Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa tại thị xã điện bàn, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.7 KB, 100 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH
LỊCH SỬ - VĂN HÓA TẠI THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH
LỊCH SỬ - VĂN HÓA TẠI THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công


: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN THỊ AN

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn thạc sĩ chính sách công “Chính sách bảo
tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam” là kết quả qua quá trình học tập, nghiên cứu của bản thân. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác trong cũng lĩnh vực. Tôi xin chịu trách nhiệm lời cam đoan của mình./.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bích Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA . 11
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị các di tích lịch sử - văn hóa ở nước ta ............................................................ 11
1.2. Khái quát về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa .. 20
1.3. Nội dung thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử

- văn hóa .................................................................................................................... 24
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các
di tích lịch sử - văn hóa…………………………………………………………….31
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TẠI THỊ XÃ
ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM......................................................................... 36
2.1. Giới thiệu về thị xã Điện Bàn............................................................................. 36
2.2. Thực trạng ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các
di tích lịch sử - văn hóa hiện nay tại thị xã Điện Bàn ............................................... 39
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích
lịch sử - văn hóa hiện nay tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ............................. 57
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH
SỬ - VĂN HÓA TẠI THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY ... 66
3.1. Mục tiêu, định hướng tăng cường thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị các di tích lịch sử - văn hóa ............................................................................ 66
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn thị xã Điện
Bàn trong giai đoạn tới .............................................................................................. 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSC

: Chính sách công

DSVH


: Di sản văn hóa

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LS - VH

: Lịch sử - Văn hóa

NĐ-CP

: Nghị định - Chính phủ

NQ

: Nghị quyết

QĐ-UBND

: Quyết định - Ủy ban nhân dân

TT-BVHTTDL

: Thông tư - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

UBND

: Ủy ban nhân dân


VHTTDL

: Văn hóa, Thể thao và Du lịch


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1:

2.2:

2.3:

Danh mục kinh phí bảo tồn và phát huy giá trị di tích LS-VH
giai đoạn 2005 - 2010
Danh mục kinh phí bảo tồn và phát huy giá trị di tích LS-VH
giai đoạn 2011 – 2015
Danh mục kinh phí bảo tồn và phát huy giá trị di tích LS-VH
giai đoạn 2016 – 2020

Trang

50

51


52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo chiều dài hàng nghìn năm lịch sử, con người Việt Nam đã sáng tạo nên biết
bao thành tựu văn hóa, phần nhiều trong số đó đã được lưu lại thành các di sản văn
hóa. Di sản văn hoá tồn tại dưới dạng vật thể và phi vật thể. Trải qua thời gian, những
giá trị di tích lịch sử - văn hóa vẫn hiện hữu trong nền văn hóa truyền thống của dân
tộc Việt Nam.
Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
khoá X kỳ họp thứ 9 thông qua đã khẳng định “Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý
giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của Di sản văn hoá nhân
loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta” [9,
tr.17]. Nghị quyết Trung ương 5, Khóa VIII đã xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó nhiệm vụ
thứ tư là bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Nghị quyết đã chỉ rõ nhiệm vụ này
như sau: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của
bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi
trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân
gian), văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” [25, tr.27-31].
Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ
phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta. Việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong đó có các di
tích lịch sử - văn hóa là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng
nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân.
Trong xu thế giao lưu hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề bảo tồn và phát
huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ gìn và
phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xây

dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc góp vào nền văn
hóa chung một sắc màu độc đáo, đa dạng về các loại hình văn hóa trong đó có di tích
1


LS-VH. Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trên cả nước có 3.447
nghìn di tích được xếp hạng cấp quốc gia trong đó có 95 di tích được xếp hạng di tích
quốc gia đặc biệt, hàng vạn di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Tính đến tháng 12 năm
2017, Việt Nam có 20 di sản văn hóa được UNESCO vinh danh (gồm 8 Di sản văn
hóa vật thể và 12 Di sản văn hóa phi vật thể) [8].
Những năm qua, công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của dân tộc đã
đạt được nhiều tiến bộ. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo vệ và phát
huy giá trị, nhiều nghệ nhân được tôn vinh, công tác xã hội hóa được tăng cường và
thu hút được đông đảo các tổ chức và cá nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa, tăng cường giao lưu văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế, thúc đẩy
phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Do những đặc thù về địa lý – lịch sử, địa lý - nhân văn, tỉnh Quảng Nam đã trở
thành một trung tâm văn hóa – du lịch lớn của cả nước nhờ sự phong phú và đa dạng
của kho tàng di sản văn hóa đậm chất đặc trưng của đất và con người Xứ Quảng. Dưới
góc độ di sản văn hóa vật thể, tỉnh Quảng Nam có hai di sản văn hóa thế giới là Thánh
địa Mỹ Sơn và Khu đô thị cổ Hội An. Ngoài ra Quảng Nam có đủ các loại hình di tích
LS-VH tiêu biểu từ các di chỉ khảo cổ đến các di tích lịch sử - văn hóa truyền thống
cách mạng [40].
Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam là vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền
thống cách mạng với 51 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 6 di tích lịch sử cấp quốc
gia và 45 di tích lịch sử cấp tỉnh. Tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh kể từ khi Điện
Bàn trở thành thị xã. Chính quyền tỉnh Quảng Nam và thị xã Điện Bàn đã ban hành
nhiều chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa nhằm gìn giữ
và góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bên cạnh những kết

