Tải bản đầy đủ (.docx) (145 trang)

CÁC NHÂN tố tác ĐỘNG đến dự ĐỊNH DUY TRÌ THAM GIA hệ THỐNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG mại của bên NHẬN QUYỀN tại TP HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 145 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÉ TP.HÒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ TRANG

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
Dự ĐỊNH DUY TRÌ THAM GIA HỆ THỐNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI CỦA
BÊN NHẬN QUYỀN TẠI TP.HCM

LUẬN ÁN TIÉN SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018


2

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÉ TP.HÒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ TRANG

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐÉN
Dự ĐỊNH DUY TRÌ THAM GIA HỆ THỐNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI CỦA
BÊN NHẬN QUYỀN TẠI TP.HCM
Chuyên ngành: Kinh doanh thương mại
Mã số: 62.34.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


1. GS.TS. VÕ THANH THU
2. TS. TẠ THỊ MỸ LINH

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam

đoan luận án tiến sĩ “Các nhân tố tác động đến dự định duy trì

tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền tại Tp.HCM” là công trình nghiên cứu
của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Võ Thanh Thu và TS. Tạ Thị Mỹ Linh.
Tôi xin cam đoan các số liệu được nêu trong bài là trung thực và nội dung của luận
án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Và tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về tính trung thực của đề tài nghiên cứu này.

Tp.HCM, ngày 6 tháng 05 năm 2018
Nghiên cứu sinh

Irần Ihị Irang

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG DANH
MỤC CÁC HÌNH

CHƯƠNG 1

rri

MỤC LỤC

rrii_ • rfi


4

5.1...............................................................................................................................................

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NCS ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VIẾT
TẮT

STT
1

AMOS

2

B2B


3
4
5
6

CFA
CFI
CLMQH
CMIN

7

CMIN/df

8
9

CP
DDCN

10
11
12
13

DTR
đtg
EFA
EU


14 GFI
15 HACCP
16 ISO
17 KFC
18 KMO
19 KOTRA
20 NCS
21 NĐ
22 NQTM
23 RMSEA
24 S.E
25 SEM
26 SPSS

TTg
Thủ tướng
chính
phủ
DIỄN
GIẢI
28 TW
Trung ương
Tiếng Anh
29 UBNDTiếng Việt
Ủy ban nhân dân
- Bảng giới thiệu về NQTM
30 UFOC
Analysis of MomentUniform
StructuresFranchise Offering
Circular

Business to Business
31 VINEXAD Công ty cổ phần quảng cáo và Vietnam National Trade Fair &
Giao dịch giữa các doanh nghiệp
hội chợ thương mại VINEXAD Advertising Company
Phân tích nhân tố khẳng định
Confirmatory Factor Analysis
Chỉ số thích hợp so sánh
Comparetive Fit Index
Chất lượng mối quan hệ
Chi bình phương
Chi-square
Chi-square điều chỉnh theo bậc tự
Chi-square/df
do
Chính phủ
Đặc điếm cá nhân
Dự định duy trì
Đồng tác giả
Phân tích nhân tố khám phá
Châu Âu

Exploratory Factor Analysis
-

Chỉ số thích hợp tốt
Good of Fitness Index
Hệ thống phân tích mối nguy và Hazard Analysis & Critical
kiếm soát điếm tới hạn
Control Points
Tổ Chức Quốc Tế Về Tiêu Chuẩn International Organization for

Hóa
Standardization
Gà Rán Kentucky
Kentucky Fried Chicken
Chỉ số KMO
Kaiser Meyer Olkin
Cơ quan Xúc tiến Thương mại và Korea
Trade
Investment
Đầu tư Hàn Quốc
Promotion Agency
Nghiên cứu sinh
Nghị định
Nhượng quyền thương mại
Root Mean Square Error
Chỉ số RMSEA
Approximation
Sai số
Standard Errors
Mô hình hóa cấu trúc tuyến tính

Structural Equation Modeling

Phần mềm máy tính phục vụ Statistical Package for the Social
công tác phân tích thống kê
Sciences


DANH MỤC CÁC BẢNG



DANH MỤC CÁC HÌNH


7

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1.1.

Bối cảnh nghiên cứu của luận án

Nội dung này làm rõ khoảng trống về học thuật và nghiên cứu thực nghiệm, qua đó
nêu ý nghĩa nghiên cứu của luận án.
1.1.1.

Bối cảnh nghiên cứu về mặt lý thuyết

Nhượng quyền thương

mại (NQTM) mới xuất hiện ở Việt Nam khoảng 25

năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trên thế giới
phương thức kinh doanh này xuất hiện từ giữa cuối thế kỷ thứ 19 (khoảng năm 1860),
khi công ty Singer tại Hoa Kỳ thành lập một mạng lưới người bán lại cho mặt hàng máy
may (Antonowicz, 2011). Đây là phương thức kinh doanh thương mại phát triển nhanh
về thực tiễn cũng như nghiên cứu học thuật. Các nghiên cứu về NQTM không những
dưới giác độ tiếp thị, kinh doanh thương hiệu mà còn nghiên
lý, quản lý


tài chính,cấu

cứu dưới giác độ pháp

trúc doanh nghiệp,...

