Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Thực hiện chính sách an sinh xã hội từ thực tiễn thành phố hội an, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.24 KB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ NHƢ LAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ NHƢ LAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 834.04.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN ĐỨC VINH

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực hiện chính sách an
sinh xã hội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” là kết quả của quá
trình học tập, nghiên cứu khoa học của bản thân. Các số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố. Các thông tin trích dẫn
trong luận văn được chỉ rõ xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố. Tác
giả xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình./.

Học viên

Võ Thị Nhƣ Lan


LỜI CẢM ƠN

Qua quá trình học tập và nghiên cứu, được sự hướng dẫn, giúp đỡ của quý
thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và người thân, luận văn thạc sĩ chính sách công với đề
tài “Thực hiện chính sách an sinh xã hội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam” đã hoàn thành.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn Đức Vinh
đã hướng dẫn tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm. Sự giúp đỡ của thầy đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo ở Học viện Khoa học xã hội đã
tận tình truyền đạt các kiến thức bổ ích trong suốt khóa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các anh chị đang công tác ở Thành ủy, UBND
thành phố, Phòng LĐ-TB&XH thành phố, các xã phường trên địa bàn thành phố đã
cho phép và tạo điều kiện trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu; sự giúp đỡ,
cung cấp dữ liệu của các tổ chức, cá nhân cho tôi trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện luận văn.
Luận văn này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, bản thân
rất mong nhận được sự góp ý.
Xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Võ Thị Nhƣ Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH AN SINH XÃ HỘI.......................................................................................12
1.1. Một số khái niệm ................................................................................................12
1.2. Nhu cầu, đặc điểm của an sinh xã hội ................................................................16
1.3. Ý nghĩa tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ................17
1.4. Chu trình chính sách ASXH ...............................................................................18
1.5. Cấu thành hệ thống các chính sách ASXH ........................................................19
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi chính sách ...................................20
1.7. Quan điểm, mục tiêu của Đảng và chính sách của Nhà nước về ASXH
của Việt Nam ...........................................................................................................21
1.8. Chính sách về ASXH trên lĩnh vực giảm nghèo và bảo trợ xã hội ở Việt
Nam ...........................................................................................................................26

CHƢƠNG 2. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TẠI THÀNH
PHỐ HỘI AN ...........................................................................................................43
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách ASXH tại thành
phố Hội An ................................................................................................................43
2.2. Quá trình thực hiện Chính sách ASXH ở thành phố Hội An .............................44
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Hội An..................50
CHƢƠNG 3. DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ
HỘI AN TRONG THỜI GIAN ĐẾN ....................................................................70
3.1. Dự báo những tác động ảnh hưởng đến thực hiện chính sách ASXH tại
thành phố Hội An trong thời gian tới ........................................................................70
3.2. Giải pháp chính sách giảm nghèo ......................................................................73
3.3. Giải pháp chính sách bảo trợ xã hội ...................................................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH

: An sinh xã hội

BCĐ

: Ban chỉ đạo

BHXH

: Bảo hiểm xã hội


BHYT

: Bảo hiểm y tế

BTXH

: Bảo trợ xã hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LĐ-TB&XH

: Lao động - Thương binh và Xã hội

NHCSXH

: Ngân hàng Chính sách xã hội

NKT

: Người khuyết tật

TCXH

: Trợ cấp xã hội

UBND


: Ủy ban nhân dân

UBMT

: Ủy ban Mặt trận


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng1.1. Mô hình khái quát hệ thống ASXH do ESCAP của một số nước trên thế
giới.............................................................................................................................25
Bảng 1.2: Nội dung xác định nghèo đa chiều ở Việt Nam .......................................30
Bảng 1.3: Hộ nghèo được nhận những hỗ trợ gì .......................................................32
Bảng 1.4: Chỉ tiêu cụ thể theo Nghị quyết số 31/NQ-HĐND tỉnh Quảng Nam .......33
Bảng 1.5: Chỉ tiêu cụ thể theo Nghị quyết số 13/NQ-HĐND tỉnh Quảng Nam .......34
Bảng 1.6: Chỉ tiêu cụ thể theo Quyết định 2511/QĐ-UBND tỉnh Quảng Nam........35
Bảng 1.7: Bảng trợ cấp và hệ số, mức quy định hiện hành.......................................39
Bảng 2.1: Ví dụ điển hình về hộ nghèo thuộc chính sách BTXH(1) ..........................51
Bảng 2.2: Kết quả miễn học phí cho học sinh nghèo của các năm ...........................52
Bảng 2.3: Kết quả hỗ trợ thẻ BHYT cho đối tượng nghèo, cận nghèo hằng năm ....52
Bảng 2.4: Kết quả giải ngân nguồn vốn vay hộ nghèo qua các năm ........................53
Bảng 2.5: Kết quả chi hỗ trợ tiền điện hộ nghèo các năm ........................................54
Bảng 2.6: Trợ cấp khó khăn và trợ cấp dịp Tết cho hộ nghèo, cận nghèo (từ 2010
đến 2017) ...................................................................................................................54
Bảng 2.7: Tổng hợp số nhà tạm hộ nghèo được hỗ trợ từ năm 2010 đến 2017 ........55
Bảng 2.8: Bảng xếp hạng kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo của tỉnh Quảng
Nam cuối năm 2017 ..................................................................................................56
Bảng 2.9: Số đối tượng BTXH được cấp thẻ BHYT từ năm 2010-2017 .................60
Bảng 2.10: Kết quả phỏng vấn mức độ hài lòng của người dân về chính sách
ASXH ........................................................................................................................65



DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Phát triển ngành du lịch ở khu phố cổ phường Minh An..........................87
Hình 2.2: Hội nghị trao sinh kế và khen thưởng biểu dương hộ thoát nghèo của
UBND thành phố Hội An năm 2014 .........................................................................87


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà những thành tựu khoa học kỹ thuật
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người (thời kỳ công nghiệp
4.0); do vậy đòi hỏi mọi quốc gia, mọi dân tộc cần phải xây dựng và hoàn thiện các
chính sách vì mục tiêu con người, lấy mục tiêu phục vụ con người làm trung tâm cho
sự phát triển bền vững. Điều đó cũng là một đòi hỏi khách quan của lịch sử; bởi vì
thành tựu khoa học công nghệ đi vào sản xuất sẽ làm thay đổi về chất và lượng của sức
sản xuất mới, tất yếu sẽ phân tầng xã hội, chênh lệch giàu nghèo ngày càng giản cách
xa hơn, chưa nói đến môi trường bị tác hại, điều kiện cách biệt về địa lý giữa các vùng
miền, tình hình thiên tai do biến đổi khí hậu ngày một khắc nghiệt, trình độ dân trí
khác nhau…Do đó, việc chăm lo giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội là vấn đề quan
trọng, bởi vì vấn đề an sinh xã hội thể hiện tính ưu việt của một chế độ, một nhà nước,
một chính thể mà con người luôn hướng tới. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội sẽ đem
lại sự bình yên trong cuộc sống của con người, hướng tới sự phát triển bền vững. Nhận
thức đúng về thời cơ, vận mệnh và thách thức cho trước mắt và lâu dài, Đảng đề ra
nhiều chủ trương và cùng với đó Nhà nước triển khai nhiều giải pháp để giảm phân
tầng xã hội bằng cách điều tiết các thu nhập, phân phối lại trong quá trình tích lũy
thặng dư của các thành phần kinh tế, từ đó các chính sách như giảm nghèo, trợ cấp xã
hội, ưu đãi người có công, trợ giúp đột xuất các hoàn cảnh không may trong cuộc
sống, … nhằm giúp cho họ có cuộc sống đảm bảo mức sống tối thiểu trong xã hội. Có
thể nói, trong nhiều năm qua Việt Nam đã được các tổ chức Quốc tế ghi nhận là một

quốc gia tích cực trong chương trình vì con người như Hội liên hiệp hữu nghị Việt
Nam, tổ chức lao động Quốc tế (ILO) ghi nhận…“An sinh xã hội (ASXH) là chính
sách cốt lõi quyết định sự phát triển ổn định và bền vững của một quốc gia, góp phần
giảm bất bình đẳng, giảm mức độ nghèo đói và tổn thương của người dân và cộng
đồng trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập. Mặc dù có nhiều cách
hiểu khác nhau về ASXH,... Chiến lược ASXH giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam
theo Viện Khoa học lao động và xã hội, 2009 đã nêu rõ: “An sinh xã hội là sự bảo đảm
1


mà xã hội cung cấp cho mọi thành viên trong xã hội thông qua việc thực thi hệ thống
các cơ chế, chính sách và biện pháp can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến
suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế” (Vũ Văn Phúc, 2012)” [57].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương khóa XI khẳng định: “Chính
sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh
và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển. Chính sách xã hội phải được đặc ngang
tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với
trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ” [24].
Đối với tỉnh Quảng Nam, ASXH luôn được Đảng bộ và chính quyền các cấp
quan tâm chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng
Nam lần thứ XXI đã chỉ rõ: Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Ở thành phố Hội An, ASXH luôn là vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài và cấp
bách, được Đảng bộ và chính quyền thành phố đặc biệt quan tâm, nội dung này được
đưa vào các nghị quyết của Đảng bộ và gần đây là Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành
phố lần thứ XVII, giai đoạn 2015-2020, đã chỉ rõ: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với
việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và
hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho tiến trình phát triển” [16].
Trong những năm qua, thành phố đã triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc và
hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ASXH. Ngoài những

chính sách ưu đãi của trung ương và tỉnh, thành phố đã huy động cả hệ thống chính trị
từ thành phố đến các xã, phường và các tổ chức, cá nhân tham gia tích cực vào thực
hiện chính sách ASXH bằng những việc làm cụ thể như: huy động bảo đảm nguồn lực
tạo điều kiện cho hộ chính sách, hộ nghèo, đối tượng BTXH từng bước ổn định cuộc
sống, hỗ trợ phương tiện làm ăn, học bổng, nhà ở, giới thiệu việc làm, cấp thẻ BHYT,
hỗ trợ chi phí học tập và các điều kiện lao động, sinh hoạt và nâng cao thu nhập, nâng
cao chất lượng cuộc sống; vận động, đóng góp xây dựng các quỹ hỗ trợ người nghèo,
đối tượng khó khăn, yếu thế, khuyết tật, cao tuổi, trẻ em; các đối tượng chính sách, các
gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đau ốm thường xuyên, các trường hợp tai nạn, các
hoàn cảnh bất hạnh, hậu quả từ thiên tai…. Từ những việc làm thiết thực, cụ thể nêu
2