quả đạt được, thị xã Điện Bàn đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện chính
sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH. Xuất phát từ thực tiễn thị xã Điện
Bàn và nhiều năm làm việc trong lĩnh vực quản lý di tích lịch sử - văn hóa, tác giả
chọn đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích
lịch sử - văn hóa tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp Thạc
sỹ chuyên ngành Chính sách công tại Học viện Khoa học xã hội.
2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Các công trình nghiên cứu về chính sách công
Công trình “Chính sách công – những vấn đề cơ bản” (2016) của tác giả Nguyễn
Hữu Hải đã cung cấp những lý luận chung nhất về chính sách công như: quá trình phát
triển khoa học chính sách; đặc điểm, vai trò và phân loại CSC; cấu trúc nội dung và
chu trình CSC; nguyên tắc, căn cứ, các bước và phương pháp, công cụ hoạch định
CSC; yêu cầu, các hình thức, phương pháp tổ chức thực thi CSC và phân cấp quản lý
CSC; nguyên tắc, tiêu chí, quy trình, nội dung và phương pháp phân tích CSC; nội
dung đánh giá CSC; tổ chức công tác phân tích, đánh giá CSC. Đặc biệt tác giả còn
chú trọng đến việc vận dụng những kiến thức cơ bản vào thực tiễn đánh giá CSC ở
Việt Nam [17].
Bài giảng “Những vấn đề cơ bản về chính sách công” (Ban hành kèm theo
Quyết định số: 26/QĐ-HVKHXH ngày 9/11/2012 của Giám đốc Học viện Khoa học
xã hội) của tác giả Đỗ Phú Hải đã nêu ra khái niệm chung về CSC, bản chất CSC, các
loại và phạm vi CS; Vai trò, mục đích và quy trình xây dựng CSC; xác định các vấn đề
và giải pháp CSC [16].
Hai tác giả Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa với công trình “Đại cương về Chính
sách công” (2013) đã cung cấp những kiến thức đại cương về phân tích CSC như: khái
quát về phân tích CSC, đặc trưng của phân tích CSC, tiêu chuẩn nhân sự làm chuyên
môn về phân tích CSC, quy trình, nội dung và phương pháp phân tích CSC [18,
tr.786].

Các công trình nghiên cứu về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa
Công trình “Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập
quốc tế” được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm xuất bản năm 2011 của
tác giả Phan Hồng Giang đã đề cập đến nhiều lĩnh vực cụ thể của hoạt động quản lý
văn hóa ở nước ta hiện nay trong đó có quản lý DSVH. Ở lĩnh vực này, các tác giả đưa
ra thực trạng quản lý di tích LS-VH, bảo tàng và DSVH phi vật thể. Trong các nội
dung quản lý được đề cập có việc tập trung phân tích những ưu điểm trong hoạt động
bảo tồn di tích như nhà nước đã đầu tư toàn bộ kinh phí cho các di tích cách mạng
3


kháng chiến, các di tích được đầu tư tu bổ, chống xuống cấp đã trở thành các điểm
tham quan hấp dẫn; đồng thời nêu ra những hạn chế, đề ra những giải pháp cụ thể cho
từng lĩnh vực của di tích như: đầu tư đồng bộ trong bảo tồn, tôn tạo, triển khai việc
quy hoạch chi tiết đối với các di tích để giải quyết hợp lý, hài hòa, bền vững [15,
tr.486].
Cuốn sách “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển DSVH dân tộc” của tác giả
Hoàng Vinh được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 1997 gồm 3
chương và phần phụ lục đề cập đến những vấn đề lý luận về DSVH dân tộc; về vai trò,
chức năng của DSVH đối với việc lựa chọn mô hình phát triển văn hóa dân tộc. Căn
cứ vào những đòi hỏi thực tiễn của cuộc sống, tác giả đã tiến hành phân loại và bước
đầu mô tả thực trạng vốn DSVH dân tộc và làm nổi rõ những mặt tồn tại, những
nguyên nhân đã và đang gây nên sự xuống cấp vốn DSVH trong thời gian qua; từ đó,
đưa ra những kiến nghị, biện pháp cụ thể. [48, tr.127,128,131,133].
Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa
Việt Nam” được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội xuất bản năm 2011
là kết quả nghiên cứu của hai tác giả Nguyễn Thị Hương và Trần Kim Cúc. Cuốn sách
đã tổng hợp các bài viết được đăng tải trên các tạp chí về lý luận và thực tiễn xây
dựng, phát triển văn hóa Việt Nam trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế dưới sự

chỉ đạo của Đảng. Các tác giả đã đề cập nhiều nội dung tư tưởng nhân văn - tư tưởng
cơ bản nhất trong học thuyết Mác mà không ai có thể phủ nhận được; quan niệm của
các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa lãnh đạo và quản lý; thị trường
hàng hóa văn hóa,…Ngoài ra, các tác giả còn bàn đến kinh nghiệm, chính sách của
một số nước trên thế giới trong việc xây dựng, phát triển và giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm áp dụng vào thực tế của nước ta hiện
nay. Bên cạnh đó, cuốn sách còn tập hợp một số bài viết đề cập đến thực tiễn xây dựng
và phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm đổi mới cùng những giao lưu của
văn hóa Việt Nam với thế giới trong thời kỳ hội nhập [28].
Công trình “Bảo tồn, phát huy giá trị DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội”
(2010, Nxb. Hà Nội, Hà Nội) là một trong những công trình được biên soạn trên cơ sở
kế thừa kết quả nghiên cứu của chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước, mã số KX.09:
4