(Grewal và đtg, 2011). Nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực thương mại như: Adeiza và
đtg (2017), Erlinda và đtg (2016), Dant và đtg (2013), Harif và đtg (2013), Frazer và đtg
(2012), Altinay và đtg (2012), McDonnell và đtg (2011), Chen (2011), Weaven và đtg
(2009), Frazer và đtg (2008), Ernández Monroy và đtg (2005), Frazer (2003), Lee
(1999), Allen và đtg (1994), Peterson và đtg (1990),. và rất nhiều nhà khoa học về
thương mại khác trên thế giới và ở Việt Nam đã quan tâm nghiên cứu vai trò của phương
thức kinh doanh này, đồng thời, lý giải nguyên nhân sự phát triển nhanh chóng và sự tác
động mạnh của nó đến hoạt động khởi nghiệp ở các nước. Khi xem xét NQTM dưới
nhiều giác độ khác nhau, người ta khám phá và đưa ra các quan điểm khác nhau về
phương thức kinh doanh này. Từ đó, các nghiên cứu đã góp phần làm phong phú hơn kho
tàng kiến thức về NQTM.
Có nhiều nghiên cứu mang tính học thuật về sự duy trì và phát triển NQTM, nhưng
đa số

các học giả cho rằng, lợi nhuận và hiệu quả hoạt động kinh doanh là


8

mục tiêu và lợi ích chung mà cả hai Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền hướng đến.
Đây là những nhân tố quan trọng nhất đe duy trì mối quan hệ vì sự thua lỗ của bên này sẽ
tác động không thuận lợi đến bên kia và ngược lại. Một số nhà khoa học khác lại cho
rằng


chất lượng sự duy trì và phát triển

NQTM phụ thuộc vào chất

lượng mối quan hệ (CLMQH) Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền (Rubin, 1978;
Shane, 1996), mối quan hệ này được thể hiện qua ba yếu tố sau:
(1) Chất lượng hợp đồng NQTM quy định trách nhiệm, quyền quyết định và chia
sẻ

nguồn lực giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền (Rubin,

1978; Pizanti và đtg, 2003). Hợp đồng NQTM phải là cơ sở để các Bên kiểm
soát chính sách, quyền lực và giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình
thực hiện NQTM (Stern và đtg, 1991; Forward và đtg, 1993). Các nhà nghiên
cứu cho rằng mối quan hệ Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền thiếu tính bền
vững vì trong hợp đồng NQTM thường có những điều khoản không công bằng
đối với Bên nhận quyền, bao gồm: Các điều khoản về lãnh thổ (Kaufmann và
đtg, 1988; Hoy, 1994), tỷ lệ chia kết quả của hoạt động NQTM (Stern và đtg,
1991), điều khoản bất lợi cho Bên nhận quyền khi chấm dứt và các hạn chế đối
với các hoạt động sau khi chấm dứt hợp đồng NQTM (Forward và đtg, 1993).
Do vậy, sự bất cân xứng trong mối quan hệ Bên nhượng quyền - Bên nhận
quyền thể hiện ngay trong hợp đồng NQTM và sự khác nhau về đặc điểm cá
nhân của Bên nhận quyền có ảnh hưởng đến sự xung đột, mức độ duy trì tham
gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền - yếu tố tác động đến sự thành công
hay thất bại của một hệ thống NQTM.
(2) Phát triển mối quan hệ Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền: Quan hệ giữa
Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền là quan hệ giữa hai thực thể pháp lý
độc lập với sở hữu riêng biệt nhưng hoạt động của các Bên có quan hệ cộng
sinh với nhau (Rubin, 1978; Shane, 1996) nhằm đạt được những lợi ích kinh
doanh. Toàn bộ doanh thu của một hệ thống NQTM được tính dựa trên lợi

nhuận từ các cửa hàng của Bên nhận quyền kết hợp


9

với

sự

hoạt động

kinh doanh củatoàn bộ

thống (Kaufmann và

hệ

đtg,

1988). Sự thành công trong kinh doanh của các Bên nhận quyền phụ thuộc rất
nhiều vào sự chuyển giao bí quyết, thương hiệu, kinh nghiệm và sự hỗ trợ của
Bên nhượng quyền (Dant và đtg, 1998; Nathan, 2004). Nếu Bên nhượng quyền
cố gắng cắt giảm chi phí bằng cách giảm chất lượng dịch vụ hỗ trợ Bên nhận
quyền, điều này có the làm xấu đi hình ảnh và danh tiếng của toàn bộ hệ thống
NQTM (Combs và đtg, 2004). Như vậy, các bên liên quan đến NQTM muốn
duy trì mối quan hệ lâu dài và liên tục thì phải tăng
giữa hai bên thông qua

cường


CLMQH

sự tương tác kết hợp

giữa lợi ích trước mắt và lâu dài trong mười năm hoặc nhiều hơn (Forward và
đtg, 1993).
(3) CLMQH trong hoạt động NQTM phụ thuộc nhiều vào năng lực của Bên nhận
quyền: Nguồn nhân lực, thông tin thị trường và khả năng tài chính để tiếp
cận các thị trường

địa phương (Kaufmann và đtg, 1995; Nathan,

2004). về lâu dài, mối quan hệ giữa hai bên ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn
nhau (Nathan, 2004). Khi đó, các Bên nhận quyền sẽ có nhiều kiến thức và
kinh nghiệm về hệ thống NQTM hơn (Bradach và đtg, 1998; Nathan, 2004) và
có thể phát triển sản phẩm mới hoặc đưa ra giải pháp mới cho các vấn đề trong
toàn hệ thống NQTM thông qua các phương pháp thích ứng địa phương (Dant
và đtg, 1998; Nathan, 2004). Theo thời gian, mặc dù Bên nhượng quyền đã dần
quen thuộc với môi trường địa phương - nơi mà họ thực hiện NQTM, nhưng
họ phải đối mặt với những vấn đề về chiến lược hỗ trợ, thúc đẩy và duy trì mối
quan hệ với các Bên nhận quyền và mức độ hài lòng của họ đối với hệ thống
NQTM.
Tóm lại, trong giới nghiên cứu học thuật về NQTM, các nhà khoa học còn rất
nhiều ý kiến khác nhau, nhưng đều nhấn mạnh với đặc điểm chung: Phương thức kinh
doanh NQTM là phương thức kinh doanh giúp nhanh chóng mở rộng quy mô kinh doanh


