư vấn cho họ để thay đổi hành vi, nhân cách; tổ chức dạy
văn hóa, hỗ trợ học nghề, tổ chức lao động sản xuất, tìm việc làm và tạo điều kiện
để người sau cai nghiện tham gia các hoạt động xã hội, hoà nhập cộng đồng.
Để đạt được mục tiêu cao nhất trong quản lý nhà nước đối với người sau cai
nghiện, các cơ quan quản lý nhà nước đều phải hết sức nỗ lực thực hiện tốt các nội
dung sau:
Thứ nhất, công tác xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật về quản lý nhà
nước đối với người sau cai nghiện. Với những giá trị vốn có của mình, pháp luật đã
trở thành công cụ chủ yếu để nhà nước thực hiện sự quản lý đối với xã hội nói
chung và người sau cai nghiện ma túy nói riêng. Vì vậy nhà nước cần ban hành hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách cụ thể để tác động, điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, hoạt động có liên quan đến cai
nghiện và quản lý sau cai nghiện ma túy nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã
hội và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Các hoạt động cụ thể như: Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội phải chủ trì nghiên cứu xây dựng, ban hành các chế


15


độ, chính sách về công tác quản lý sau cai nghiện; quy chế quản lý, dạy nghề và giải
quyết việc làm cho người sau cai nghiện tại nơi cư trú và tại Trung tâm…
Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc, tổ chức thực hiện văn
bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện. Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh tăng cường chỉ đạo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối
hợp với các cơ quan liên quan và Ủy ban nhân dân cấp huyện xây dựng các quy chế
quản lý, tư vấn, dạy nghề, tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại nơi cư trú, kế
hoạch tái hòa nhập cộng đồng và quản lý, giúp đỡ người sau cai nghiện tìm kiếm
việc làm, ổn định cuộc sống và phòng chống tái nghiện theo quy định tại Điểm b,
Điểm c Điều 48 Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/2009 của Chính phủ.
Chú trọng chỉ đạo xây dựng, tổ chức đào tạo cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản
lý sau cai nghiện.
Đặc biệt quan tâm đến công tác chỉ đạo Công an cấp huyện nâng cao hơn nữa
vai trò thường trực Ban chỉ đạo phòng chống tội phạm, HIV/AIDS, tệ nạn xã hội và
xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; nâng cao trách nhiệm trong
công tác xác minh, lập hồ sơ áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đảm bảo chặt
chẽ, đúng quy định của pháp luật; tăng cường công tác vận động người nghiện ma
túy tự nguyện khai báo, cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng.
Chỉ đạo các thành viên Ban chỉ đạo cấp huyện và UBND cấp xã, các tổ chức,
đoàn thể thực hiện tốt công tác phối hợp, chế độ báo cáo, thống kê đúng quy định.
Kịp thời biểu dương, khen thưởng, động viên những người sau cai nghiện có tiến
bộ, lao động, học tập tốt; những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong công tác
tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật sâu rộng trong quần
chúng nhân dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan về quản lý đối với người sau
cai nghiện ma túy. Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông luôn cần được quan
tâm thực hiện, coi đó là một công tác chủ đạo trong phòng, chống tội phạm và tệ

nạn ma túy. Tiếp tục sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng,
công nghệ thông tin hiện đại với nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền, phổ

16


biến kịp thời trong nhân dân để ngăn ngừa tác hại của các loại ma túy, các chất
gây nghiện mới.
Cần xây dựng, biên tập nội dung tuyên truyền và đa dạng hình thức tuyên
truyền để phù hợp với từng loại đối tượng khác nhau; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo
dục cá biệt đối với những đối tượng có nguy cơ cao, gia đình có người nghiện ma
túy, và cho người sau cai nghiện để ngăn ngừa nguy cơ nghiện, tái nghiện ma túy.
Thứ tư, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm liên quan đến công tác quản lý nhà
nước đối với người sau cai nghiện ma túy. Mục đích của hoạt động thanh tra, kiểm
tra nhằm phát hiện sai sót trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; thanh tra, kiểm tra để
phòng ngừa, và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục
những tồn tại, thiếu sót, vướng mắc ở cơ sở giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Theo quy định của Luật Thanh tra; Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09
tháng 02 năm 2012 Quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành và Nghị định 94/2010/NĐ-CP
ngày 26/10/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Phòng, chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy, đã quy định
các cơ quan: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội định kỳ kiểm tra, thanh tra,
giám sát việc triển khai thực hiện công tác quản lý sau cai nghiện ma tuý của
UBND cấp tỉnh. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: kiểm tra, thanh tra, giám sát việc triển

khai thực hiện công tác quản lý sau cai nghiện ma tuý của UBND cấp huyện, cấp
xã; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện: thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát
việc triển khai thực hiện công tác quản lý sau cai nghiện ma tuý của cấp xã; thủ
trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: Định kỳ kiểm tra, thanh tra, giám

17


sát và tổng hợp, báo cáo việc triển khai thực hiện công tác quản lý sau cai nghiện
ma tuý của cấp được giao quản lý.
Tuy nhiên, công tác phòng chống ma túy liên quan đến nhiều cơ quan đơn vị,
nên các cơ quan quản lý nhà nước thường thành lập đoàn thanh tra liên ngành, ở cấp
Trung ương do Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội. Ở cấp tỉnh do Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ trì
phối hợp với Sở Y tế, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Tài chính, Sở Tư
pháp... để thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện của UBND cấp huyện,
cấp xã và của các cơ quan chuyên môn liên quan.
Thứ năm, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác quản lý nhà
nước đối với người sau cai nghiện ma túy. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành
chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích
hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định
hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Trường hợp người
khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy
định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ
trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc
khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Hoặc khi công dân phát hiện ra các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức,
cá nhân gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền biết để tiếp nhận và xử lý.
Trong quá trình bị quản lý sau cai nếu người sau cai nghiện có căn cứ cho
rằng hành vi hành chính của cán bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế, Công
an cấp xã, người được phân công hướng dẫn, giúp đỡ, có hành vi trái pháp luật xâm
phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình đều có quyền khiếu nại đến
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Và khi nhận được

18


×