Phát huy điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và giá trị lịch sử văn hóa 1000 năm Thăng
Long - Hà Nội phục vụ phát triển toàn diện Thủ đô. Cuốn sách đã tập trung làm rõ cơ
sở lý luận, thực tiễn kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị của DSVH vật thể Thăng
Long - Hà Nội, tiếp thu những quan điểm mới về quản lý di sản một số nước trên thế
giới để vận dụng vào công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản vật thể Thăng Long Hà Nội; xuất phát từ thực trạng DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội làm rõ giá trị của
nó trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Cuốn
sách chỉ ra những nguy cơ, thách thức của công cuộc bảo tồn DSVH và đề xuất các
giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
vật thể Thăng Long - Hà Nội trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc khuyến nghị của
UNESCO về bảo vệ di sản văn hoá và thiên nhiên; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của các nước trên thế giới; và vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa vật thể tiêu biểu của Thăng Long- Hà Nội, hướng
tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội [5].
Luận án Tiến sĩ Triết học “Vấn đề giữ gìn và phát huy DSVH ở Thừa Thiên Huế
hiện nay” (2014, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) của tác giả Trần Thị

Hồng Minh là một công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của vấn đề giữ gìn và
phát huy DSVH; phân tích, đánh giá tình trạng giữ gìn và phát huy các DSVH ỏa Thừa
Thiên Huế; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn
và phát huy các DSVH tại địa phương này hiện nay [31, tr.3].
Ngoài ra vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH ở Việt Nam đã
được các nhà nghiên cứu bàn và công bố trên các báo và tạp chí có giá trị như:
Bài viết “Bảo tồn, phát huy giá trị các DSVH - thiên nhiên thế giới phục vụ
phát triển ở nước ta” của tác giả Nguyễn Quốc Hùng đăng trên tạp chí DSVH số
1/2006 nhấn mạnh nhiệm vụ của ngành văn hóa và chính quyền địa phương cần tập
trung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thống nhất tổ chức bộ máy
quản lý, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị
DSVH và thiên nhiên thế giới nói riêng, DSVH nói chung [21, tr.18-24].
Bài viết “Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH và thiên nhiên trong quá trình hội
nhập và phát triển” của tác giả Nguyễn Quốc Hùng đã đánh giá các hoạt động tích cực
5


của nhà nước ta để hội nhập và phát huy giá tri DSVH và thiên nhiên. Hội nhập là cơ
hội cũng là thách thức đối với người làm công tác bảo vệ và phát huy giá trị DSVH và
thiên nhiên. Bên cạnh những mặt tích cực, hội nhập cũng có những tác động tiêu cực
đến DSVH và thiên nhiên của nước ta đòi hỏi sự chung tay góp sức của cộng đồng và
từng người dân với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế. [23, tr.4-7]
Bài viết “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước” của tác giả Nguyễn Thế Hùng đã nhận định hệ thống di tích lịch sử văn
hóa và danh lam thắng cảnh có giá trị to lớn và là nguồn tài nguyên vô giá của đất
nước. Tác giả cũng phản ảnh tình hình bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, đồng thời nêu một số quan điểm, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích góp phần vào sự
nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước [25, tr.27-31].
Bài viết “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa - Cơ hội mới, thách thức
mới”, của tác giả Hoàng Tuấn Anh [3, tr.3-5] đã đề cập những ảnh hưởng tích cực và

hạn chế của Luật Di sản văn hóa đến các hoạt động giữ gìn và phát huy giá trị các
DSVH, đồng thời nhấn mạnh việc sửa đổi, bổ sung một số điều của luật DSVH để tạo
ra những ảnh hưởng tích cực, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn bảo vệ và phát huy giá trị
DSVH trong thời kỳ hội nhập.
Ngoài ra còn có các bài nghiên cứu khác đề cập đến công tác bảo tồn, phát huy
giá trị các di tích lịch sử - văn hóa như: “Mấy vấn đề về nguồn nhân lực trong hoạt
động bảo tồn di tích – lịch sử văn hóa” của tác giả Lưu Trần Tiêu đăng trên tạp chí
DSVH, số 3 (40) - 2012 [39, tr.17-21]; bài viết “Một chặng trên một ngả đường bảo
tồn di tích” của tác giả Lê Quốc Vụ đăng trên tạp chí DSVH, số 2 (39) - 2012 [49,
tr.14-17]; Bài viết “Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững” của
tác giả Lê Thành Vinh đăng trên tạp chí DSVH, số 4 (13) - 2005 [47, tr.24-26]; Bài
viết “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đặng Thị
Tuyết đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam [43]. Bài viết “Những thuận lợi,
khó khăn và thách thức trong quản lý bảo tồn di sản ở Hội An” của tác giả Vũ Hoài
An đăng trên Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, số 58/2014 [2, tr.61-67].
Bài viết “Di sản văn hóa biển đảo Việt Nam – Vài ý kiến về công tác bảo vệ, phát huy
6