10

và phát triển thương hiệu thông qua sự đầu tư của các Bên nhận quyền trong hệ thống,

cho nên, một hệ thống NQTM cần phải ổn định và phát triển về mặt
số lượng các Bên nhận quyền. Việc lựa chọn Bên

nhận quyền có đủ tiềm lực tài

chính, năng lực quản lý tham gia vào hệ thống NQTM là rất cần thiết. Các nhà nghiên
cứu lý thuyết về NQTM cũng rất quan tâm nghiên cứu khám phá làm thế nào đe các Bên
nhận quyền này tiếp tục duy trì mối quan hệ cộng sinh, duy trì sự hợp tác - xây dựng phát triển hệ thống NQTM. Đây là vấn đề rất quan trọng, mang tính sống còn cho sự
phát triển của một hệ thống NQTM. Có nhiều nghiên cứu về duy trì hợp tác trong kinh
doanh nói chung và duy trì tham gia hệ thống NQTM nói riêng như: Adeiza và đtg
(2017) đã chỉ ra rằng CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền (thể hiện thông qua
niềm tin, sự cam kết, hiệu quả giao tiếp và sự hài lòng) có tác động đến dự định tiếp tục
duy trì mối quan hệ kinh doanh NQTM của Bên nhận quyền; Erlinda và đtg (2016) đã
nghiên cứu tác động của hình ảnh thương hiệu của Bên nhượng quyền đến niềm tin của
Bên nhận quyền và ảnh hưởng của nó đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của
Bên nhận quyền; Jena và đtg (2011) đã làm rõ mối liên hệ của việc xây dựng mối quan
hệ giữa các Bên trong việc duy trì mối quan hệ kinh doanh của người mua; Hanafiah
(2009) đã nghiên cứu trường hợp NQTM ở Malaysia về các mục tiêu đạt được và dự
định duy trì tham gia
Lee và

hệ

thống

NQTM của

đtg

(2008)


thực

Bên nhận

quyền;

hiện

nghiên cứu tác động của giao tiếp đến sự hài lòng và trung thành của Bên nhận quyền
đối với hệ thống NQTM; Venetis và đtg (2004) đứng trên góc độ mối quan hệ để nghiên
cứu ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ đến việc duy trì khách hàng; Ulaga và đtg (2006)
đưa ra mô hình tác động của giá trị mối quan hệ hợp tác kinh doanh đến CLMQH và dự
định duy trì, mở rộng hợp tác kinh doanh với nhà cung cấp; Chiou và đtg (2004) đã chỉ
ra tác động của giao tiếp, hỗ trợ dịch vụ và lợi thế cạnh tranh của Bên nhượng quyền đến
dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền; Morrison (1997) đã
chứng minh về sự hài lòng về công việc kinh doanh NQTM và đặc điểm cá nhân của
Bên nhận quyền có ảnh hưởng đến kết quả hoạt độnẹ kinh doanh, mối quan hệ với Bên


11

nhượng quyền và dự định của Bên nhận quyền có tiếp tục duy trì tham gia hệ thống
NQTM hay không,...
Trong hoạt động NQTM, đối với Bên nhượng quyền, Bên nhận quyền vừa là khách
hàng vừa là đối tác thành viên của hệ thống NQTM. Do vậy, khác với các hoạt động kinh
doanh thông thường, khách hàng ở đây (Bên nhận quyền) cần phải được cân nhắc tuyển
chọn sao cho có the tham gia lâu dài vào quá trình phát trien chung của hệ thống NQTM.
Các nhân tổ tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền
trong các nghiên cứu đề cập trên chủ yếu xoay quanh mối quan hệ Bên nhượng quyền Bên nhận quyền (sự tin tường, sự hài lòng, sự cam kết), và dự định duy trì tham gia hệ

thống NQTM của Bên nhận quyền là kết quả của mối quan hệ này. Ngoài ra, còn có các
nhân tổ khác tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền
như: Giao tiếp, hỗ trợ dịch vụ của Bên nhượng quyền, lợi thế cạnh tranh cùa Bên nhượng
quyền, sự cam kết của hệ thống NQTM, mối quan hệ Bên nhượng quyền - Bên nhận
quyền, sự hài lòng chung, đặc điểm cá nhân của Bên nhận quyền,... Tuy nhiên, các
nghiên cứu trên chưa đề cập đến yếu tố pháp luật NQTM cũng như việc thực thi pháp
luật NQTM của Bên nhận quyền có ảnh hưởng như thế nào đến dự định duy trì tham gia
hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. Bên cạnh đó, các yếu tố đặc điểm cá nhân của
Bên nhận quyền, CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền đã được đề cập riêng
biệt khi nghiên cứu tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận
quyền. Đặc điểm cá nhân của Bên nhận quyền có liên quan đến việc lựa chọn Bên nhận
quyền của Bên nhượng quyền cho hệ thống NQTM. Đồng thời, trong một hệ thống
NQTM không chỉ tồn tại mối quan hệ Bên nhượng quyền - Bẽn nhận quyền mà còn có
mối quan hệ giữa các Bên nhận quyền trong hệ thống. Do vậy, tương quan giữa đặc điểm
cá nhân, CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền và dự định duy trì tham gia hệ
thống NQTM của Bên nhận quyền như thế nào, vấn đề này cần được nghiên cứu làm rõ
hơn. Hơn nữa, tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, văn hóa, ngôn ngữ, pháp
luật, con người, thu nhập, mức sống,... có nhiều điểm khác biệt so với các nước phát
triển. Vì vậy, hoạt động NQTM, dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận
quyền sẽ có những điểm chung nhưng có thể tồn tại những nhân tố, đặc thù riêng cần


12

được khám phá thêm thông qua các nghiên cứu mang tính học thuật và kiếm định qua
nghiên cứu thực tiễn.
1.1.2.

