Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 102 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________________

THỦY THỊ NGỌC THẢO

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________________

THỦY THỊ NGỌC THẢO

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và hành chính
Mã số: 838.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN MINH PHƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Xin được gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo, cán bộ, giảng viên của Học viện
khoa học xã hội đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu tại Học viện.
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được
sự quan tâm, hướng dẫn tận tình và chu đáo của PGS.TS. Nguyễn Minh
Phương – Phó hiệu trưởng Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Xin được gửi lời
cảm ơn chân thành đến PGS.TS.Nguyễn Minh Phương.
Cảm ơn Phòng Lao động Thương Binh và Xã hội huyện Thăng Bình,
Phòng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, Phòng
Kinh tế - Hạ tầng huyện Thăng Bình, Chi cục thống kê huyện Thăng Bình,
Sở LĐ-TB&XH tỉnh Quảng Nam và các phòng ban chức năng của Sở đã
tạo điều kiện và cung cấp thông tin, tài liệu, đóng góp ý kiến giúp tôi hoàn
thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Rất mong nhận được sự hướng dẫn, góp ý của quý thầy, cô và bạn
bè để luận văn của tôi được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Luật, chuyên ngành Luật hiến pháp và luật hành chính “Quản lý nhà

nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực và không trùng lắp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Thủy Thị Ngọc Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN ............. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho
lao động nông thôn ............................................................................................ 9
1.2. Nội dung và cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao
động nông thôn ................................................................................................ 22
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao
động nông thôn ................................................................................................ 33
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO
NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI HUYỆN THĂNG BÌNH,
TỈNH QUẢNG NAM .................................................................................... 36
2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội huyện Thăng Bình tác động đến quản lý nhà
nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn................................................ 36
2.2. Kết quả quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam .............................................................. 41
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THĂNG BÌNH TỪ NAY ĐẾN NĂM 2025.... 59
3.1. Quan điểm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao

động nông thôn trên địa bàn huyện ................................................................. 59
3.2. Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho
lao động nông thôn trên địa bàn huyện ........................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói
riêng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển con người, nguồn
nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng tỷ lệ sử
dụng thời gian nhàn rỗi trong lao động nông thôn, không chỉ giúp người lao
động có việc làm ổn định mà còn góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời
sống của người dân, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh,
hướng đến xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng chính là
một trong những nhiệm vụ quan trọng đã được xác định trong các Nghị quyết,
Chỉ thị của Đảng, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho lao
động nhất là ở khu vực nông thôn đã từng bước được chú trọng, quan tâm
đúng mức và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Lao động được đào tạo nghề
ngày càng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Các ngành nghề được chọn để
đưa về nông thôn đào tạo phù hợp hơn với đặc điểm tình hình của từng vùng
miền, phát huy được hiệu quả đào tạo nhất là trong giai đoạn xây dựng nông
thôn mới hiện nay. Nhìn chung, công tác đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đã có những chuyển biến tích cực, đóng góp quan trọng vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề cho
lao động nông thôn trong thời gian qua cũng gặp phải nhiều khó khăn, hạn
chế nhất định. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy sự phát
triển kinh tế- xã hội và quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra nhanh, cơ cấu
kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều hộ nông

nghiệp bị mất đất sản xuất, phải tìm cách chuyển đổi lao động sang lĩnh vực
phi nông nghiệp nên rất cần được hưởng chính sách ưu đãi về đào tạo nghề.

1


Bên cạnh đó, chất lượng lao động ở nông thôn nước ta còn quá thấp. Chất
lượng lao động nông thôn thấp đã làm cho thu nhập của người lao động
không thể tăng nhanh; gây ra chênh lệch khoảng cách giàu nghèo giữa thành
thị và nông thôn ngày càng tăng.
Mặc dù, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quan
trọng nhằm khuyến khích, tạo động lực như: Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày
05/8/2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn; Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày
27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020"...nhưng nhìn chung kết quả đạt được chưa
tương xứng với tiềm năng hiện có, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra và chưa
gắn với nhu cầu sản xuất, kinh doanh, nhiều trường hợp doanh nghiệp phải
đào tạo lại mới có thể sử dụng được. Mặc khác cần khách quan nhìn nhận
rằng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta trong thời gian
qua chưa được coi trọng đúng mức. Nhiều bộ, ngành, địa phương, cán bộ và
xã hội nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, coi
đào tạo nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan
tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống. Công tác đào tạo nghề cho lao
động nông thôn còn cầm chừng, chưa có sự vào cuộc quyết liệt của lãnh đạo
các cấp, công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động
nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nhiều nông dân chưa nhận thức
đầy đủ về tầm quan trọng của việc đào tạo nghề nên không mặn mà với các
trung tâm dạy nghề. Nhiều gia đình chỉ tính đến việc cho con em mình theo
học nghề khi không đủ chỉ tiêu để theo học bất kỳ hệ đào tạo nào khác. Vì