trên đã tác động tích cực, trực tiếp đến các đối tượng, đã giúp cho các đối tượng chính
sách nói riêng và người dân nói chung ổn định cuộc sống, tiếp tục củng cố niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn còn
một số hạn chế, tồn tại, số đối tượng bị bệnh hiểm nghèo bị bỏ sót; những người thuộc
hộ nghèo lại không đảm bảo tiêu chuẩn hộ nghèo; tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào nhà
nước của một bộ phân dân cư; chậm giải quyết chế độ cho đối tượng theo quy định.…
Vấn đề đặt ra cho việc thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố hiện nay là
làm sao để chính sách thực sự đi vào đời sống của người dân, góp phần đảm bảo công
bằng, tiến bộ và ổn định xã hội.
Xuất phát từ những lý giải trên, tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách an
sinh xã hội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn khóa học
với mong muốn thông qua thực tiễn việc đánh giá, phân tích những thành tựu, cũng
như những tồn tại hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện, nhằm giúp cho cấp có
thẩm quyền nhìn nhận bổ sung, hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
ASXH trong cả nước nói chung và thành phố Hội An nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Các công trình nghiên cứu về chính sách, chính sách công (CSC) trong nước

Tác giả Lê Chi Mai trong công trình Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy
trình chính sách đã có những phân tích bước đầu, giới thiệu những vấn đề lý luận cơ
bản về khoa học chính sách, làm rõ nhận thức về chính sách và các giai đoạn của quy
trình chính sách trong thực tiễn của Việt Nam [42].
Trong tác phẩm Khoa học Chính sách phát hành năm 2011[14], tác giả Vũ Cao
Đàm đã đưa ra những cặp khái niệm mới về mục tiêu công bố và mục tiêu ngầm định
của chính sách, tác động dương tính và tác động âm tính của chính sách, tác động
ngoại biên và chuỗi tác động kế tiếp của chính sách, xung đột và bất bình đẳng xã hội
do chính sách, paradigm (khung mẫu) và kiến tạo xã hội của chính sách… Cùng với
những cặp khái niệm này là quy trình/phương pháp phân tích, hoạch định, thực thi và
đánh giá chính sách được tiếp cận dưới các hướng tiếp cận hiện đại của khoa học.
Ngoài ra, còn có các bài viết công bố trên các tạp chí như Nghiên cứu đánh giá
chính sách của Đặng Ngọc Dinh [13 tr.57-62]; Đánh giá CSC ở Việt Nam - Vấn đề và
3


giải pháp của Nguyễn Đăng Thành [61, tr.68-72]; Đỗ Phú Hải với Khái niệm CSC
[32, tr.103-105]… đã đưa ra các khái niệm, đặc điểm, chu trình CSC và việc đánh giá
CSC, tiêu chí của đánh giá CSC.
- Các công trình nghiên cứu về Chính sách ASXH
“Giáo trình nhập môn về an sinh xã hội”của Nguyễn Hải Hữu [29];“Hệ thống
an sinh xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Hải Hữu [30];“Giáo trình Luật an sinh xã hội”
của Nguyễn Thị Kim Phụng [58];“Giáo trình Cứu trợ xã hội” của Trường Đại học Lao
động [68]. Các giáo trình đã trình bày quan niệm về ASXH, đặc điểm và cấu trúc an
sinh xã hội, phương pháp đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống chính sách
ASXH, vai trò và tầm quan trọng của xây dựng và thực thi chính sách ASXH.“Thuật
ngữ an sinh xã hội” của Viện khoa học Lao động và xã hội (ILSSA)[12], cuốn sách đã
nêu khá toàn diện các thuật ngữ, khái niệm về những cấu phần liên quan đến an sinh xã
hội.
Tác giả Vũ Văn Phúc tạp chí Cộng sản đã viết bài“An sinh xã hội ở Việt Nam

hướng tới năm 2020”[57]. Bài viết nêu những khái niệm, cấu trúc hệ thống ASXH,
những hạn chế, thách thức trong việc thực hiện chính sách ASXH hiện nay, đồng thời
đề ra các quan điểm, mục tiêu, yêu cầu các giải pháp nhằm đổi mới hoàn thiện hệ
thống và 4 vấn đề cần bàn luận: (1)Thành tố nào là quan trọng trong hệ thống ASXH,
(2)xây dựng và hoàn thiện chính sách thì cần tập trung hơn cho vấn đề tham vấn chính
sách từ các bên liên quan, nhất là từ đối tượng thụ hưởng để có cái nhìn đúng thực tế
nhằm đưa ra chính sách phù hợp nhất. (3)Tập trung đánh giá tổng kết, đây là vấn đề
quan trọng để qua đó đánh giá những hạn chế và có giải pháp khắc phục. Và cuối cùng
là những quan điểm định hướng lớn, những giải pháp đột phá, khả thi cần thực hiện
trong quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở nước ta hiện nay và đến
năm 2020.
Tác giả Đặng Nguyên Anh đã có bài viết “An sinh xã hội ở Việt Nam: Thực
trạng và đề xuất mô hình, giải pháp”[1]. Bài viết đã đánh giá thực trạng, tồn tại, thách
thức và định hướng giải pháp như giảm bớt sự bao cấp của nhà nước, hội nhập gần
hơn với thế giới bên ngoài, hướng vào mục tiêu ổn định mức sống, tránh không rơi vào
tình trạng bần cùng hóa, kể cả trong hoàn cảnh rủi ro bất thường, khắc phục nguy cơ
4