Bối cảnh về thực tiễn


NQTM là một phương thức kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc tạo công
ăn việc làm và góp phần phát triến nền kinh tế (Shane và đtg, 2006). Tính đến tháng
09/2016, NQTM đã giải quyết chín triệu việc làm cho người lao động và đóng góp 541,1
tỷ USD cho GDP của Mỹ (IFA, 2016). Tương tự ở một số quốc gia khác, phương thức
kinh doanh này đã có nhiều đóng góp cho nền kinh tế quốc gia như Úc (138,8 tỷ USD),
Đức (79 tỷ USD), Trung Quốc (63 tỷ USD), Brazil (36 tỷ USD), Ấn Độ (4 tỷ USD)
(Dant và đtg, 2011). Phương thức kinh doanh NQTM được áp dụng trong nhiều lĩnh vực
kinh doanh khác nhau như: Nhà hàng, dịch vụ nhà trọ, bán lẻ, dịch vụ cá nhân, ô tô, bất
động sản, dịch vụ thương mại,... Trong đó, ba lĩnh vực kinh doanh hiệu quả nhất đối với
GDP của Mỹ là nhà hàng (30,5%), dịch vụ thương mại (14,5%), dịch vụ nhà trọ (10,9%)
(IFA, 2016). Điều này cho thấy vai trò quan trọng của phương thức kinh doanh NQTM,
đặc biệt là trong thời gian tới. Theo ông Robert Cresanti - Chủ tịch Hiệp hội Nhượng
quyền quốc tế (IFA): “Thị trường NQTM toàn cầu sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh năm thứ
6 liên tiếp, góp phần quan trọng tạo việc làm và tăng cơ hội kinh doanh trong nhiều lĩnh
vực, bất chấp những thách thức về pháp luật ở nhiều cấp độ khác nhau, tại các quốc gia
khác nhau” (trích Linh Tâm, 2016). Các nước Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Philipinnes đã xây dựng và phát triến hoạt động NQTM nhiều năm
nay. Đặc biệt, “Philipinnes đã cơ bản xây dựng ngành công nghiệp NQTM một cách sôi
động ngay cả khi chưa có hệ thống pháp lý đi kèm” (theo ông Leo Dominguez - Giám
đốc pháp lý và các tiêu chuẩn tinh thần - Hiệp hội NQTM Philipinnes) (trích Linh Tâm,
2016).
Tại Việt Nam nói chung và Tp.HCM nói riêng, hoạt động kinh doanh theo phương
thức NQTM trong các lĩnh vực nhà hàng, thức ăn nhanh, phân phối hàng thời trang, cửa
hàng tiện lợi,. đang trong giai đoạn đầu của sự phát triến. Tuy nhiên, hoạt động NQTM ở
nước ta còn mang tính tự phát, chưa thế hiện sự chuyên nghiệp, thiếu tính bền vững. Các
thương hiệu nhượng quyền từ nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu dừng lại ở mô hình


13


nhượng quyền cấp 1 (hình thức nhượng quyền độc quyền). Một số thương hiệu nhượng
quyền nước ngoài có áp dụng mô hình nhượng quyền cấp 2 (hình thức nhượng quyền thứ
cấp) như Jollibee, KFC, Texas Chicken, Caffe Bene, BBQ King, Auntie Anne’s,... vẫn
còn ở giai đoạn khởi đầu (Nguyễn Phi Vân, 2016). Từ 6 thương hiệu nhượng quyền nước
ngoài vào Việt Nam năm 2007, đến tháng 09/2017 con số này đã tăng lên đến 188
thương hiệu (Phụ lục 7) với các lĩnh vực nhượng quyền khác nhau như nhà hàng, thời
trang, giáo dục, cửa hàng tiện lợi (website Bộ Công thương, 2017),. Mặc dù trên thị
trường đã xuất hiện những thương hiệu nhượng quyền nội địa được nhiều người Việt
Nam biết đến như cà phê Trung Nguyên (đơn vị đầu tiên áp dụng hình thức nhượng
quyền ở quy mô lớn), Phở 24, cà phê mang đi Millano, Vesly, Wrap and Roll,. nhưng các
hệ thống nhượng quyền này hoạt động chưa thật sự chuyên nghiệp và chưa đạt được sự
thành công như mong đợi, thậm chí là thất bại như trường hợp của cà phê Trung Nguyên.
Một trong những nguyên nhân chính của thất bại này là chưa xây dựng được CLMQH
tốt giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền, cũng như chưa thực hiện đúng các cam
kết cần thiết trong hoạt động kinh doanh NQTM, dẫn đến Bên nhận quyền không duy trì
tham gia lâu dài với hệ thống NQTM.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố
năm 2015 (Sở Khoa học Công nghệ Tp.HCM) “Hoạt động NQTM (Franchise) trên địa
bàn Tp.HCM - Thực trạng và giải pháp thúc đẩy phát triển”, NCS và nhóm nghiên cứu
thấy được có nhiều điếm khác biệt giữa NQTM ở Việt Nam so với ở nước ngoài. Trong
đó, tính bền vững trong hoạt động NQTM rất được chú trọng ở nước ngoài. Tuy nghiên,
nghiên cứu sơ lược thực trạng NQTM của Việt Nam và chuyên sâu tại thị trường
Tp.HCM cho thấy tính bền vững còn khá hạn chế. Trong khi Bên nhận quyền ở nước
ngoài rất được chú trọng khi xem xét dự định tiếp tục duy trì hay kết thúc tham gia hệ
thống NQTM và thường có những tiêu chí đế đánh giá lại

hoạtđộng

doanh khi tham gia hệ


của họ có hiệu quả

thống NQTM

kinh

không, nếu có hiệu quả sẽ tiếp tục và ngược lại. Tại Việt Nam, dự định tiếp tục
tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền có nhiều điếm khác biệt so với ở nước
ngoài. Tiêu chí hiệu quả hoạt động kinh doanh chưa phải là nhân tố chi phối dự định tiếp


14

tục duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền Việt. Khi tham gia hệ thống
NQTM, Bên nhận quyền thấy hoạt động kinh doanh không hiệu quả nhưng vẫn có thế có
dự định tiếp tục tham gia hệ thống. Bởi vì, tại thị trường Việt Nam nói chung và
Tp.HCM nói riêng, đế tham gia hệ thống NQTM, Bên nhận quyền thường bỏ
phí

đầu tư banđầu lớn.