vậy, việc đổi mới phương pháp, cách quản lý, điều hành để khắc phục những
hạn chế và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề
cho lao động nông thôn trong thời gian đến là một vấn đề hết sức quan trọng

2


đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị
từ trung ương đến địa phương.
Trong bối cảnh chung đó, những năm qua, huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam đã hoạch định, xây dựng, triển khai và tổ chức thực hiện công tác
quản lý nhà nước về đào tạo nghề trên địa bàn huyện có nhiều chuyển biến
tích cực. Ủy ban nhân dân huyện đã thành lập Ban chỉ đạo, phân công nhiệm
vụ và triển khai thực hiện công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn một
cách hiệu quả.
Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề trên địa bàn huyện Thăng Bình vẫn
còn nhiều bất cập như người lao động nghề đăng ký học nghề không tập trung
cùng một thời điểm, chương trình đào tạo nghề chưa phù hợp với nhu cầu
người học và người sử dụng lao động, các doanh nghiệp tự nhận người lao
động vào làm để tự đào tạo theo yêu cầu của họ … nên việc đào tạo nghề theo
các chính sách hỗ trợ như Quyết định 1956/QĐ-TTg và Nghị quyết 12 của
Hội đồng nhân dân tỉnh, Quyết định 3577 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
Nam gặp rất nhiều khó khăn cho việc mở lớp để đào tạo nghề; công tác tuyên
truyền về các chủ trương, chính sách về chương trình đào tạo nghề của các địa
phương không liên tục thường xuyên, còn mang tính bị động. Nhận thức của
một số cấp ủy đảng, chính quyền còn chưa đầy đủ; công tác quản lý nhà nước
về đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn hạn chế, sự phối hợp giữa các cơ
quan, ban, ngành về công tác quản lý nhà nước còn chồng chéo thiếu tính
đồng bộ; quy định, chính sách có một số điểm còn chưa phù hợp và chậm
được sửa đổi, các vi phạm chưa được phát hiện kịp thời và chưa xử lý nghiêm

minh v.v…
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề và yêu cầu nâng cao chất lượng
đào tạo nghề cho lao động trên địa bàn huyện Thăng Bình trong thời gian đến.
Mặt khác, nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động

3


nông thôn để thấy được những nguyên nhân, thế mạnh, tiềm năng... cũng như
những khó khăn, thách thức của người lao động nơi đây, từ đó tạo cơ sở khoa
học cho việc đề ra các chính sách, giải pháp giúp công tác quản lý nhà nước về
đào tạo nghề ngày càng đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới… góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu, nhiệm vụ của
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện nhà. Với những
ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên là lí do để tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước
về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp ở bậc Cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn luôn là một trong
những đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu,
chuyên gia, quản lý. Trong đó có thể kể đến:
+ Tác giả Xuân Minh (2013), Đào tạo nghề phải gắn với thị trường lao
động. Báo điện tử Văn hiến.vn. Bài viết đề cập việc hướng đào tạo nghề gắn
với thị trường lao động, nhưng chỉ mang tính chất gợi ý, tham khảo, mà chưa
đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn trong vấn đề giải quyết
việc làm hiện nay.
+ Tác giả ThS. Hoàng Văn Phai, “Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn ở nước ta hiện nay: Vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo
số 3/2011. Bài viết phân tích, đánh giá về chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn ở nước ta hiện nay. Đi sâu làm rõ những hạn chế, khuyết

điểm, tồn tại trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn với thực
trạng trong cả nước. Từ đó, đề xuất những giải pháp, phương hướng để nâng
cao chất lượng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới.