tái nghèo, ổn định cuộc sống đối với những nhóm cư dân dễ bị tổn thương, xây dựng
và sử dụng hiệu quả các quỹ bảo trợ cho người dân, đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản
như nhà ở, giáo dục, y tế công cộng cho người nghèo, cận nghèo và nhóm thu nhập
thấp. Đẩy mạnh sự tham gia của người dân về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp bằng việc nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm. Kết nối hiệu quả
các chương trình, dự án giảm nghèo, khắc phục tình trạng chồng chéo, khó quản lý,
lãng phí nguồn lực trong công tác xoá đói, giảm nghèo và trợ giúp xã hội hiện nay; bổ
sung chính sách cho vay ưu đãi hơn. Theo tác giả bài viết đã nêu khá toàn diện những
vấn đề về ASXH, tuy nhiên những vấn đề được đề xuất chỉ mang tính chung chung
mang tính chiến lược, chưa đi vào những nội dung cụ thể xuất phát từ thực tiễn.
Tác giả Nguyễn Trọng Đàm có bài viết “Thực trạng thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội và giải pháp đổi mới giai đoạn tới”[15]. Bên cạnh việc đánh giá chính
sách trợ giúp xã hội trong giai đoạn 2011-2015, tác giả đã đề xuất 6 giải pháp trong
gian tới (2016-2020) để chính sách BTXH ngày càng mang lại hiệu quả cao hơn. Thứ
nhất: Phải chuyển mạnh mẽ về quan điểm coi trợ giúp xã hội từ hoạt động nhân đạo
sang quan điểm bảo đảm thực hiện quyền cho đối tượng hưởng trợ giúp xã hội. Thứ hai:
Từng bước nâng cao chất lượng chính sách, bảo đảm sự tương quan với các chính sách
xã hội khác như chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Thứ
ba: Quá trình phát triển của chính sách trợ giúp xã hội phải gắn liền với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Trợ giúp xã hội là một bộ phận của chính sách kinh tế - xã hội, do
vậy quá trình hoàn thiện và phát triển phải dựa trên cơ sở của quá trình phát triển kinh tế
và nhất là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ tư: Chính sách trợ
giúp xã hội phải gắn liền với quá trình cải cách thể chế hành chính Nhà nước trên tất cả
phương diện. Thứ năm: Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở cung cấp dịch vụ trợ
giúp xã hội. Và cuối cùng là từng bước hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin
trong giải quyết chính sách về an sinh xã hội, đáp ứng nhu cầu thông tin cho các cấp
quản lý nhanh nhạy, kịp thời, chính xác, góp phần cải cách hành chính trong trợ giúp
xã hội.
Trong Luận án tiến sĩ của tác giả Mai Ngọc Anh, trường Đại Học Kinh tế quốc
dân với Đề tài: An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở
5


Việt Nam [2]. Luận án đã đề cập đến các nhân tố, điều kiện xây dựng và hoàn thiện hệ
thống ASXH đối với nông dân. Từ đó làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị
trường ngày một đa dạng.
- Luận văn thạc sĩ của tác gỉa Nguyễn Chương Phát, trường Đại học kinh tế và
Quản trị Kinh doanh với Đề tài: “Ảnh hưởng của hệ thống an sinh xã hội tới vấn đề
nghèo đói hộ nông dân huyện Văn Chấn”[48], tác giả đã đưa ra các kiến nghị, giải
pháp toàn diện nhằm xây dựng hệ thống ASXH đảm bảo giữa tăng trưởng kinh tế với

xóa đói giảm nghèo.
“Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính
sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Chiêu [9] đã đề cập đến một số vấn
đề về lý luận chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong gần 30 năm thực hiện đường
lối đổi mới; vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam
hiện nay, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò của nhà nước
trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam.
“Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp” của Lê Quốc Lý [41] đã
phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH
thông qua việc đánh giá nhóm cán bộ thực thi và đối tượng thụ hưởng chính sách; trên
cơ sở mục tiêu, quan điểm thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2020 tác
giả cuốn sách đã nêu lên các nhóm giải pháp khắc phục những trở ngại trong thực thi
chính sách ASXH ở nước ta (thiết kế và thực thi chính sách ASXH, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống luật pháp, hoàn thiện bộ máy thực thi chính sách ASXH, nâng cao nhận
thức của đối tượng thụ hưởng về chính sách ASXH).
“Bảo đảm an sinh xã hội dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng” của Dương Văn
Thắng [62]. Các bài viết nói trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung, vấn đề
thực tiễn về ASXH ở nước ta, xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam
trên quan điểm các nghị quyết chuyên đề của Đảng về ASXH.
Ngoài ra còn có các ấn phẩm sách, tạp chí, các kỷ yếu của các cuộc hội thảo sau
đây cũng phần nào làm sáng tỏ các nội dung liên quan đến lĩnh vực ASXH:“An sinh
xã hội ở Việt Nam: Chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới” do Đại học Kinh tế Quốc
6


dân [67]; Hội thảo“Xây dựng Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020” của
Bộ LĐ-TB&XH và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Cộng hoà Liên bang Đức (GTZ) [6];
“An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Ban Tuyên giáo
Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Bộ LĐ-TB&XH, Hội đồng khoa học các cơ quan
Đảng Trung ương [5]... Qua các hội thảo này, cũng đã có nhiều phát hiện và tiếp cận