Do

đó, dù hệ

ra chi

thống NQTM hoạt

động không hiệu quả, Bên nhận quyền vẫn tiếp tục duy trì tham gia hệ thống với hy vọng

thu hồi lại vốn trong tương lai. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, dù hoạt động
có hiệu quả, Bên nhận quyền vẫn có thế từ bỏ hệ thống NQTM mà họ đang tham gia. Họ
từ bỏ đế có thế độc lập kinh doanh. Từ những kiến thức về công thức, nguyên vật liệu,
quy trình sản xuất,... được tích lũy trong khoảng thời gian tham gia hệ thống NQTM,
Bên nhận quyền có thế tự kinh doanh mà không cần phải mất khoản phí nào cho Bên
nhượng quyền, cũng như không phải chịu sự kiếm soát của họ. Bên cạnh đó, pháp luật
NQTM tại Việt Nam còn chưa thật đầy đủ, sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền còn lỏng lẻo. Các doanh nghiệp đang hoạt động theo phương thức NQTM nhưng
chưa thực sự hiếu rõ về phương thức kinh doanh này. Chính những điều này làm cho cả
Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền dễ dàng bị vi phạm các thỏa thuận và không tiếp
tục duy trì hợp tác phát triến hệ thống NQTM. Do đó, đế hoạt động NQTM ở Việt Nam
nói chung và Tp.HCM nói riêng phát triến, Bên nhượng quyền không chỉ tập trung phát
triến mạng lưới cửa hàng mà còn cần có những hoạt động nhằm nâng cao dự dịnh duy trì
tham gia hệ thống của Bên nhận quyền trong tương lai. Vì vậy, những nghiên cứu về dự
định duy trì tham gia hệ thống NQTM là rất cần thiết cho sự phát triến hoạt động
NQTM. Do đó, luận án Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống
NQTM của Bên nhận quyền tại Tp.HCM được nghiên cứu nhằm khám phá và kiếm
định những nhân tố then chốt góp phần đem đến dự định gắn bó, duy trì lâu dài của Bên
nhận quyền đối với hệ thống NQTM - điều kiện mang tính sống còn của một hệ thống
NQTM.


15

1.1.3.

Ý nghĩa của nghiên cứu luận án

Ý nghĩa của nghiên cứu Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ
thống NQTM của Bên nhận quyền tại Tp.HCM nằm ở những đóng góp của luận án về

mặt học thuật và thực tiễn như sau:
Đóng góp về lý thuyết
-

Kế thừa các nghiên cứu đã công bố, luận án tiếp tục phân tích, khám phá các
nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận
quyền tại Tp.HCM.

-

Nghiên cứu sự tác động của ba nhân tố: Thực thi pháp luật NQTM, đặc điếm
cá nhân của Bên nhận quyền, CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền
đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền.

-

Làm rõ vai trò của nhân tố CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền
trong mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia
hệ thống NQTM của Bên nhận quyền.

1.1.3.2.
-

Đóng góp về thực tiễn
Trên cơ sở lý thuyết khoa học, thực tiễn hoạt động NQTM và dự định duy trì
tham gia hệ thống NQTM tại Tp.HCM, luận án sẽ đóng góp các hàm ý quản
trị cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức NQTM. Từ đó,
doanh nghiệp có thế áp dụng trong việc xây dựng những chính sách riêng
nhằm nâng cao mức độ dự định duy trì tham gia của các Bên nhận quyền
trong hệ thống NQTM.


-

Luận án sẽ đóng góp các hàm ý chính sách giúp hình thành môi trường kinh
doanh NQTM thuận lợi. Đồng thời, định hướng chiến lược phát triến phương
thức kinh doanh NQTM tại Việt Nam nói chung và Tp.HCM nói riêng.

-

Luận án trở thành tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đào tạo các
chuyên gia ngành thương mại và các nhà nghiên cứu quan tâm đến sự
phát triến các lý thuyết và thực tiễn liên quan đến NQTM.

1.1.3.3.

Điểm mới của luận án

Nội dung của luận án có những điếm mới về học thuật như sau:


16

(1) Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố: Thực thi pháp luật NQTM, đặc điếm
cá nhân và CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền có tác động đến dự
định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền, bổ sung vào
nghiên cứu của Adeiza và đtg (2017), Dant và đtg (2013), Chen (2011),
McDonnell (2011), Ulaga và đtg (2006), Chiou và đtg (2004), Morrison
(1997), Vitell và đtg (1993). Bên cạnh đó, nghiên cứu này điều chỉnh các thang
đo được kế thừa từ nghiên cứu của Dant và đtg (2013), Laverdière và đtg
(2013), McDonnell (2011), Chiou và đtg (2004), Vitell và đtg (1993) phù hợp

hơn với hoạt động NQTM tại Tp.HCM.
(2) Kết quả của luận án cho thấy: Khi phân tích sự tác động của hai nhân tố:
CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền và đặc điếm cá nhân của Bên
nhận quyền đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận
quyền, hai nhân tố này được xem xét là hai khái niệm đa hướng, không xem
xét sự tác động của từng yếu tố thành phần riêng lẻ của khái niệm đa hướng
như nghiên cứu của Erlinda và đtg (2016), Ulaga và đtg (2006), Chiou và đtg
(2004), Morrison (1997).
(3) Kết quả kiếm định mô hình nghiên cứu bằng mô hình hóa cấu trúc tuyến tính
(SEM) cho thấy: Thực thi pháp luật NQTM tác động mạnh hơn lên CLMQH
Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền so với đặc điếm cá nhân; CLMQH Bên
nhượng quyền - Bên nhận quyền tác động mạnh nhất đến dự định duy trì tham
gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền, kế tiếp là đặc điếm cá nhân và cuối
cùng là thực thi pháp luật NQTM.
(4) Kết quả phân tích đa nhóm cho thấy, mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô
hình nghiên cứu không có sự khác nhau về thời gian hoạt động của các cửa
hàng của Bên nhận quyền nhưng có sự khác nhau giữa thương hiệu NQTM
nước ngoài với thương hiệu NQTM trong nước.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu luận án

1.2.1.