4


+ Tác giả Tú Mai (2014), “Dạy nghề cho lao động nông thôn còn nặng
tính hình thức”. Báo điện tử Chinhphu.vn. Công trình đã tập trung nghiên cứu
những vấn đề bức thiết cần giải quyết đối với lao động nông nghiệp của
huyện Từ Liêm trong bối cảnh đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng để
thực hiện đô thị hoá và thực trạng việc hỗ trợ của Nhà nước để giải quyết việc
làm cho người lao động nông nghiệp trên địa bàn. Từ đó tác giả đưa ra một số
khuyến nghị giải quyết tốt hơn vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động
nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá tại huyện Từ Liêm.
+ Tác giả Đặng Xuân Hoan (2015), Phát triển nguôn nhân lực Việt
Nam giai đoạn 2015 – 2020 đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Báo điện tử tcnn.vn. Bài viết đã nêu thực trạng
nguồn nhân lực lao động Việt Nam và đưa ra 4 giải pháp lớn phát triển nguồn
nhân lực giai đoạn 2015 – 2020 trong đó giải pháp đầu tiên tác giả đề cập đến
là đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực nhưng không đi
sâu về lao động nông thôn.
+ Tác giả Mạc Văn Tiến (2015), Cơ hội và thách thức đối với lao động
Việt Nam khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN. Bài viết đánh giá khái quát
về thực trạng lao động Việt Nam, những cơ hội và thách thức của lao động
Việt Nam khi tham gia thị trường lao động khu vực trong tiến trình hội nhập.
Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp mang tính định hướng để nâng cao chất
lượng của lao động Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
+ Tác giả Phạm Mạnh Hà (2011), Vai trò của Nhà nước đối với giải

quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh Bình trong quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Chuyên đề luận án tiến sỹ đã chỉ ra những hạn chế,
yếu kém và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong vấn đề tạo việc làm cho
lao động nông thôn tỉnh Ninh Bình. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp
phát huy vai trò quản lý nhà nước đối với giải quyết việc làm cho lao động

5


nông thôn tỉnh Ninh Bình trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa và
giải pháp đầu tiên tác giả đề xuất là cần coi trọng công tác quản lý nhà nước
về lao động và đào tạo nghề.
+ Tác giả Nguyễn Hoàng Nam (2009), Quản lý nhà nước về đào tạo
nghề tại Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sỹ kinh tế. Công
trình nghiên cứu đã tập trung vào công tác đào tạo nghề của các trường dạy
nghề và yếu tố ảnh hưởng đến công tác dạy nghề tại tỉnh Phú Thọ nhưng chưa
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến người học đặc biệt người học là lao
động nông thôn và tỷ lệ có việc làm sau học nghề đạt cao hay thấp...
+ Tác giả Phan Thị Nhi ( 2017), Đánh giá chính sách đào tạo nghề từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.
Công trình tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách
đào tạo nghề từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Qua đó, xác định những hạn chế,
vướng mắt để đề ra phương hướng, mục tiêu giải pháp thực hiện trong thời gian
tiếp theo.
+ Tác giả Nguyễn Minh Vịnh (2013), Hỗ trợ của Nhà nước nhằm giải
quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá ở
huyện Từ Liêm – thành phố Hà Nội. Luận văn Thạc sỹ kinh tế.
Ngoài ra, còn có một số bài báo, công trình nghiên cứu, luận án, luận
văn khác, với các cách tiếp cận khác nhau trong lĩnh vực đào tạo nghề và giải
quyết việc làm cũng đã đề cập đến những vấn đề có liên quan đến nội dung

nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề lý luận - pháp lý và đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực
tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, luận văn đề xuất các quan điểm,

6


giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn ở cấp huyện của nước ta hiện nay
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản của quản lý nhà nước về đào
tạo nghề cho lao động nông thôn.
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
trong thời gian qua.
Trên cơ sở đó đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản
lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta giai đoạn 2018
- 2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước của chính quyền các cấp về đào
tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2013 – 2017 và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện công

tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn
huyện Thăng Bình giai đoạn 2018 - 2025.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: gồm các văn bản của Đảng, các quy
định pháp luật của Nhà nước, các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Đảng và
nhà nước… để xử lý thông tin và hình thành các luận điểm nghiên cứu.