mới trong xây dựng và thực hiện chính sách ASXH cũng như vai trò của Nhà nước
trong thực hiện chính sách ASXH, thực trạng và giải pháp thực thi chính sách ASXH ở
Việt Nam.
Tài liệu nghiên cứu chính sách ASXH ở một số nước và tài liệu nước ngoài
như: “Bảo đảm xã hội trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản hiện nay” của Trần Thị
Nhung [47] đã phân tích được khái niệm và lịch sử phát triển của hệ thống đảm bảo an
sinh xã hội của Nhật Bản. Trên cơ sở đó, tác giả cung cấp thông tin một cách đầy đủ
về đặc điểm, các loại hình, vai trò, chức năng của Nhà nước cũng như những khó
khăn, thách thức trong việc thực hiện các chế độ đảm bảo ASXH của nhà nước như:
Chế độ bảo đảm thu nhập, bảo hiểm y tế, bảo hiểm chăm sóc sức khỏe và trợ giúp xã
hội.
Tác giả Trịnh Cường có bài viết “Vài nét về chính sách an sinh xã hội ở Phần
Lan” [70], đã có những khái quát lớn về chính sách an sinh xã hội của Phần Lan. Với
mục tiêu hướng tới hệ thống ASXH “bao bọc” người dân. Không giống như hệ thống
ASXH của Mỹ và phần lớn các nước Tây Âu, hệ thống ASXH ở Phần Lan bao bọc
toàn bộ dân cư và đặc biệt, không giới hạn đối với những nhóm người yếu thế không
có khả năng tự chăm sóc bản thân mình. Bài viết “Mô hình phát triển xã hội của Châu
Âu”[3] của nhà xã hội học Phần Lan Erisk Allardt là khá toàn diện, hệ thống an sinh
xã hội (giáo dục, y tế, phúc lợi) của Phần Lan được hình thành rất sớm và ngày càng
được bổ sung, hoàn chỉnh. Các chính sách an sinh của Phần Lan tập trung vấn đề như:
lương hưu; bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp gia đình, dịch vụ chăm sóc
trẻ em, dịch vụ cho người khuyết tật, hệ thống y tế. Tuy nhiên, khi so sánh mô hình ở
các nước Châu Âu thì các nước Bắc Âu (trong đó có Phần Lan) vẫn mang tính bền
vững và có nhiều ưu việt nhất vì thu được những kết quả tốt nhất trên các khía cạnh:
giảm thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo, đầu tư cho con người và chống thâm hụt ngân
7


sách. Trong khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách là vấn đề đáng báo động của nhiều nước
Châu Âu, thì nhờ chính sách đánh thuế cao và đầu tư hiệu quả cho giáo dục, trẻ em và

thị trường lao động, thâm hụt ngân sách của các nước Bắc Âu luôn luôn thấp hơn các
mô hình xã hội Châu Âu khác. Đó là thành công của chính sách phúc lợi toàn lấy con
người là trọng tâm của sự phát triển.
“Social security today and tomorrow”(An sinh xã hội hôm nay và ngày mai) của
tác giả Robert M.Ball [59] đã đề cập đến quan niệm ASXH và đề cập đến các chương
trình mà chính phủ các nước đặc ra với mục đích hàng đầu là giúp đỡ những người dân
gặp rủi ro dẫn đến việc bị mất hoặc giảm sút thu nhập; chế độ ASXH được xem như là
sự bảo vệ của nhà nước đối với người dân trước những rủi ro về xã hội.
"Social Security in Global Perspective" (An sinh xã hội trong viễn cảnh toàn
cầu) của tác giả John Dixon[38] đã đề cập đến nội dung các khái niệm về ASXH của
một quốc gia. Trong bài viết "Về bảo trợ xã hội và thúc đẩy xã hội: Thiết kế và triển khai
hệ thống an sinh hiệu quả" của nhóm tác giả M.Grosh, C.Ninno, E.Tesliuc và A.Ouerghi

đã đưa ra quan niệm về “mạng lưới an sinh xã hội vừa dùng để đỡ những người rơi từ trên
xuống về phương diện kinh tế trước khi họ rơi vào cảnh bần hàn, vừa trợ cấp hoặc cung cấp
một khoản thu nhập tối thiểu cho những người ở trạng thái nghèo thường xuyên, lâu dài
hơn"[27]; ASXH chỉ bao gồm hệ thống chính sách trợ giúp xã hội không có đóng góp

và nhắm đến đối tượng là người nghèo và người dễ bị tổn thương. Đồng thời, ASXH
cũng chỉ dừng lại ở những hoạt động chính thức của nhà nước mà không tính đến vai
trò của tư nhân, thị trường trong việc cung cấp các dịch vụ ASXH khác.
Theo các số liệu được công bố trong “Báo cáo An sinh xã hội thế giới 2017,
Tổng Giám đốc ILO Guy Ryder cho biết: Thiếu an sinh xã hội làm con người dễ bị tổn
thương bởi bệnh tật, nghèo đói, bất bình đẳng và bị tách rời khỏi xã hội. Không đảm
bảo quyền này cho 4 tỷ người là một rào cản đáng kể cho phát triển kinh tế và xã hội.
Trong khi nhiều quốc gia đã đạt được những bước tiến trong phát triển hệ thống an
sinh xã hội, vẫn cần nhiều nỗ lực hơn nữa để hiện thực hóa quyền an sinh xã hội cho
tất cả mọi người. Báo cáo khuyến nghị tăng chi tiêu công cho an sinh xã hội để mở
rộng bao phủ an sinh xã hội, đặc biệt ở các khu vực Châu Phi, Châu Á và các quốc gia
Ả Rập, nhằm cung cấp ít nhất một chế độ an sinh xã hội cho tất cả mọi người; nhấn