giá trị” của tác giả Phạm Quốc Quân đăng trên Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà
Nẵng, số 64/2015 [32, tr.45-49]. Bài viết “Vai trò của cộng đồng trong bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH” của tác giả Nguyễn Quốc Hùng đăng trên tạp chí DSVH số
1/2015 [24, tr.22-26]. Bài viết “Mấy suy nghĩ về phạm vi điều chỉnh chính sách phát
triển văn hóa ở nước ta hiện nay” của tác giả Đỗ Huy đăng trên tạp chí DSVH số
3/2007 [29, tr.10-14],...
Các công trình nghiên cứu về Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa ở tỉnh Quảng Nam và thị xã Điện Bàn
Tuyển tập tài liệu chuyên khảo “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Quảng
Nam” của tác giả Hồ Xuân Tịnh được Trung tâm Quản lý Di tích và Danh Thắng
Quảng Nam phát hành năm 2011. Trong tuyển tập này, tác giả Hồ Xuân Tịnh đã nêu
lên những vấn đề về DSVH nói chung và DSVH Quảng Nam nói riêng, phân tích về di

tích và lễ hội trên nền cảnh của môi trường, môi sinh, bằng cái nhìn địa – văn hóa.
Những kinh nghiệm và kiến thức mới trong quá trình cộng các với các chuyên gia
trong nước và quốc tế để đưa vào hoạt động quản lý [40].
Tuyển tập “Thông tin Di sản di tích Quảng Nam” của nhiều tác giá được Trung
tâm Quản lý Di tích và Danh thắng Quảng Nam phát hành năm 2009. Trong tuyển tập
này là tổng hợp các đã được chọn lọc từ các tờ “Thông tin Di sản – Di tích Quảng
Nam” đã được phát hành từ năm 2003 – 2009. Các tác giả đã giới thiệu đặc điểm, giá
trị của các DSVh Quảng Nam đồng thời chia sẻ những kinh nghiệm, kiến thức của các
nhà khoa học, nhà quản lý, về quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH trong và
ngoài tỉnh [41].
Cuốn sách “Địa chí Quảng Nam – Đà Nẵng” được Nhà xuất bản Khoa học và
xã hội xuất bản năm 2010 do hai tác giả: Nguyễn Đình An và Thạch Phương chủ biên
cùng sự tham gia của Ban biên soạn [1]. “Địa chí Quảng Nam – Đà Nẵng” là công
trình do tỉnh Quảng Nam và TP Đà Nẵng tổ chức biên soạn, thực hiện trong 12 năm kể
từ năm 1997, dày gần 1.850 trang gồm 6 phần, khảo tả từ địa lý tự nhiên, địa lý hành
chính đến lịch sử, kinh tế, văn hóa – xã hội và những người con tiêu biểu của đất
Quảng, trong đó có các di tích lịch sử - văn hóa.

7


Bài viết “Bảo tồn các di sản văn hóa ở Quảng Nam, những vấn đề đặt ra và
định hướng giải quyết” của tác giả Trần Ánh [41, tr.424] đã nêu ra những vấn đề phát
sinh trong quản lý DSVH ở Quảng Nam và nêu ra những giải pháp kịp thời trong việc
ban hành và thực hiện các quy chế quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích danh
thắng Quảng Nam.
Ngoài ra, UBND tỉnh Quảng Nam đã tổ chức thành công Hội thảo Khoa học
“Dinh trấn Thanh Chiêm và Chữ Quốc ngữ” góp phần khẳng định, làm sáng tỏ vai trò,
vị trí của dinh trấn Thanh Chiêm – dinh trấn Quảng Nam hai thế kỷ XVII – XVIII
trong việc mở bờ cõi, đẩy mạnh phát triển thương mại với bên ngoài – cảng thị Hội

An. Đồng thời, làm sáng tỏ vai trò dinh trấn Thanh Chiêm, tiếng nói xứ Quảng là nơi
đầu tiên hình thành chữ Quốc ngữ đồng thời các tác giả tham gia tham luận về các vấn
đề bảo tồn và phát huy giá trị di tích LS-VH Dinh trấn Thanh Chiêm.
Qua việc điểm các công trình nghiên cứu ở trên, có thể nói, vẫn chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu về chính sách và việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích LS-VH tại thị xã Điện Bàn. Vì vậy, tác giả chọn đề tài này để
đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách và đề ra những giải pháp hoàn thiện
chính sách phát bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH ở thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam trong thời gian đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả của việc thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa trong giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích LS-VH thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả việc thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị các di tích LS-VH thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

8


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch
sử - văn hóa thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ năm 2006 – 2016.
- Về không gian: Thị xã Điện Bàn.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
văn hóa nói chung và chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn
hóa nói riêng.
Luận văn sử dụng hai cách tiếp cận chính là chính sách công (với việc tìm
hiểu đối tượng nghiên cứu theo chu trình của chính sách công) và văn hóa học (với
việc tìm hiểu đối tượng nghiên cứu từ góc độ các thiết chế văn hóa – di tích và giá trị
văn hóa – giá trị của di sản).
5.3. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra thực địa: Tiến hành đi khảo sát thực tế các di tích lịch sử - văn hóa tại
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Phỏng vấn sâu các cán bộ văn hóa, những người đang trực tiếp làm công tác
quản lý văn hóa, quản lý di sản và người dân của các xã, phường trên địa bản thị xã
Điện Bàn để thu thập thông tin.
- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, chủ
trương của Đảng, Nhà nước và kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa trong cả nước nói chung, thị xã Điện Bàn nói riêng. Đồng thời, thu thập các số
liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa Thể thao, Du lịch tỉnh
Quảng Nam, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài.

