Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số phương pháp sử dụng thiết bị dạy học nhằm giúp học sinh học tốt môn lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.69 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài………………………………………………………. trang 2.
II. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………. trang 3.
III. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………….. trang 3.
IV. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………. trang 4.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm……………………………… trang 5.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…. ……..trang 5.
III. Vận dụng nội dung dạy họctích hợp, liên môn vào bài 14 “Việt Nam sau
chiến tranh thế giới thứ nhất”, sách giáo khoa lịch sử lớp 9………. …..trang 6.
1. Về kiến thức……………………………………………............ trang 6.
2. Về kĩ năng, học sinh rèn luyện các kĩ năng……………………. trang 6.
3. Về thái độ: ……………………………………………………... trang 6.
4. Nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức bài học ………… trang 7.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm …………………………….. ..trang 15.
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận …………………………………………………….… trang 16.
2. Kiến nghị ……………………………………………………... trang 16.
Phụ lục ………………………………………………………. . trang 17.

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
1


Nói đến vai trò của thiết bị dạy học V.P.Golov đã nêu rõ: “phương tiện
dạy học là một trong những điều quan trọng nhất để thực hiện nội dung giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh trong quá trình dạy học”.
Nghị quyết 40/2000/QH của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã nêu rõ: “Đổi mới


chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải được thực hiện
đồng bộ với nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”.
Thiết bị dạy học gồm 2 nhóm: Thiết bị dạy học truyền thổng gồm bảng,
tranh vẽ, mô hình, vật thật, bản đồ, sơ đồ… và thiết bị dạy học hiện đại gồm
đầu đĩa CD, VCD, máy tính, máy chiếu đa năng... Việc kết hợp hài hoà các thiết
bị dạy học truyền thống và thiết bị dạy học hiện đại sẽ tạo hứng thú, tăng hiệu
quả học tập cho học sinh và giảm sự vất vả cơ bản của giáo viên trong quá trình
giảng dạy.
Thiết bị dạy học giúp học sinh hiểu nõ hơn về bản chất của mọi khái niệm
trừu tượng, là cơ sờ khoa học minh chứng có sức thuyết phục, là sự vật trực
quan sinh động nhất, giúp việc học trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả...
Nhưng thục tế cho thấy, ở nhiều trường trung học cơ sở hiệu quả sử dụng
thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế, mà một trong các nguyên nhân là sổ đông
giáo viên thiếu nhiệt tình, trách nhiệm chưa cao, thiếu kĩ năng sử dụng thiết bị
dạy học. Mặt khác, các nhà trường chưa được cung ứng thiết bị dạy học một
cách đầy đủ, có hệ thống, đặc biệt là các thiết bị dạy học hiện đại.
Việc sử dụng thiết bị dạy học làm tăng cường nhịp độ trình bày tài
liệu và chuyền tải thông tin, giúp học sinh say mê học tập. Thiết bị dạy học cung
cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hiện tượng, đối tượng được phản ánh, nâng
cao tính trực quan cho quá trình dạy và học. Thiết bị dạy học cũng làm giảm nhẹ
cường độ lao động sư phạm của người dạy và người học. Với những ưu điểm
của thiết bị dạy học, tôi chọn đề tài “Một số phương pháp sử dụng thiết bị
dạy học nhằm giúp học sinh học tốt môn lịch sử ở trường PTDT Bán Trú
THCS Sơn Điện” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm năn học 2017-2018.
2