7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh….Ngoài ra, tác giả đã kế thừa
một số kết quả nghiên cứu, các nhận định tại các báo cáo của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có liên quan đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn và
công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở phân tích đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về đào tạo
nghề và những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận
quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cung cấp luận cứ khoa học cho chính quyền cấp xã
và huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam triển khai một số giải pháp nhằm
hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với
giải quyết việc làm trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam từ nay
đến năm 2025.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, phần

nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn.
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà
nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Thăng Bình
từ nay đến năm 2025.

8


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Nghề
Xét về khái niệm phổ biến nhất thì: Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao
động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức,
những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp
ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề hay nghiệp, đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb
Văn hoá thông tin – 1998) định nghĩa: “Nghề là công việc chuyên làm theo sự
phân công của xã hội”; Nghề là một việc làm có tính ổn định, đem lại thu nhập
để duy trì và phát triển cuộc sống cho mỗi người. Nghề không đơn giản chỉ để
kiếm sống mà còn là con đường để chúng ta thể hiện và khẳng định giá trị của
bản thân.

Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động
sản xuất hẹp mà ở đó con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình
làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…)
hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là
những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn
chuyên môn.. Ở Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chuyên
môn, còn ở nước Mỹ, con số đó lên tới 40.000. Các nghề trong xã hội luôn ở
trạng thái biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề

9


chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác, nhiều nghề cũ mất
đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề
mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa. Theo thống kê gần đây
cho thấy trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600
nghề mới xuất hiện.
Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế
từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường đã tạo ra những biến
đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Con người phải chủ động
chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để
tự tìm việc làm, tự tạo việc làm… Mỗi năm ở cả 3 hệ trường (dạy nghề, trung
học chuyên ngiệp và cao đẳng - đại học) đào tạo khoảng 300 nghề bao gồm
hàng nghìn chuyên môn khác nhau.
1.1.1.2. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi ở con người một quá trình đào
tạo chuyên biệt, có những kiến thức, kỹ năng, kĩ xảo chuyên môn nhất định,
có phẩm chất, đạo đức phù hợp với yêu cầu của dạng lao động tương ứng.
Nghề nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu

vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công
nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành
cả một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần
cứng, phần mềm và các thiết bị bổ trợ v.v… Công nghệ các hợp chất cao phân
tử tách ra từ công nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du
lịch tiếp nối ra đời…
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh
tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra
những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị
trường, nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một

10


thứ hàng hóa. Giá trị của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình
độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ
hàng hóa này như thế nào là do “hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao
động” quyết định. Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong quá trình
vận hành của cơ chế thị trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực,
trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm,
tự tạo việc làm…
1.1.1.3. Đào tạo nghề
Theo C.Mác Ph.Ăng ghen, tuyển tập xuất bản lần 2, tập 16 thì công tác
dạy nghề phải bao gồm các thành phần sau:
Một là: giáo dục trí tuệ
Hai là: Giáo dục thể lực như trong các trường thể dục thể thao hoặc bằng
cách huấn luyện quân sự
Ba là: dạy kỹ thuật nhằm giúp học sinh nắm vững được những nguyên lí
cơ bản của tất cả các quá trình sản xuất, đồng thời biết sử dụng các công cụ
sản xuất đơn giản nhất

Ở Việt Nam có tồn tại các khái niệm sau:
Theo giáo trình Kinh tế lao động của trường Đại học Kinh tế quốc dân
[14, tr.78] thì khái niệm đào tạo nghề được tác giả trình bày là: “Đào tạo
nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn
nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một số công việc
nhất định”
Theo tài liệu của Bộ LĐ-TB&XH xuất bản năm 2002 thì khái niệm đào
tạo nghề được hiểu: “Đào tạo nghề là hoạt động nhằm trang bị cho người lao
động những kiến thức, kĩ năng và thái độ lao động cần thiết để người lao
động sau khi hoàn thành khoá học hành được một nghề trong xã hội”