9


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Từ việc tổng hợp về các quan điểm chỉ đạo của Đảng về việc xây dựng và thực
thi chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa nói chung, thị xã
Điện Bàn nói riêng, luận văn đưa ra các nghiên cứu cụ thể hơn về mối quan hệ giữa
chính quyền của các cấp với nhân dân trong việc bảo vệ, quản lý và phát huy giá trị
các di tích nhằm giáo dục truyền thống cách mạng cho mọi thế hệ.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân đạt và không đạt
được của việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn
hóa thị xã Điện Bàn, luận văn đề xuất những giải pháp để tăng cường thực hiện chính
sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa tại thị xã Điện Bàn trong
thời gian đến.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
các di tích lịch sử - văn hóa
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích lịch sử - văn hóa tại thị xã Điện Bàn
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa tại thị xã Điện Bàn.

10


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa ở nƣớc ta
1.1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Các khái niệm về Chính sách công và Chính sách văn hóa
Chính sách là của nhà nước, được xây dựng trên cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia theo từng thời kỳ lịch sử, mỗi quốc gia đều có những chính sách để
điều hành.
“Chính sách là hệ thống các thể chế, các định hướng, các quy định tạo nên

những thực hành của Nhà nước vào một đối tượng quản lý nào đó. Công cụ thực hành
chính của các chính sách là luật pháp và phương pháp hành chính, ngân sách và hệ
thống thuế. Các dạng tồn tại của chính sách gồm có các định hướng mang tính nguyên
tắc, các văn bản thể chế, các chính sách đầu tư và thuế, các phương pháp hành chính
khác” [19, tr.19].
“Chính sách” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu, phương
tiện truyền thông và đời sống xã hội. Tuy nhiên đây là thuật ngữ rất khó có thể định
nghĩa một cách cụ thể rõ ràng. Cụm từ “chính sách” khi gắn với vai trò, chức năng của
“Khu vực công” được gọi là chính sách công. Đây không chỉ đơn giản là sự ghép từ
thuần túy, mà đã có sự thay đổi cơ bản về nghĩa, bởi nó có sự khác biệt về chủ thể ban
hành chính sách, về mục đích tác động của chính sách và vấn đề mà chính sách hướng
tới giải quyết. Trên thế giới, đã có nhiều nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa về
chính sách công như:
Thomas Dye (năm 1972) đã định nghĩa “Chính sách công là bất kỳ những gì
nhà nước lựa chọn làm” [17, tr.47].
William Jenkins (năm 1978) đưa ra định nghĩa: “CSC là một tập hợp các quyết
định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền

11


với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó” [17,
tr.48]. Theo ông, CSC là một quá trình chứ không chỉ đơn giản là một sự lựa chọn;
đồng thời, định nghĩa này cũng cho thấy một cách rõ ràng CSC là “một tập hợp các
quyết định có liên quan với nhau”, và xem quá trình chính sách là hành vi định hướng
mục tiêu của nhà nước. Theo giác độ này, có thể hiểu các chính sách công là các quyết
định do nhà nước ban hành để xác định mục tiêu và các phương tiện (hay giải pháp) để
đạt được mục tiêu đó.
Guy Peter (năm 1990) cho rằng: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của
nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân” [30,

tr.41]. Ông đã bổ sung thêm một khía khía cạnh quan trọng của CSC, đó là tác động
của CSC đến đời sống của mọi người dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động lên
một cá nhân hoặc một tổ chức cụ thể. Có thể hiểu, chính sách công hướng tới giải
quyết những vấn đề công và việc giải quyết những vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến một
hoặc nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội.
Tác giả Đỗ Phú Hải đã định nghĩa CSC như sau: “Chính sách công là một tập
hợp quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải
pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã
xác định” [16, tr.12].
Tác giả Nguyễn Hữu Hải đã đưa ra khái niệm về CSC như sau: “Chính sách công
là kết quả ý chí chính trị của Nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định
có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng, mục tiêu và cách thức giải quyết
những vấn đề công trong xã hội” [17, tr.51]. Theo tác giả, khái niệm này vừa thể hiện
đặc trưng của CSC là do Nhà nước chủ động xây dựng để tác động trực tiếp lên các
đối tượng quản lý một các tương đối ổn định, cho thấy bản chất của CSC là công cụ
định hướng cho hành vi của các cá nhân, tổ chức phù hợp với thái độ chính trị của nhà
nước trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong xã hội.
Chính sách văn hóa:
Theo UNESCO, Chính sách văn hóa là tổng thể các nguyên tắc hoạt động quyết
định các cách thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân
sách của Nhà nước dùng làm cơ sở cho hoạt động văn hóa [34]. Chính sách văn hóa là
12


một bộ phận của chính sách công, chính sách văn hóa cũng chỉ có thể ra đời khi có nhà
nước. Tuy nhiên, cũng như chính sách công, thuật ngữ “chính sách văn hóa” ra đời rất
muộn, phải đến những năm nửa sau thế kỷ XX. Năm 1967, trong Hội nghị bàn tròn,
các chuyên gia văn hóa tại Manaco đã đưa ra một quan niệm về chính sách văn hóa
như sau: Chính sách văn hóa là một tổng thể những thực hành xã hội hữu thức và có
suy tính kỹ về những can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động văn hóa nhằm vào