Mục tiêu nghiên cứu tổng quát

Nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM


17


của Bên nhận quyền tại Tp.HCM.
1.2.2.

Mục tiêu cụ thể

(1) Thiết kế mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham
gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền.
(2) Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến dự định duy trì
tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền.
(3) Đề xuất các hàm ý quản trị nhằm nâng cao mức độ dự định duy trì tham gia hệ
thống NQTM của Bên nhận quyền và các hàm ý chính sách đối với Nhà nước
về hoạt động NQTM.
1.2.3.

Các câu hỏi nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu của luận án phải trả lời các câu hỏi nghiên cứu dưới đây:
(1) Các nhân tố nào tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của
Bên nhận quyền?
(2) Bản chất CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền và vai trò của nó
trong mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ
thống NQTM của Bên nhận quyền là như thế nào?
(3) Các Bên tham gia trong hoạt động NQTM phải làm gì đe mức độ duy trì tham
gia vào hệ thống NQTM của Bên nhận quyền mang tính ổn định và bền vững.
(4) Nhà nước phải làm gì liên quan đến chính sách để phát triển hoạt động NQTM
ở Việt Nam nói chung và Tp.HCM nói riêng.
1.2.4.
Nhiệm vụ của luận án
Đe hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu và trả lời các câu hỏi nghiên cứu nêu trên,

nhiệm vụ của luận án được đặt ra gồm:
-

Nghiên cứu tổng quan về NQTM và dự định duy trì tham gia hệ thống
NQTM của

Bên nhận quyền. Từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu lý

thuyết.
-

Nghiên cứu định tính nhằm khẳng định mô hình nghiên cứu lý thuyết, khám
phá các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của
Bên nhận quyền và các biến quan sát cho từng nhân tố.


18

- Nghiên cứu định lượng đe kiem định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên
nhận quyền.
-

Đề xuất được các hàm ý quản trị cho doanh nghiệp NQTM, cũng như hàm ý
chính sách đối với Nhà nước về hoạt động NQTM.

1.3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


1.3.1.

Đối tượng nghiên cứu của luận án

Các nhân tố

tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên

nhận quyền.
1.3.2.

Phạm vi nghiên cứu

-

Về vấn đề nghiên cứu: Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ
thống NQTM của Bên nhận quyền.

- Về thời gian: Hoạt động NQTM thực tiễn từ 2007 đến nay.
- Về không gian:
+

Tổng quan về thực trạng hoạt động NQTM Việt Nam nói chung và
Tp.HCM nói riêng để có bức tranh tổng thể về sự hình thành và phát triển
hoạt động NQTM, pháp luật NQTM và cơ chế quản lý Nhà nước đối với hoạt
động này.

+ Khảo sát dữ liệu để kiếm định mô hình các nhân tố tác động đến dự định duy trì
tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền: Tại Tp.HCM. Tp.HCM là nơi
diễn ra hoạt động NQTM sôi nổi nhất nước. Hơn 90% các thương hiệu

NQTMnước ngoài đăng ký ở Bộ Công thương đang hoạt
động tại Tp.HCM (Website Bộ Công thương, 2017), có thế kế đến các thương
hiệu như: Jollibee, KFC, McDonald, Texas Chicken, Caffe Bene, BBQ King,...
Bên cạnh đó, các thương hiệu NQTM nội địa cũng rất phát triến như: Thời
trang Ninomaxx, Foci, Giày T&T, bánh ngọt Kinh Đô Bakery, bánh xèo Mười
Xiềm, cà phê Millano, Vesly, Highland, Phở 24,... Do vậy, nghiên cứu này
chọn thực hiện khảo sát Bên nhận quyền tại thị trường Tp.HCM.
- về

đối tượng khảo sát: Bên nhận quyền. Bên nhận quyền ở đây là các


19

doanh nghiệp hay cửa hàng nhận quyền, trong đó, lãnh đạo doanh nghiệp hay
quản lý cửa hàng là những người đại diện doanh nghiệp, cửa hàng trong việc
điều hành và đề xuất các quyết định cho hoạt động kinh doanh NQTM (đối với
thương hiệu đang nhận nhượng quyền) của đơn vị.
1.4.

Phương pháp nghiên cứu luận án

Luận án lựa chọn cả 2 phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu định tính và
nghiên cứu định lượng nhằm xây dựng và kiếm định mô hình và các giả thuyết của mô
hình các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận
quyền. Cả hai phương pháp đều được NCS sử dụng trong các giai đoạn của quá trình
nghiên cứu, từ nghiên cứu định tính (Bước 1) đến nghiên cứu định lượng sơ bộ (Bước 2)
và nghiên cứu định lượng chính thức (Bước 3).
Ở giai đoạn nghiên cứu định tính, đầu tiên, NCS thực hiện kỹ thuật phỏng vấn tay
đôi với 15 chuyên gia, gồm các nhà nghiên cứu có trình độ, am hiếu về NQTM và các

doanh nhân đang kinh doanh NQTM nhằm xây dựng, điều chỉnh và bổ sung các thang
đo trong mô hình các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của
Bên nhận quyền. Sau đó, NCS tiếp tục gặp 10 nhà nhận quyền đại diện tại Tp.HCM đế
ghi nhận những góp ý giúp cho bảng câu hỏi rõ nghĩa, dễ hiếu.
Giai đoạn tiếp theo, NCS thực hiện nghiên cứu định lượng sơ bộ nhằm đánh giá sơ bộ
các thang đo trong mô hình nghiên cứu bằng hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha và phân
tích nhân tố khám phá (EFA). Kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ 95 nhà nhận quyền
tại Tp.HCM cho thấy, từ 49 biến quan sát ban đầu có 14 biến quan sát bị loại. Kết quả
nghiên cứu ở hai giai đoạn nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng sơ bộ đã giúp
củng cố mô hình và thiết kế bảng câu hỏi phục vụ cho giai đoạn nghiên cứu định lượng
chính thức của luận án.
Giai đoạn nghiên cứu định lượng chính thức với kỹ thuật khảo sát 200 doanh
nghiệp và cá nhân nhận quyền (thu về được 178 phiếu trả lời hợp lệ), được lựa chọn theo
phương pháp chọn mẫu phát triển mầm và phương pháp ngẫu nhiên đơn giản. NCS sử
dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm đánh giá lại và kiếm định các thang đo
trong mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống


20

NQTM của Bên nhận quyền. Ở giai đoạn này dữ liệu thu thập được sẽ được xử lý bằng
phần mềm SPSS 23.0 và phần mềm AMOS 23.0 và sử dụng phương pháp phân tích nhân
tố khẳng định (CFA), thực hiện kiếm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu thông
qua mô hình hóa cấu trúc tuyến tính (SEM).
Nội dung chi tiết việc vận dụng phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu
định lượng vào luận án sẽ được trình bày ở Chương 3.
1.5.
Kết cấu của luận án
Luận án Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của
Bên


nhận quyền tại Tp.HCM có cấu trúc gồm năm chương với các nội dung

chính sau:
Chương 1 - Giới thiệu luận án
Bao gồm bối cảnh nghiên cứu, tổng quan nghiên cứu và đóng góp của luận án, mục
tiêu nghiên

cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của luận án,

phương pháp nghiên cứu và kết cấu của luận án.
Chương 2 - Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Trình bày cơ sở lý thuyết, xây dựng mô hình nghiên cứu lý thuyết “Các nhân tố tác
động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền”.
Chương 3 - Phương pháp nghiên cứu
Trình bày các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án. Bao gồm:
Phương pháp nghiên cứu và phương pháp chọn mẫu, quy trình nghiên cứu, thang đo đo
lường các khái niệm nghiên cứu, kết quả nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng


bộ.

Ngoài ra,

cập

đến một phần

nội


chương

này

dung

của

còn

đề

nghiên cứu định lượng chính thức: Thiết kế bảng câu hỏi, phương pháp điều tra, kích
thước mẫu và phương pháp thực hiện nghiên cứu định lượng chính thức.
Chương 4 - Kết quả nghiên cứu
Chương này trình bày hai nội dung chính: (i) Kết quả nghiên cứu định lượng chính
thức, gồm các nội dung: Thống kê mẫu nghiên cứu chính thức, phân tích độ tin cậy thang


21

đo, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và kiếm định
mô hình nghiên cứu; (ii) thảo luận các kết quả nghiên cứu.
Chương 5 - Kết luận, hàm ý quản trị và hàm ý chính sách
Kết luận về kết quả nghiên cứu, đưa ra những hàm ý quản trị đối với Bên
nhượng quyền và Bên nhận quyền, đề xuất các hàm chính sách đối với Nhà
nước về quản lý hoạt động NQTM.


CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1.

Tổng quan về nhượng quyền thương mại

2.1.1.

Khái niệm về nhượng quyền thương mại

NQTM được biết đến như là một phương thức kinh doanh giúp phát triển thương hiệu, mô hình kinh doanh
một cách nhanh chóng nhất. Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về NQTM. Các khái niệm này được đề cập
trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1: Một số khái niệm về nhượng quyền thương mại
Stt
Khái niệm NQTM
1

NQTM là một hình thức tiếp thị và phân phối, trong đó Bên nhượng

Nguồn
Vaughn,

quyền cho phép cá nhân hoặc công ty khác quyền hoặc đặc quyền để 1979
tiến hành kinh doanh theo quy định trong một khoảng thời gian và địa
điểm nhất định.
2

NQTM là một mối quan hệ họp đồng giữa Bên nhượng quyền và Bên Curran và
nhận quyền, trong đó Bên nhượng quyền đồne ý sản xuất hoặc cung đtg, 1983
cấp ra thị trường một sản phẩm hoặc dịch vụ theo một kế hoạch chi

tiết tổng thể. Mối quan hệ này mang tính chất tiếp diễn, Bên nhượng
quyền sẽ hỗ trợ Bên nhận quyền trong việc kinh doanh, nghiên cứu
phát triển và thực hiện tiếp thị, quảng cáo. Đổi lại, Bên nhận quyền
thường phải trả một khoản phí nhượng quyền ban đầu, phí duy trì
hoặc phí quàn lý (thường dựa trên mức doanh thu và hoặc lượng
nguyên vật liệu mua từ Bên nhượng quyền). Bên nhận quyền tự cấp
vốn cho các cửa hàng và tách biệt về mặt pháp lý đối với Bên nhượng
quyền.

3

NQTM là một hợp đồng được thực hiện theo chuỗi mang tính quốc Cavaliere và
gia hoặc khu vực. Trong đó, cho phép một sự độc quyền để

đtg,


vận hành một trong các cửa hàng trong một khu vực nhất định, dựa

1988

trên phí nhượng quyền ban đầu hoặc tỷ lệ phần trăm doanh thu gộp.
Thông thường, công ty mẹ chịu trách nhiệm trang trí nội thất, trang
thiết bị, vật tư và quảng cáo.
4

NQTM là một mối quan hệ kinh doanh, theo đó một Bên nhượng

Felstead,


quyền cho phép Bên nhận quyền sử dụng tên thương hiệu, sản phẩm 1991
hay hệ thống kinh doanh của mình một cách cụ the và liên tục để thu
về một khoản phí.
5

NQTM là một thỏa thuận pháp lý mà chủ sở hữu (Bên nhượng quyền)

Khan,

đồng ý cấp quyền hoặc đặc quyền cho người khác (Bên nhận quyền) 1999
để bán các sản phẩm hoặc dịch vụ trong điều kiện cụ thể.
6

NQTM là một cơ hội kinh doanh mà chủ sở hữu (nhà sản xuất hoặc Justis và đtg,
nhà phân phối) một dịch vụ hoặc thương hiệu tài trợ độc quyền cho 2002
một nhà phân phối địa phương bán các dịch vụ hoặc sản phẩm của
mình, đồng thời, nhận được một khoản thanh toán hoặc tiền bản
quyền phù hợp với các tiêu chuẩn chất lượng.