11


Như vậy, có thể thấy rằng: khái niệm này đã không chỉ dừng lại ở trang
bị những kiến thức kĩ năng cơ bản mà còn đề cập đến thái độ lao động cơ bản.
Điều này thể hiện tính nhân văn, tinh thần xã hội chủ nghĩa, đề cao người lao
động ngay trong quan niệm về lao động chứ không chỉ coi lao động là một
nguồn “Vốn nhân lực”, coi công nhân như cái máy sản xuất thuần túy thông
thường. Nó cũng thể hiện sự đầy đủ hơn về vấn đề tinh thần và kỉ luật lao
động - một yêu cầu vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất với công
nghệ và kĩ thuật tiên tiến hiện nay.
1.1.1.4. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một trong những nội dung của
đào tạo nghề nói chung. Ở đây có thể thấy rằng, ở bất kỳ khu vực nào thì công
tác đào tạo nghề cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc phát
triển kinh tế, ổn định và nâng cao đời sống cho người dân.
Xét về khái niệm thì có thể hiểu rằng: Đào tạo nghề cho người lao động
là quá trình giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm vững
một nghề, một chuyên môn nó bao gồm đào tạo công nhân kỹ thuật, nhân

viên nghiệp vụ hoặc phổ cập nghề cho người lao động (chủ yếu là lao động
nông nghiệp). Theo Khoản 1 Điều 5 Luật Dạy nghề: “Dạy nghề là hoạt động
nhằm trang bị cho người lao động những kiến thức, kĩ năng và thái độ lao
động cần thiết để người lao động có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc
làm sau khi hoàn thành khoá học”. Lao động nông thôn là những người thuộc
lực lượng lao động và hoạt động trong hệ thống kinh tế nông thôn. Đây là
những người dân không phân biệt giới tính, tổ chức, cá nhân sinh sống và
hoạt động ở vùng nông thôn. Hiện nay, lao động nông thôn có khoảng 33
triệu người chiếm tới 76% dân số trong độ tuổi lao động của cả nước.
Như vậy có thể hiểu hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn là
hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt những kiến thức, kỹ năng,

12


kỹ xảo của một nghề nào đó cho người lao động ở khu vực nông thôn, từ đó
tạo ra năng lực cho người lao động đó có thể thực hiện thành công nghề đã
được đào tạo.
Ở nước ta, trong giai đoạn 2011-2015, có hơn một triệu 148 nghìn người
được hỗ trợ đào tạo nghề nông nghiệp để thực hiện các dự án trong chương
trình xây dựng nông thôn mới, làm dịch vụ phục vụ sản xuất các loại cây
trồng, vật nuôi để nâng cao thu nhập, bảo đảm an sinh xã hội. Con số này còn
quá khiêm tốn khi mà hiện nay cả nước có khoảng hơn 25 triệu lao động làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 55,7% tổng lao động của cả nước, và
mỗi năm có thêm khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động. Nếu không quan
tâm và chú trọng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn sẽ dễ dẫn đến
tình trạng hụt hẫng nguồn lao động lành nghề, thạo nghề được đào tạo cơ bản
để phục vụ sản xuất đúng như đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn: “số lượng đào tạo nghề nông nghiệp chưa đạt mục tiêu đề ra;
phương pháp đào tạo chủ yếu là tập trung ở trên lớp, do đó nhiều nông dân

không có điều kiện để tham gia với thời gian ba tháng; một số nội dung đào
tạo theo yêu cầu của sản xuất nông nghiệp hiện nay như: sản xuất công nghệ
cao, vệ sinh an toàn thực phẩm, sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu không
có trong chương trình đào tạo; nguồn kinh phí dựa chủ yếu vào ngân sách
Trung ương hỗ trợ, mặt khác kinh phí hằng năm bố trí hạn chế cho nên các
mục tiêu về số lượng đạt thấp (75%); việc phân công và cơ chế phối hợp chưa
phù hợp, dẫn đến vai trò của ngành nông nghiệp đối với đào tạo nghề nông
nghiệp cho lao động nông thôn chưa được phát huy; các bộ, ngành, tổ chức
đoàn thể chính trị - xã hội chưa có sự phối hợp gắn kết trong tuyên truyền,
định hướng thị trường, việc kiểm tra, giám sát thực hiện chương trình cho nên
ảnh hưởng đến kết quả đào tạo”.

13


1.1.1.5. Quản lý và quản lý nhà nước
Quản lý: theo nghĩa chung nhất, là sự tác động của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý là một hoạt động có
tính chất phố biến, mọi nơi, mọi lúc, trong mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và liên
quan đến mọi người. Đó là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng
đồng dựa trên sự phân công và hợp tác làm một công việc để đạt được mục
tiêu chung.

Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người. Quản
lý là hoạt động do một hay nhiều người điều phối hành động của những người
khác nhằm đạt được một mục tiêu nào đó một cách có hiệu quả.
Như vậy, quản lý là sự áp dụng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm để điều
khiển nguồn lực thực hiện các tiến trình để giải quyết các vấn đề.
Theo giáo trình Khoa học hành chính (2010) - Nhà xuất bản Chính trị Hành chính [9, tr.53-54] có thể nhận thấy bao giờ quản lý cũng xuất hiện
cùng với nhu cầu phải phân công và phối hợp trong lao động. C.Mác cho rằng

“Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ
sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí
quan độc lập của nó. Một khi người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình,

14


còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Để một hoạt động quản lý có
thể diễn ra, bên cạnh chủ thể quản lý còn cần các yếu tố khác như đối tượng
quản lý, cách thức tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và
những mục tiêu mà hoạt động quản lý đó hướng tới.
Như vậy, có thể hiểu quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để
đạt tới những mục tiêu nhất định.
Từ nội hàm của các khái niệm trên, có thể thấy rằng quản lý có một vai
trò hết sức quan trọng nhằm tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức giữa
những người quản lý và người bị quản lý; giữa những người bị quản lý với
nhau; định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu
chung và hướng mọi nỗ lực của các đối tượng quản lý vào mục tiêu đó; tổ
chức, điều hoà, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân, tổ chức,
giảm độ bất định nhằm đạt được mục tiêu quản lý; tạo động lực cho mọi cá
nhân trong tổ chức bằng cách kích thích, động viên; uốn nắn lệch lạc, sai sót
nhằm giảm bớt thất thoát, sai lệch trong quá trình quản lý, tạo môi trường và
điều kiện cho sự phát triển của mọi cá nhân và tổ chức, đảm bảo phát triển ổn
định, bền vững và có hiệu quả.
Quản lý nhà nước: Theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển Việt
Nam thì quản lý nhà nước là tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội
theo pháp luật.

Theo giáo trình Khoa học hành chính (2010), Nhà xuất bản Chính trị Hành chính [9, tr.56-57]: “Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc
biệt, xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Đó là
những hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan quản lý nhà
nước tiến hành đối với mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế

15


đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì
ổn định an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng
thống nhất của Nhà nước”.
Theo giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Nhà xuất bản Công an
nhân dân [7, 102-103] thì “quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên
các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng
đối nội và đối ngoại của nhà nước”. Nói một cách khác thì quản lý nhà nước
là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp
luật, tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối
ngoại của nhà nước.
1.1.1.6. Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Với việc nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích về quản lý nhà nước và đào tạo nghề cho lao
động nông thôn ở các phần trên thì có thể thấy rằng: từ các chủ trương, chính sách, mục
tiêu, kế hoạch ... chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, của các bộ ngành, của cấp ủy và chính
quyền các cấp, các cơ quan chức năng được giao nhiệm vụ triển khai đến các cơ sở và
người dân được biết quy định, chính sách về đào tạo nghề cho lao động nông thôn và đó là
những căn cứ để các cơ quan chức năng thực hiện công tác quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn. Qua kiểm tra, giám sát phát hiện những sai sót hoặc vi phạm
sẽ có những xử lý hoặc điều chỉnh kịp thời phù hợp với điều kiện thực tế để đạt mục tiêu,
kế hoạch đề ra một cách hiệu quả.


1.1.2. Đặc điểm của đào tạo nghề và quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn
1.1.2 1. Đặc điểm của đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Từ đặc điểm của lao đông nông thôn và những đặc điểm của hoạt động
đào tạo nghề nói chung, có thể nhận thấy hoạt động đào tạo nghề cho lao
động nông thôn cũng mang những đặc điểm khác biệt, cụ thể:
Thứ nhất: Về thời gian đào tạo: Theo Đề án đào tạo nghề cho lao động
nông thôn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1956/QĐ-