Tuy nhiên, thiết bị dạy học với phạm trù rộng với nhiều chủng loại, danh
mục như qui định của Bộ giáo dục và đào tạo, vì vậy trong khuôn khổ của một
sáng kiến kinh nghiệm tôi chỉ đi sâu vào khai thác lĩnh vực sơ đồ, biểu đồ có

trong sách giáo khoa và sách giáo khoa chưa đề cập.
II. Mục đích nghiên cứu.
Dạy học là một nghề sáng tạo. Người giáo viên khi đứng trên bục giảng
luôn gặp những vấn đề và tình huống thật phong phú, đa dạng, đòi hỏi phải có
cách sử lý, giải quyết sáng tạo.Trong khi sử dụng đồ dùng dạy học nhiều câu hỏi
về nội dung kiến thức, và phương pháp dạy học được đặt ra từ thực tế trên lớp,
đòi hỏi mỗi giáo viên phải tìm lời giải đáp nhằm phục vụ cho yêu cầu nâng cao
chất lượng giảng dạy. Việc sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết học là cần
thiết đối với sự tiếp thu của học sinh. Nhất là với vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay, trong tôi nảy sinh ý tưởng nâng cao chất lượng dạy và học
bằng cách sử dụng đồ dùng dạy học như thế nào để có hiệu quả cao phục vụ đổi
mới phương pháp dạy học. Đó là một giải pháp bước đầu, nhằm tháo gỡ những
vướng mắc về việc sử dụng đồ dùng dạy học trong các giờ học ở trường PTDT
bán trú THCS Sơn Điện hiện nay.
III. Đối tượng nghiên cứu.
Việc thực hiện đề tài “Một số phương pháp sử dụng thiết bị dạy học nhằm
giúp học sinh học tốt môn lịch sử ở trường PTDT Bán Trú THCS Sơn Điện”
hướng tới đối tượng nghiên cứu là tính khả thi của việc sử dụng thiết bị dạy học
vào quá trình dạy và học của thầy và trò, đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu
dạy học theo hướng hiện đại là phát triển năng lực học sinh.
Từ tính khả thi của đề tài, bản thân tôi góp phần khẳng định chủ trương
của Đảng và Nhà nước, Bộ GD – ĐT là đúng đắn trong việc đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục.
Mặt khác, để thực hiện đề tài, tôi chọn đối tượng học sinh khối 7 là chủ
yếu làm thí điểm với số lượng 59 học sinh chia làm 2 lớp.

3


Với việc chọn đối tương học sinh trên, tôi mong muốn việc sử dụng đồ

dùng, thiết bị dạy học sẽ làm tăng hứng thú cho học sinh trong việc học tập lịch
sử, giúp các em tìm tòi và khám phá, không còn e ngại với các môn xã hội như
lịch sử.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, bản thân tôi đã áp dụng một số phương pháp như
phương pháp so sánh ưu điểm giữa việc áp dụng giảng dạy có sơ đồ, biểu đồ
giữa các lớp trong cùng khối môn nhằm rút ra so sánh chất lượng.
Phương pháp thu thập và xắp xếp trình tự các sơ đồ, biểu đồ… theo nội
dung bài học một cách hợp lý phù hợp với từng nội dung của bài. Đặc biệt sử
dụng các phương pháp khác như:
Phương pháp thông tin - tái hiện lịch sử: Giáo viên trình bày tài liệu
mới, nhắc lại những kiến thức đã học có liên quan đến việc tiếp thu kiến thức
mới. Giáo viên chủ yếu trình bày các sự kiện chính xác, được quy định trong
chương trình giúp học sinh ghi nhớ thông qua các hoạt động về quá trình tâm lí
trong nhận thức và trong một số trường hợp có thể trình bày những tài liệu mới.
Việc thông tin tái hiện lịch sử được thực hiện bằng trình bày miệng với hệ thống
dạy học tương ứng: Tường thuật, miêu tả… và sử dụng đồ dùng trực quan.
Phương pháp nhận thức lịch sử: Giáo viên trình bày sự kiện, hiện tượng
trong hình thức tổng quát, trong những mối liên hệ bản chất của nó, giúp học
sinh từ biết đến hiểu sâu sắc các sự kiện và quá trình lịch sử. Phương pháp nhận
thức lịch sử được tiến hành thông qua dạy học nêu vấn đề, nêu câu hỏi có tính
chất bài tập nhận thức.
Phương pháp tìm tòi nghiên cứu: Phương pháp tìm tòi nghiên cứu được
tiến hành thông qua các hình thức từ thấp đến cao của những công việc học tập
như sử dụng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo để trả lời các câu hỏi, hoàn
thành bài tập, bước đầu tập dượt nghiên cứu một vấn đề lịch sử
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
4