8


mạnh sự cần thiết phải mở rộng bao phủ an sinh xã hội đến người lao động trong khu
vực phi chính thức như là một cách để chính thức hóa và cải thiện điều kiện làm việc
của họ. Bà Isabel Ortiz, Giám đốc Chương trình An sinh xã hội của ILO cho biết nhiều
chính sách cắt giảm tài khóa ngắn hạn tiếp tục ảnh hưởng tích cực đến các nỗ lực phát
triển dài hạn. Các điều chỉnh tài khóa có tác động xã hội tiêu cực và làm nguy hại đến
tiến trình hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững.
Trên cơ sở các công trình đã nghiên cứu về ASXH, tác giả nhận thấy rằng,
chính sách ASXH ở từng nơi, từng quốc gia có những mặt tích cực nhằm mục đích
chăm lo đời sống người dân nhưng bên cạnh đó chính sách cũng bộc lộ hạn chế nhất
định như tư tưởng ỷ lại của người dân, trợ cấp tăng làm cho gánh nặng ngân sách lớn,
tình trạng dân số tăng tạo gánh nặng về giải quyết lao động việc làm, giáo dục, y tế,
chăm sóc sức khỏe…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách ASXH, luận văn sẽ tìm
hiểu thực trạng việc thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Hội An, phát
hiện những hạn chế, bất cập tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó, từ đó đề xuất
giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, là hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận về CSC, chính sách ASXH của
Việt Nam mà cụ thể là chính sách giảm nghèo và bảo trợ xã hội.
Thứ hai, là nghiên cứu thực trạng tình hình, cách thức và quá trình tổ chức thực
hiện chính sách,qua đó đánh giá, phân tích những hạn chế, bất cập trong quá trình thực
hiện trong giai đoạn từ năm 2010 đến cuối năm 2017 và định hướng trong thời gian tới.
Thứ ba, là dự báo những tác động ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách ASXH

và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách trong thời gian theo thực tế trên địa
bàn thành phố Hội An thời gian đến.

9


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lĩnh vực ASXH là một lĩnh vực rất rộng, đối tượng tác động là tất cả người
dân, bao trùm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội (thường xuyên và đột xuất), chính sách đối với
hộ nghèo, cận nghèo …. Ở luận văn này, tác giả không đi sâu nghiên cứu sự tác động
của tất cả các chính sách nói trên mà chỉ giới hạn trong các chính sách giảm nghèo
và chính sách bảo trợ xã hội, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trên 2 lĩnh
vực này.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách ASXH trong lĩnh vực giảm nghèo
và bảo trợ xã hội tại thành phố Hội An giai đoạn từ năm 2010 đến nay và đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện chính sách ASXH từ thực tiễn thành phố Hội An trong thời
gian tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về sách ASXH nói dung và chính sách giảm nghèo và bảo trợ xã hội nói
riêng, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm của địa phương khác để xem xét vấn đề
giảm nghèo và bảo trợ xã hội của thành phố Hội An.
Luận văn vận dụng cách tiếp cận liên ngành trên cơ sở phân tích vấn đề thực hiện
chính sách giảm nghèo và bảo trợ xã hội một cách khách quan, sát thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể của kinh tế học và xã hội học
như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh….
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận
Đóng góp bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về chính sách ASXH ở nước
ta hiện nay.

10


6.2.Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng tình hình thực hiện chính sách ASXH ở
thành phố Hội An, tiếp tục duy trì, phát huy những kết quả đã đạt được trên lĩnh vực an
sinh đối với đối tượng xã hội và đồng thời khuyến nghị một số giải pháp phù hợp để khắc
phục những hạn chế từ thực tiễn trong quá trình thực thi chính sách để chính sách thực sự
đến đúng đối tượng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ
cấu gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách an sinh xã hội
Chương 2. Thực hiện chính sách an sinh xã hội từ thực tiễn thành phố Hội An
Chương 3. Dự báo tình hình và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực thi
chính chính sách an sinh xã hội ở thành phố Hội An trong thời gian tới.

11


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Chính sách
Cho đến nay có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm chính sách,
mỗi khái niệm đều liên quan trực tiếp tới tính đặc thù của từng lĩnh vực, như: chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa… Mỗi khái niệm giúp người chuẩn bị quyết định chính
sách một hướng tư duy, dưới đây là một số định nghĩa khác nhau về chính sách:
Khái niệm khoa học chính sách được Lasswell đề cập lần đầu tiên từ năm
1951, với khái niệm khoa học chính sách được xem như là một phương pháp giải
quyết các vấn đề xã hội. Đến nay, khoa học chính sách đã có những phát triển mạnh
mẽ, trở thành một trong những nội dung trọng tâm của khoa học xã hội.
Tác giả Nguyễn Duy Gia, trong Đề tài khoa học có nêu khái niệm về chính
sách: “Mọi tổ chức, mọi cấp quản lý đều phải sử dụng các công cụ quản lý để tác động
lên đối tượng quản lý theo một cách thức nào đó nhằm đạt tới mục tiêu mong
muốn”[26, tr.6]. Tác giả Hoàng Phê trong Từ điển tiếng Việt “chính sách” được
hiểu là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào
đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…”[49, tr.157].
Các tác giả Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Lê Anh định nghĩa chính sách “là
những chủ trương thích ứng với các đặc điểm và điều kiện kinh tế - xã hội (KT-XH)
của từng giai đoạn phát triển và nhằm vào việc bảo đảm cho sự vận hành đúng
hướng và tích cực của cơ chế kinh tế” [71,tr.5].
Tác giả Đinh Dũng Sỹ: “Chính sách được hiểu là những tư tưởng, những
định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Còn chiến lược hay kế
hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là hình thức, là phương tiện để chuyển tải,
để thể hiện chính sách”[60].
Tóm lại, một khái niệm dễ hiểu về chính sách theo nhà chính trị học Mỹ 12