16


TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”
thì thời gian đào tạo trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng, tuy nhiên
do tính chất công việc mùa vụ nên việc bố trí thời gian học cho nông dân cần
tính toán phù hợp để người học tham gia đông đủ và hiệu quả nhất.
Thứ hai: Về địa điểm đào tạo: Cần bố trí địa điểm học gần, thuận tiện
cho học viên đi lại vì họ ngại di chuyển và tâm lý muốn học gần nhà còn có
thể tranh thủ làm thêm việc khác. Vì thế địa điểm thường được chọn để dạy
học là nhà văn hóa các thôn, nhưng nhà văn hóa các thôn thường mới chỉ
được trang bị cơ sở vật chất đơn giản sẽ là nguyên nhân ảnh hưởng hạn chế
đối với cả người dạy và người học.
Thứ ba: Về nội dung đào tạo và học liệu: Cần nghiên cứu xây dựng sao
cho phù hợp, nên bố trí phần lý thuyết ngắn gọn, câu từ đơn giản dễ hiểu, có
dụng cụ trực quan minh họa sinh động và bố trí thực hành nhiều hơn bởi dạy
nông dân phải thực hiện theo phương châm cầm tay chỉ việc.
Thứ tư: Về giáo viên và phương pháp giảng: Giáo viên nên chọn những
người có nhiều kinh nghiệm, giản dị, cởi mở, thân thiện. Thực hiện phương
pháp giảng trao đổi thông tin 2 chiều để nắm được vấn đề của người học từ đó
có những điều chỉnh, chia sẻ, động viên nhiều, góp ý khéo để người học

không cảm thấy chán và hứng thú học.
Thứ năm: Về cơ sở vật chất, trang thiết bị: Do nông dân, nông thôn quen
với lối sống chắt chiu, kham khổ do đó việc trang bị cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học, thực hành không đòi hỏi quá cao, thậm chí các thiết bị hiện đại có
thể còn ảnh hưởng đến hiệu quả học hành bởi người học chưa bắt nhịp, chưa
hiểu.
Thứ sáu: Về kinh phí đào tạo: Đời sống nông dân, nông thôn rất tình
cảm, mức sống không cao nên kinh phí đầu tư hỗ trợ lao động nông thôn học
nghề cũng không nhiều, không tốn kém như các đối tượng học nghề khác.

17


1.1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Quản lý nhà nước là sự tác động mang tính quyền lực - tổ chức của các
cơ quan nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền tới đối tượng bị quản lý nhằm
đạt được mục tiêu do chủ thể quản lý nhà nước đặt ra. Vì thế quản lý nhà
nước đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn có những đặc điểm chủ
yếu sau:
Một: Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn dựa trên
các chỉ tiêu về số lượng, chất lượng, tiến độ lộ trình thời gian và quy định
chính sách của Chính phủ, bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp để thống
nhất triển khai thực hiện, đánh giá.
Hai: Các cơ quan được giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn cấp dưới căn cứ chỉ tiêu được
cấp trên giao hàng năm, xây dựng kế hoạch và hợp đồng đặt hàng với các cơ
sở đào tạo nghề thực hiện, kinh phí nhà nước hỗ trợ công tác đào tạo nghề cho
lao động nông thôn được chuyển trả cho cơ sở đào tạo nghề. Vì thế, quản lý
nhà nước đối với công tác đào tạo nghề thực hiện chủ yếu thông qua cơ sở
đào tạo nghề được phê duyệt đặt hàng, kết quả đào tạo và tỷ lệ lao động có

việc làm với nghề đã học từ đó có những yêu cầu cơ sở đào tạo nghề điều
chỉnh phù hợp hoặc không lựa chọn đặt hàng đào tạo nghề năm tiếp theo.
Ba: Quản lý nhà nước đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn được
giao cho hai ngành Lao động -Thương binh và Xã hội và ngành Nông nghiệp
thực hiện thống nhất. Trong đó việc quản lý nhà nước đối với công tác đào
tạo nghề phi nông nghiệp cho lao động nông thôn do ngành Lao độngThương binh và Xã hội thực hiện; việc quản lý công tác đào tạo nghề nông
nghiệp cho lao động nông thôn do ngành nông nghiệp thực hiện (cấp huyện
do phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tham mưu cho UBND cấp
huyện thực hiện).