việc đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, bằng cách sử dụng tối ưu tất cả những
nguồn vật chất và nhân lực mà một xã hội nào đó sắp đặt vào một thời điểm thích hợp.
Chính sách văn hóa “là hệ thống các nguyên tắc, các thực hành của nhà nước
trong lĩnh vực văn hóa nhằm phát triển và quản lý thực tiễn đời sống văn hóa theo
những quan điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh
thần sẵn có của xã hội” [6, tr.21].
1.1.1.2. Khái niệm “di tích LS-VH” và “thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị các di tích LS-VH”
Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
khoá X kỳ họp thứ 9 thông qua đã khẳng định: Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của Di sản văn hoá nhân loại, có
vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. [9, tr.17].
Điều 1 Luật Di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) ghi rõ: “Di sản văn
hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh
thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua
thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [9, tr.17].
Tại Điều 4, Chương 1, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) ghi rõ
Di sản văn hóa vật thể là “sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao
gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [9,
tr.18].
Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học [9,
tr.48].
13


Di tích LS-VH phải có một trong các tiêu chí: Công trình xây dựng, địa điểm gắn
với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu của quốc gia hoặc của địa phương; Công trình
xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân

vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc của đại phương
trong các thời kỳ lịch sử; Địa điểm khảo cổ tiêu biểu; Công trình kiến trúc nghệ thuật,
quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho
một hoặc nhiều giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật. Tại Điều 5 của Luật di sản
văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009), quyền sở hữu đối với các di sản văn hóa được
xác định theo pháp luật chung là Bộ luật Dân sự, các quy định khác của pháp luật có
liên quan và theo luật chuyên ngành là Luật Di sản văn hóa [9, tr.48-49].
Nói đến bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH, có nhiều khái niệm, định
nghĩa về thuật ngữ “bảo tồn” và “phát huy” nhưng để làm rõ hơn khái niệm về bảo tồn
và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa, ta có thể hiểu như sau: bảo tồn di sản
(heritage preservation) được hiểu như là các nỗ lực nhằm bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại
của di sản theo dạng thức vốn có của nó. Phát huy di sản (heritage promotion) có
nghĩa là những hành động nhằm đưa di sản văn hóa vào trong thực hiễn xã hội, coi đó
như là nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại
những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hóa
đối với sự phát triển của xã hội.
Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH là một bộ phận của
chính sách văn hóa, chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH đã được
cụ thể hóa ở nhiều loại văn bản như: Văn kiện của các kỳ đại hội Đảng, Nghị quyết
các hội nghị Trung ương Đảng, Hiến pháp, Chiến lược phát triển văn hóa, Luật di sản
văn hóa và các Thông tư, Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật di sản văn hóa.
Tổ chức thực hiện chính sách công là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể
trong chính sách thành hiện thực với đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng.
[37, tr.1].
Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa là
triển khai thực hiện Luật di sản văn hóa, Hiến pháp, các Nghị định của Chính phủ, các
Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật và các Nghị định bằng những hoạt động thiết thực
14



hiện bảo tồn và giữ gìn, phát huy giá trị to lớn của các di tích lịch sử - văn hóa nhằm
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân; nhu cầu nghiên cứu,
tham quan du lịch của khách trong, ngoài nước, tạo nên móng vững bền góp phần xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo đúng hướng, đường
lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích
lịch sử - văn hóa
Việc ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LSVH cũng cần phải phù hợp với mục tiêu đặt ra là phải gắn di tích với đời sống đương
đại, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ mục tiêu phát triển, nhất là
phát triển du lịch bền vững và tăng cường giao lưu văn hóa trong quá trình hội nhập
quốc tế. Di sản văn hóa đã được xác định là bộ phận quan trọng cấu thành môi trường
sống của con người. Di sản văn hóa là loại tài sản quý giá không thể tái sinh và không
thể thay thế nhưng rất dễ bị biến dạng do tác động của các yếu tố ngoại cảnh (khí hậu,
thời tiết, thiên tai, chiến tranh, sự phát triển kinh tế một cách ồ ạt, sự khai thác không
có sự kiểm soát chặt chẽ, việc bảo tồn, trùng tu thiếu chuyên nghiệp không theo đúng
những chuẩn mực khoa học v.v….) [4].
Hiện nay, việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH
dựa trên nhiều quan điểm khác nhau. Bàn về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di tích
LS-VH, trước tiên cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước thể hiện qua các
Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng các khóa IX, X, XI, XII, đặc biệt là Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết đã khẳng định nhiệm vụ bảo tồn di sản văn hóa
trong bối cảnh mới ở nước ta như sau: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa
mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống (bác học và dân gian) văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa
vật thể và phi vật thể”. Bảo tồn di sản văn hóa phải gắn liền với phát triển bền vững
nghĩa là hướng tới sự phát triển lâu dài và liên tục mà không làm ảnh hưởng, tổn hại và
suy giảm môi trường thiên nhiên cũng như di sản văn hóa. Tăng trưởng kinh tế phải
song song với việc quan tâm duy trì, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn và xây
15