7

NQTM là một thỏa thuận hợp đồng giữa hai công ty độc lập về mặt Blair và đtg,
pháp lý, trong đó một công ty (Bên nhận quyền) trả tiền cho công ty 2005
kia (Bên nhượng quyền) để có được quyền bán sản phẩm và hoặc
quyền sử dụng nhãn hiệu và phương thức kinh doanh của Bên
nhượng quyền tại một địa điểm nhất định trong một khoảng thời gian
cụ thể.

8


NQTM là một mối quan hệ dựa trên hợp đồng giữa Bên nhượng Hiệp hội
quyền và Bên nhận quyền. Trong đó, Bên nhượng quyền đề xuất hoặc NQTM Quốc
duy trì hoạt động kinh doanh của Bên nhận quyền bằng cách đào tạo tế
nhân viên và trao bí quyết kinh doanh. Do đó, Bên nhận


quyền phải hoạt động gắn liền thương hiệu, phương thức kinh doanh
dưới sự kiếm soát của Bên nhượng quyền. Ngoài ra, Bên nhận
quyền sẽ sử dụng các nguồn lực của mình đế đầu tư cho sự phát
triến của doanh nghiệp nhận nhượng quyền.
9

NQTM là việc chuyến nhượng quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu công Cộng đồng
nghiệp nhãn hiệu, tên thương mại của hàng hóa, biến hiệu cửa hàng. chung
Ngoài ra, các giải pháp tối ưu, bản quyền tác giả, kiếu dáng công Châu Âu
nghiệp, bằng sáng chế, bí quyết kinh doanh,... cũng có thế được khai (EU)
thác nhằm phục vụ nhu cầu mua sản phẩm hay dịch vụ của người
tiêu dùng cuối cùng.

10

NQTM là một phương thức kinh doanh theo họp đồng có thời hạn Chương 54,
hay không thời hạn. Trong đó, một Bên (Bên nhượng quyền) cho Bộ luật dân
phép Bên kia (Bên nhận quyền) được sử dụnỊg một hoặc một số sự Nga
quyền trong hoạt độne kinh doanh của Bên nhượng quyền, như
là: bí mật kinh doanh, chi dẫn thương mại, độc quyền sử dụng kinh
doanh hàng hóa, nhãn hiệu trong phạm vi nhất định,... Khi đó, Bên
nhận quyền sê trả phí cho Bên nhượng quyền theo thỏa thuân.

11 NQTM là hoạt động kinh doanh do một thương nhân với vai trò là Luật

chủ thương hiệu xây dựng hình ảnh, uy tín, danh tiếng, chất lượng hữu

sở
công

cho sản phẩm và dịch vụ. Sau đó, bằng một hợp đồng li- xăng có nghiệp của
thế thực hiện thêm việc chuyến giao công nghệ, hỗ trợ huấn luyện Mêhicô
kỹ

thuật,

bồi dưỡng

một

thương

nhân

kiến thức

đế

khác thực hiện kinh doanh thương mại hoặc sản xuất, chế tạo sản
phẩm, cung ứng dịch vụ một cách đồng bộ trong toàn hệ thống về
mọi mặt, từ phương pháp vận hành, phương thức hoạt động thương
mại,... cho đến cách thức dịch vụ, hậu mãi.


12


NQTM được hiếu là hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp Tại điều 3
(Bên nhượng quyền) sở hữu một nhãn hiệu đăng ký, nhãn hiệu doanh Quy định về
nghiệp, sáng chế, bí quyết hay bất kỳ tài nguyên kinh doanh khác quản lý
đem lại nguồn lợi kinh doanh cho bất kỳ nhà điều hành kinh doanh NQTM của
khác (Bên nhận quyền) bằng việc ký hợp đồng. Bên nhận quyền cam Trung Quốc
kết triến khai hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp thống
nhất theo quy định của hợp đồng và trả phí NQTM cho Bên nhượng
quyền.

13

Theo điều 284 Luật Thương mại Việt Nam: “NQTM là hoạt động Điều 284
thương mại mà Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận Luật Thương
quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ mại Việt
Nam 2005
theo các điều kiện sau:
Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo phương
thức tổ chức kinh doanh do Bên nhượng quyền quy định và được gắn
với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu
hiệu kinh doanh, biếu tượng kinh doanh, quảng cáo của Bên nhượng
quyền.
Bên nhượng quyền có quyền kiếm soát và trợ giúp cho Bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Từ các khái niệm trên, NQTM có thê được hiêu là một hoạt động thương mại mà Bên nhượng quyền cho
phép Bên nhận quyền tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ được triển khai theo cách thức kinh
doanh được quy định bởi Bên nhượng quyền. Việc kinh doanh này gắn liền với tên thương mại, nhãn hiệu hàng
hóa, khâu hiệu và biêu tượng kinh doanh, bí quyết kinh doanh, quảng cáo của Bên nhượng quyền. Bên nhượng

quyền có nghĩa vụ trợ giúp và kiểm soát Bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
2.1.2.
Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
NQTM có bốn đặc điểm chính sau:
-

Chủ thể của NQTM là Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền. Bên
nhượnẹ quyền có tư cách pháp lý độc lập với với Bên nhận quyền. Các bên tự chịu trách nhiệm về
những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của đơn vị minh.
—Đổi tượng của NQTM là quyền thương mại. Quyền thương mại bao gồm toàn bộ, một số hoặc một trong
các quyền sau đày:


×