Theodore Lowi:“Chính sách là cái biểu hiện của chính trị”[64, tr.677].
1.1.2. Chính sách công
Thomas Dye cho rằng CSC là “tất cả những gì Nhà nước lựa chọn làm hoặc

không làm”[65, tr.1]. William Jenkins đưa ra định nghĩa: “CSC là một tập hợp các
quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị
gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu
đó”[43, tr.5]. Guy Peter cho rằng: “CSC là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có
ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”[28,tr.6]. Định
nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi CSC là nhà nước, đồng thời
nhấn mạnh một khía cạnh quan trọng của CSC, đó là tác động của CSC đến đời
sống của mọi người dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động lên một cá nhân
hoặc một tổ chức cụ thể.
Theo định nghĩa của Đặng Ngọc Lợi cho rằng: “Chính sách công là chính
sách của Nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ
phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước”[40].
- Chính sách công là thành tố của quản lý nhà nước, có thể được hiểu “là một
tập hợp biện pháp được thể chế hoá, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản
lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động
cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu
tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” (Vũ Cao Đàm,
Quản lý học đại cương, 1996).
- Chính sách công có thể được hiểu là tổng thể chương trình hành động của
Nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra và
bảo đảm cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.
1.1.3. An sinh xã hội
Theo quan điểm của một số tổ chức quốc tế, ASXH cũng có mức độ rộng,
hẹp và đối tượng hướng tới khác nhau. Theo Liên hiệp quốc, ASXH tiếp cận trên
quyền của người dân (Điều 25, Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948): “…Mọi

13



người dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức tối thiểu về sức khỏe và các
phúc lợi xã hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã
hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn
tật, góa phụ, tuổi già … hoặc các trường hợp bất khả kháng khác …”[37].
Theo cuốn“Cẩm nam an sinh xã hội”của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO)
cho rằng: “ASXH là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình
thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó
khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập
do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong. Cung
cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em”[63].

- Theo Điều 22 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền phát biểu rằng: ASXH là
mọi người, như một thành viên của xã hội, có quyền an sinh xã hội và được quyền thực
hiện, thông qua nỗ lực quốc gia và hợp tác quốc tế, phù hợp với tổ chức và các nguồn
lực của mỗi quốc gia, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa không thể thiếu cho nhân
phẩm của mình và sự phát triển tự do nhân cách của mình [69].
Ở Việt Nam, mặc dù lĩnh vực ASXH còn nhiều mới mẻ nhưng cũng đã dành
được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý nghiên cứu về vấn đề này.
Theo tác giả Nguyễn Văn Chiêu: “ASXH là sự an toàn của cuộc sống con người, từ
cá nhân đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực phát triển con người và xã hội.
ASXH là những đảm bảo cho con người tồn tại (sống) như một con người và phát
triển các sức mạnh bản chất người, tức là nhân tính trong hoạt động, trong đời sống
hiện thực của nó như một chủ thể mang nhân cách”[8]. Tác giả Phạm Xuân Nam lại
cho rằng để thấy hết được bản chất của ASXH, chúng ta cần phải tiếp cận theo cả
nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khái niệm này: Theo nghĩa rộng: ASXH là sự đảm bảo
thực hiện các quyền để con người được an bình; được tự do làm ăn, cư trú, di
chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ pháp luật; được học tập, có việc làm,
có nhà ở; được bảo đảm thu nhập để thỏa mản những nhu cầu thiết yếu khi gặp rủi
ro, tai nạn, tuổi già đảm bảo an ninh, an toàn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp: ASXH
là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện


14


pháp công cộng nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất
hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi thiên tai, đau ốm, thai sản, tai nạn lao động, thất
nghiệp, tàn tật, tuổi già, đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp y tế cho các gia
đình có con nhỏ, cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi … [45, tr.3].
Tóm lại, “An sinh xã hội là hệ thống các chính sách can thiệp của nhà nước
(bảo hiểm xã hội/ trợ giúp xã hội) và tư nhân (các chế độ không theo luật định hoặc tư
nhân) nhằm giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của
người dân và xã hội trước những rũi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm
ổn định, phát triển và công bằng xã hội” theo cuốn Thuật ngữ An sinh xã hội, của Viện
Khoa học Lao động và xã hội (ILSSA)[12].
1.1.4. Chính sách an sinh xã hội
Trong cuốn An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới năm 2020, tác giả Vũ Văn
Phúc cho rằng: “Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của nhà nước
nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an
toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội”[57,tr.14]. Tác giả
Nguyễn Văn Chiêu, trong cuốn Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước
trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam cho rằng: “Chính sách
ASXH là những biện pháp bảo vệ của nhà nước nhằm phòng ngừa, hạn chế và khắc
phục rủi ro cho các thành viên của mình khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do các
nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, già
cả không còn sức lao động hoặc vì nguyên nhân khách quan khác thông qua các
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, ưu đãi xã hội và
trợ giúp xã hội”[9, tr.18].
Tuy nhiên, chính sách ASXH không chỉ là sự bảo vệ, sự giúp đỡ mà còn thể
hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng đối với một bộ phận dân
cư. Chính vì vậy, chính sách ASXH có vị trí đặc biệt quan trọng trong chính sách xã