dựng môi trường văn hóa – xã hội lành mạnh, bảo tồn di sản văn hóa là thúc đẩy mà
không cản trở các mục tiêu phát triển. Hơn nữa còn phải tạo ra điều kiện để di sản của
quá khứ và hiện tại trở thành nền tảng tinh thần cho phát triển trong tương lai. Các di
tích LS-VH phải được bảo tồn đồng bộ theo đúng các nguyên tắc khoa học chuyên
ngành: bảo vệ pháp lý và khoa học, bảo vệ về mặt vật chất và kỹ thuật. Các di tích LSVH phải được sử dụng và phát huy giá trị phục vụ nhu cầu hiện đại do xã hội đề ra.
Nhà nước đã xác định rõ các đối tượng và mục tiêu cần được ưu tiên đầu tư ngân sách
nhà nước và huy động nguồn lực xã hộ cho việc tu bổ, tôn tạo gắn với phát triển du
lịch [6, tr.8-11]. Việc bảo tồn phải luôn gắn với nhu cầu sử dụng và phát huy giá trị
của di tích. Các di tích LS-VH được duy trì tu bổ để tham gia trực tiếp vào nhu cầu đa
dạng của đời sống xã hội như: giáo dục truyền thống, nhu cầu về tôn giáo tín ngưỡng,
các hoạt động văn hóa, phát triển du lịch, giao lưu quốc tế, tạo nguồn thu....
Có hai quan điểm tương ứng với ba mô hình chung nhất trên thế giới về bảo tồn
là: Bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa.
- Quan điểm bảo tồn nguyên vẹn
Theo Gregory J.Ashworth, quan điểm bảo tồn nguyên vẹn được phát triển đầu tiên
từ những năm 50 của thế kỷ XIX. Quan điểm này được khá nhiều học giả ủng hộ, đặc
biệt các nhà bảo tồn, bảo tàng trong lĩnh vực di sản văn hóa. Quan điểm này gần như đã
đóng vai trò chủ đạo trong cách thức quản lý. Những người theo quan điểm Bảo tồn
nguyên vẹn cho rằng, những sản phẩm của quá khứ, nên được bảo vệ một cách nguyên
vẹn, như nó vốn có, cố gắng phục hồi nguyên gốc các di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể cũng như cố gắng cách ly di sản khỏi môi trường xã hội đương đại [46].
Họ cho rằng, mỗi di sản chứa đựng những giá trị văn hóa - xã hội nhất định mà
không phải lúc nào thế hệ hiện tại có thể hiểu biết một cách cụ thể để có thể phát huy
những giá trị ấy một cách thích hợp. Hơn nữa, những giá trị văn hóa ấy luôn biến đổi
theo thời gian do những tác động của xã hội hiện tại và sẽ tạo nên những lớp văn hóa
khác không trùng nghĩa với lớp văn hóa mà thế hệ trước chuyển giao cho thế hệ sau, vì
thế, có thể làm cho các thế hệ sau nữa không thể truy nguyên được những giá trị di sản
đang tồn tại. Chính vì như vậy, những người theo quan điểm này cho rằng, do chúng ta

chưa có đủ thông tin, trình độ hiểu biết để có thể lý giải giá trị của các di sản văn hóa,
16


chúng ta nên giữ nguyên trạng những di sản này để khi có điều kiện, các thế hệ tiếp
nối có thể xử lý, giải thích và tìm cách kế thừa, phát huy di sản một cách tốt hơn.
- Quan điểm bảo tồn kế thừa
Với quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa thì được các học giả nước ngoài hiện
nay quan tâm nhiều hơn và là một xu thế khá phổ biến khi bàn đến di sản. Có thể kể
đến như Alfrey, Putnam, Ashworth và P.J. Larkham xem di sản như một ngành công
nghiệp và cần phải có cách thức quản lý di sản tương tự với cách thức quản lý của một
ngành công nghiệp văn hóa với những logic quản lý đặc biệt, phù hợp với tính đặc thù
của các di sản. Hoặc các nhà nghiên cứu Anh, Mỹ như Boniface, Fowler, Prentice,…
cho rằng không thể không đề cập đến phát triển du lịch trong vấn đề bảo tồn và phát
huy di sản. Cách tiếp cận của các nhà khoa học này sống động hơn, quan tâm di sản
văn hóa để phát triển du lịch, để khẳng định tính đa dạng trong sáng tạo của con người.
Còn các tác giả như Corner và Harvey cũng cho rằng việc quản lý di sản cần đặt dưới
một cách tiếp cận toàn cầu hóa. Ngoài ra, các tác giả như Moore và Caulton cũng cho
rằng cần quan tâm làm thế nào lưu giữ được các di sản văn hóa thông qua cách tiếp
cận mới và phương tiện kỹ thuật mới [33].
Nhìn chung, quan điểm lý thuyết này dựa trên cơ sở mỗi di sản cần phải được thực
hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời gian và không gian cụ thể. Khi di sản ấy tồn
tại ở thời gian và không gian hiện tại, di sản ấy cần phát huy giá trị văn hóa - xã hội phù
hợp với xã hội hiện nay và phải loại bỏ đi những gì không phù hợp với xã hội ấy.
Quan điểm thứ nhất muốn giữ gìn các sản phẩm văn hóa cần được bảo vệ trong
môi trường khép kín để tránh mọi tác động bên ngoài làm phương hại đến chúng.
Khuynh hướng này mang lại một số kết quả rất đáng quan tâm. Nhờ các hoạt động bảo
tồn đó, trong nhiều năm qua, chúng ta đã lưu giữ được nhiều sắc thái văn hóa dân tộc.
Ngược lại, quan điểm thứ hai là quan điểm thả nổi. Sản phẩm văn hóa nào có sức sống
mãnh liệt, có giá trị, có nền tảng vững chắc do được chất lọc, chưng cất, được thử