Việc học tập Lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở nhà trường
đều nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học,
phẩm chất đạo đức chính trị cho học sinh.
Trong nhiều năm qua Sở Giáo Dục và Đào Tạo Thanh Hoá, Phòng Giáo
Dục và Đào Tạo Quan Sơn đã tổ chức, triển khai nhiều lớp tập huấn về việc đổi
mới phương pháp dạy học. Đây cũng là nội dung được đông dảo giáo viên quan
tâm và khẳng định vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học
trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh
những kiến thức cơ sở của khoa học lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ
mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên, cùng
với các môn học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông
minh, sáng tạo. Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc
lòng sách giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng lịch sử là đạt, không cần
phải tư duy - động não, không có bài tập thực hành,… Đây là một trong những
nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môn học.
Điều quan trọng nhất trong trong việc đổi mới phương pháp dạy học là
thầy dạy thế nào để học sinh động não, làm thay đổi chất lượng hoạt động trí
tuệ của học sinh, làm phát triển trí thông minh, trí sáng tạo của các em. Hiện
nay, trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là
ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài…
nhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở trên lớp, nên hoạt động trí tuệ của học
sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng
lực tư duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh…
của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng
nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương
pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng
cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức
của học sinh trong quá trình dạy học.
II. Cơ sở thực tiễn:

5


Dạy học Lịch sử là dạy những sự gì đã diễn ra trong quá khứ, mỗi bài học
đều có rất nhiều sự kiện và khái niệm lịch sử học sinh phải nhớ và hiểu. Trong
thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là
nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh
chỉ học bài nào biết bài đấy, nhớ các kiến thức lịch sử một cách rời rạc và nhanh
quên.
Ngoài ra, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong
đời sống xã hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn
lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần đầu tư công sức
nhiều, dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản,
nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở
nhiều trường.
Trong điều kiện hiện nay, việc giảng dạy và học tập bộ môn lịch sử vẫn
còn nhiều bất cập như: Chương trình sách giáo khoa khá nặng nề, quá tải về kết
cấu các nội dung, về thời lượng của chương trình. Chương trình còn nặng về lí
thuyết mà rất ít số tiết thực hành và ôn tập (tiêu biểu là chương trình Sử 9 học kì
II). Trong mỗi bài dạy lại có quá nhiều sự kiện làm cho học sinh ít hứng thú học
lịch sử vì khó nhớ, khó thuộc (bài 28, bài 29 sách giáo khoa lịch sử lớp 9).
Qua nhiều năm giảng dạy lịch sử, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra
những phương pháp giúp học sinh hứng thú học tập bộ môn hơn và đạt kết quả
cao hơn. Một trong những phương pháp có hiệu quả tôi đã thực hiện gây hứng
thú học tập cho học sinh là sử dụng các sơ đồ, biểu đồ tự làm hoặc có trong sách
giáo khoa để dạy và củng cố bài học. Trên cơ sở đó, bản thân tôi đã chọn đề tài
nhỏ về đổi mới phương pháp dạy học: Một số phương pháp sử dụng thiết bị
dạy học nhằm giúp học sinh học tốt môn lịch sử ở trường PTDT Bán Trú
THCS Sơn Điện.
III. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

Trong những năm qua, mặc dù chương trình và sách giáo khoa đã có thay
đổi, điều chỉnh giảm tải nhưng lượng kiến thức trong mỗi bài học vẫn rất nhiều.
6