hội nói riêng và trong hệ thống chính sách bảo đảm xã hội nói chung. Chính sách
ASXH là phương tiện, công cụ nhằm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro đối
với các thành viên trong xã hội. Chính sách ASXH được ban hành là thực hiện

15


nghĩa vụ công dân và công bằng xã hội chứ không phải là sự “đền bù”, bởi lẽ không
ai mong muốn gặp phải những cản trở, khó khăn trong cuộc sống.
Tóm lại, khái niện chính sách ASXH chung nhất theo tác giả “là hệ thống
chủ trương, phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện
thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về
kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong, trợ giúp cho những người già
cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, những nạn nhân
chiến tranh, những người bị thiên tai địch họa…”. Mai Ngọc Cường trong Xây
dựng và hoàn thiện chính sách ASXH ở Việt Nam [10, tr.22-25].
1.2. Nhu cầu, đặc điểm của an sinh xã hội
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, con người không ngừng
tiến hành lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất nhằm duy trì sự sống và tồn
tại của mình. Nhu cầu được sống, được bảo vệ là nhu cầu tất yếu của con người,
tuy vậy, không phải lúc nào người lao động cũng đảm bảo chắc chắn duy trì
được việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định. Đó là những lúc gặp rủi ro
như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động dẫn đến bị mất hoặc giảm việc làm, giảm
thu nhập.v.v. Hơn nữa, hoạt động lao động sản xuất của con người không phải
lúc nào cũng thuận lợi vì còn bị phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, môi trường,
xã hội.v.v. Vì thế, sự cần thiết phải có các biện pháp phòng tránh và khắc phục
rủi ro đã trở thành một nhu cầu của con người.
Kinh tế thị trường làm cho các hoạt động kinh tế - xã hội năng động hơn,
người dân được phát huy khả năng của mình; đồng thời kinh tế thị trường tạo ra

những “rủi ro xã hội” và luôn tiềm ẩn những “rủi ro xã hội” mới làm tăng nhu
cầu ASXH. Kinh tế thị trường làm cho đời sống các tầng lớp dân cư thay đổi,
nhìn chung mức sống dân cư được tăng lên và cũng làm cho sự phân hóa giàu
nghèo tăng lên, điều này làm cho nhu cầu về chính sách ASXH cũng tăng.
Chính vì thế, một trong những nhu cầu xã hội hiện đại là bảo vệ sự an toàn cho
tất cả các thành viên trong xã hội trước các nguy cơ bị giảm sút hoặc bị mất

16


nguồn thu nhập trước các cú sốc về KT - XH hay chính là đảm bảo ASXH cho
người dân. Tuy nhiên, tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, tùy theo cách
tiếp cận, giải quyết vấn đề mà mỗi quốc gia có quan điểm, thể chế chính sách và
thể chế tổ chức cụ thể về hệ thống ASXH nhằm thực hiện chức năng bảo vệ các
thành viên trong xã hội của mình.
1.3. Ý nghĩa tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách an sinh xã hội
Tổ chức thực hiện chính sách ASXH là một khâu quan trọng hợp thành chu
trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách đến
đối tượng chính sách, được hiện thực bởi các công cụ chính sách bao gồm các họat
động của các chủ thể do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định để đưa chính
sách ASXH vào cuộc sống. Tổ chức thực hiện chính sách ASXH là trung tâm kết
nối các bước trong chu trình chính sách thành một hệ thống hoàn chỉnh; là cầu nối
giữa lý luận và thực tiễn trong thực thi chính sách. Việc hoạch định, xây dựng được
chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng triển khai, thực hiện một
cách đúng đắn chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không được
thực hiện sẽ chỉ nằm ở dạng văn bản giấy, trở thành khẩu hiệu suông, không những
không thực hiện được mục tiêu, ý định của chủ thể ban hành chính sách, mà còn ảnh
hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách. Nếu chính sách
không được tổ chức thực hiện đến nơi, đến chốn hoặc thực hiện không đúng, không
đầy đủ, không những sẽ ảnh hưởng trực tiếp đối tượng thụ hưởng, mà sẽ dẫn đến sự

thiếu tin tưởng vào chủ thể ban hành chính sách. Điều này hoàn toàn bất lợi về mặt
chính trị và xã hội, gây khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công tác quản lý. Qua
việc tổ chức thực hiện mới biết được chính sách có đúng, phù hợp và đi vào cuộc
sống hay không. Quá trình thực hiện với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần
điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu của cuộc sống. Thực tiễn là chân lý, kết quả thực hiện chính sách là thước
đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác, khách quan chất lượng và hiệu quả của
chính sách. Việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình khó khăn,
phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố giúp các nhà hoạch định và tổ chức thực

17


×