thách qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử sẽ có nhiều cơ hội và lợi thế tự khẳng
định mình nhiều hơn. Điều đó phụ thuộc vào các tiêu chí và hệ giá trị. Bởi vậy, khi
chúng ta sử dụng hệ giá trị hôm nay làm thước đo sự thay đổi các sản phẩm văn hóa
truyền thống, khuynh hướng thả nổi sẽ đẩy nhanh quá trình làm biến dạng các tiêu chí
17


và chuẩn mực vốn đã được định hình từ lâu. Những sản phẩm văn hóa truyền thống
tuy mang đậm nét đặc thù nhưng khi đặt trong hệ quy chiếu mới nếu không được điều
chỉnh sẽ khó có cơ hội tồn tại lâu dài [33].
Bỏ qua những tranh cãi xung quanh quan điểm bảo tồn nguyên vẹn hay bảo tồn
trên cơ sở kế thừa, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra quan điểm tiếp cận thứ ba biện
chứng hơn đó là:
- Quan điểm bảo tồn - phát triển
Quan điểm này không bận tâm vào việc tranh cãi nên bảo tồn y nguyên như thế
nào, nên kế thừa cái gì từ quá khứ mà đặt trọng tâm vào việc, làm thế nào để di sản
sống và phát huy được tác dụng trong đời sống đương đại. Theo cách tiếp cận này,
người ta coi di sản là sản phẩm của thời hiện tại, phát triển nhằm mục đích đáp ứng
nhu cầu và đòi hỏi của hiện tại và được định hình bởi yêu cầu ấy.
Bảo tồn là một nhân tố cần thiết của phát triển, phát triển tạo nguồn lực cho bảo
tồn, bảo tồn và phát triển là nhiệm vụ thiết yếu của mội quốc gia. Đảm bảo mối quan
hệ hữu cơ giữa bảo tồn và phát triển là cách ứng xử thông minh của thời đại [47].
Từ thực tiễn và những bài học có tính phổ quát trên phạm vi toàn thế giới,
UNESCO, ICOMOS đã ban hành nhiều công ước, hiến chương trong đó có nêu những
nguyên tắc cơ bản để giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển như Hiến
chương về bảo vệ thành phố và đô thị lịch sử: ''việc bảo vệ các thành phố lịch sử và
các khu đô thị'' cần được hiểu là những bước cần thiết để bảo vệ, bảo tồn và trùng tu
những thành phố và khu vực như thế cũng như là để phát triển và thích ứng những
thành phố, khu vực đó vào đời sống đương đại”, “những chức năng mới và các mạng
kết cấu hạ tầng do đời sống đương đại đòi hỏi phải thích hợp với đặc trưng của thành

phố lịch sử” [47]. Hiến chương cũng nêu rõ việc đưa các yếu tố đương đại vào mà hài
hòa đước với tổng thể khung cảnh là có thể chấp nhận, bởi vì các yếu tố mới đó có thể
góp phần làm cho khư vực thêm phong phú.
Thực hiện bảo tồn và phát huy giá trị di tích LS-VH trong giai đoạn hiện nay đòi
hỏi có sự sáng tạo không ngừng nghỉ và khả năng linh hoạt trong việc vận dụng các
nguyên tắc khoa học để lựa chọn phương án xử lý thích hợp cho từng di tích cụ thể,
tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và tự nhiên, nét đặc thù và các mặt giá trị tiêu biểu của
18


các di tích, phải lựa chọn để bảo tồn những gì phù hợp với thời đại. Bảo tồn di tích LSVH phải đi kèm với khai thác, phát huy giá trị của nó trong đời sống và phát triển của
xã hội. Việc ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích
LS-VH là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Thực hiện tốt chính sách bảo
tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH sẽ đem lại những hiệu quả thiết thực cho phát
triển đất nước.
1.1.3. Vai trò của việc thực hiện thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị các di tích lịch sử - văn hóa
Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH là việc triển
khai thực hiện Luật di sản văn hóa, Hiến pháp, các Nghị định của Chính phủ, các
Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật và các Nghị định bằng những hoạt động thiết thực
hiện bảo tồn và giữ gìn, phát huy giá trị to lớn của các di tích LS-VH nhằm đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân; nhu cầu nghiên cứu, tham
quan du lịch của khách trong, ngoài nước, tạo nên móng vững bền góp phần xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo đúng hướng, đường lối,
chủ trương của Đảng và Nhà nước. Hoạt động bảo tồn di tích đã trở thành một hoạt
động không thể thiếu của xã hội văn minh, hiện đại. Bảo tồn với tư cách là một bộ
môn khoa học hoạt động với mục đích giữ gìn, bảo lưu các tài sản văn hóa có giá trị
của quá khứ. Bảo tồn di tích góp phần nuôi dưỡng cuộc sống đương đại, đặc biệt là
trong lĩnh vực văn hóa tinh thần lưu truyền từ đời này sang đời khác, góp phần quan
trọng trong sự phát triển bền vững [42].

Việc thực hiện thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH
có vai trò quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong chu trình chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị các di tích LS-VH. Đây là bước thực hiện hóa chính sách trong đời sống xã hội.
Để có được một chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH tốt, các nhà
hoạch định phải trải qua quá trình nghiên cứu, khảo sát kỹ càng, công phu. Đặc biệt,
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH chỉ có ý nghĩa khi được đưa
vào thực hiện.
Tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH là giai
đoạn biến mục tiêu, ý đồ chính sách thành hiện thực. Việc thực hiện chính sách bảo
19


×