18


Bốn: Đối tượng học nghề là nông dân, lao động nông thôn do đó việc bố
trí địa điểm lớp học, thời gian học cần linh hoạt để đạt hiệu quả cao chính vì
thế công tác quản lý, kiểm tra, giám sát và tuyên truyền, giới thiệu chủ trương
chính sách về công tác đào tạo nghề cũng khá vất vả.
1.1.3. Vai trò của đào tạo nghề và quản lý nhà nước về đào tạo nghề
cho lao động nông thôn
1.1.31. Vai trò của đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Nước ta hiện có 54 triệu lao động thì lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp đang chiếm 23,5 triệu (chiếm 43%), tiềm năng lao động còn rất lớn.
Giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ cũng đã dành một khoản kinh phí gấp 4 lần
giai đoạn 2010 - 2016 với khoảng 63 nghìn tỉ đồng (trên tổng số 193 nghìn tỉ
cho Chương trình xây dựng NTM) để phục vụ cho chương trình đào tạo nghề
cho lao động nông thôn. Trong hệ thống các văn kiện của mình, Đảng ta luôn
xác định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là một khâu đột phá chiến lược để bảo đảm đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đây là một nhiệm vụ
rất cơ bản đồng thời cũng rất cấp bách, cần được quan tâm thực hiện ở nhiều

cấp khác nhau: từ những người lao động ở các cơ sở sản xuất kinh doanh cho
đến các chuyên gia, nhà quản lý (quản lý doanh nghiệp, quản lý nhà nước)
đến các nhà hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô. Sự phát triển của nguồn
nhân lực ở các cấp ấy là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của
nền kinh tế nước ta hiện nay” .
Thực tế cho thấy, trong toàn bộ vấn đề nhân lực nước ta hiện nay, điều
cần quan tâm là chất lượng lao động trong nông thôn còn quá thấp. Chất
lượng lao động nông thôn thấp đã làm cho thu nhập của người lao động
không thể tăng nhanh; gây ra chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông
thôn ngày càng doãng xa thêm. Chính sách giảm nghèo tuy đã đạt được một

19


số kết quả, nhưng rõ ràng không thể chỉ dừng lại ở chỗ cấp đất, tặng nhà, thực
hiện các chính sách "ưu đãi" hộ nghèo, mà việc giảm nghèo phải được thực
hiện chủ yếu bằng việc nâng cao chất lượng lao động của lao động nông thôn.
Nói cách khác, bằng việc đào tạo nghề cho họ, để họ làm việc với năng suất
và chất lượng cao hơn, để có thể thoát nghèo và giàu lên ngay trên mảnh đất
quê hương. Tư tưởng ly hương, tìm kiếm công việc ở các thành phố lớn với
mức thu nhập có thể tạm chấp nhận so với mức thu nhập quá thấp ở nông
thôn khiến một lực lượng hùng hậu lao động nông thôn nhất là lao động trẻ đổ
về các thành phố lớn để tìm kiếm cơ hội. Bên cạnh đó, chính những nghề
nghiệp mà chúng ta đang cố gắng đào tạo chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút
người lao động nông thôn, nhất là về mặc thu nhập. Mặt khác, ngày nay người
lao động chưa qua đào tạo (lao động phổ thông) cơ hội tìm được việc làm
trong các doanh nghiệp, tổ chức là rất thấp. Do các yêu cầu của trình độ kỹ
thuật, tay nghề của người lao động, đòi hỏi sự hiểu biết về máy móc, vật tư,
kỹ thuật để tạo ra sản phẩm cho xã hội, sức cạnh tranh sản phẩm trên thị
trường… Đặc biệt trong điều kiện kinh tế suy giảm như hiện nay, nhiều doanh

nghiệp bị phá sản ... thì cơ hội tìm việc làm đối với lao động trình độ thấp và
lao động chưa qua đào tạo là rất khó khăn. Vì thế, công tác đào tạo nghề cho
lao động nông thôn có ý nghĩa và vai trò rất lớn đối với sự ổn định an ninh
chính trị và phát triển kinh tế xã hội nói chung và người lao động nói riêng:
Đối với doanh nghiệp: Đào tạo nghề được xem là một yếu tố cơ bản
nhằm đáp ứng các mục tiêu, chiến lược của tổ chức. Chất lượng nguồn nhân
lực trở thành lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của các doanh nghiệp. Nó
giúp doanh nghiệp giải quyết được các vấn đề về tổ chức, chuẩn bị đội ngũ
cán bộ quản lý, chuyên môn kế cận và giúp cho doanh nghiệp thích ứng kịp
thời với sự thay đổi của xã hội. Quá trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
thành công sẽ mang lại những lợi ích sau: Cải tiến về năng suất, chất lượng và

20


×