Đa số học sinh không thể nhớ hết sự kiện lịch sử nếu không hiểu bài. Vì thế để
có thể giúp học sinh hiểu bài nhanh chóng giáo viên có thể sử dụng các sơ đồ có
sẵn trong sách giáo khoa hoặc tự làm để cụ thể hóa các sự kiện lịch sử và hình
thành khái niệm lịch sử cho học sinh. Sơ đồ là một loại đồ dùng trực quan quy
ước, nếu sử dụng tốt sẽ đem lại hiệu quả cao.
Trong đề tài này tôi xin chủ yếu đưa ra những sơ đồ không có sẵn trong
sách giáo khoa mà giáo viên tự làm để giúp học sinh nhanh chóng cụ thể hóa
kiến thức, tạo biểu tượng lịch sử và củng cố bài học.
IV. Các biện pháp
Trong dạy học lịch sử, do không trực tiếp quan sát các sự kiện nên
phương pháp trực quan góp phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng cho học
sinh, cụ thể hóa các sự kiện nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đồ dùng trực
quan có nhiều loại trong đó sơ đồ thuộc loại đồ dùng quy ước. Nhiều bài dạy
lịch sử có rất nhiều thông tin và sự kiện học sinh không thể nhớ hết, nhưng GV
hệ thống bằng sơ đồ thì bài học sẽ trở nên ngắn gọn và dễ hiểu. Qua thực tế
giảng dạy nhiều năm bản thân xin đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc sử
dụng các sơ đồ để dạy học bộ môn lịch sử. Quá trình thực hiện như sau :
Xác đinh các loại sơ đồ :
* Loại sơ đồ có sẵn trong sách giáo khoa : Giáo viên sử dụng sơ đồ để
khai thác khả năng tư duy của học sinh, chứ không nên dùng sơ đồ để minh họa.
* Loại sơ đồ không có sẵn trong sách giáo khoa :
1. Sử dụng sơ đồ để cụ thể hóa kiến thức tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh
trong giờ học :
Ví dụ 1 : Khi dạy bài 2- Lịch sử lớp 7 Bài “Sự suy vong của chế dộ phong
kiến và sự hình thành chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu” GV giảng đến phần sự hình

thành chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu có thể giúp học sinh từ những kênh chữ trong
sách giáo khoa vẽ sơ đồ về sự hình thành 2 giai cấp mới trong xã hội phong
kiến, sau đó GV kết luận bằng sơ đồ của mình như sau :
Chủ xưởng, chủ đồn
điền, thương nhân giàu
có.

7


GIAI CẤP TƯ SẢN

Nông nô và nô lệ da
đen.

GIAI CẤP VÔ SẢN

Nhìn vào sơ đồ học sinh sẽ dễ dàng nhận thấy 2 giai cấp mới là Tư sản và
vô sản được hình thành từ những tầng lớp nào trong xã hội phong kiến bằng một
sơ đồ trực quan rất dễ nhớ và dễ hiểu.. Giai cấp tư sản được hình thành từ các
chủ xưởng, chủ đồn điền, thương nhân giàu có. Còn giai cấp vô sản được hình
thành từ các nông nô và nô lệ da đen. Sự hình thành 2 giai cấp mới là cơ sở dẫn
đến sự hình thành mâu thuẫn mới và một xã hội mới thay cho xã hội phong kiến.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 4- Lịch sử 7: TRUNG QUỐC THỜI PHONG KIẾN
Đây là dạng bài không có sơ đồ được vẽ sẵn trong sách giáo khoa, không yêu
cầu học sinh kĩ năng vẽ sơ đồ, mục tiêu của bài học làm cho học sinh hiểu rõ
được sự phân hoá và hình thành của các tầng lớp xã hội dưới sự tác động của
các hình thức sản xuất mới, nhưng để đạt được mục đích này giáo viên lại cần
thiết phải sử dụng đến phương tiện trực quan có hiệu quả nhất đó là sơ đồ.
Bước 1: Cho học sinh đọc kênh chữ ở sách giáo khoa.

Bước 2: GV treo sơ đồ phân hoá xã hội phong kiến trên bảng đen.

Quý tộc

ĐỊA CHỦ
8


Nông dân giàu
Nông dân
công xã

Nông dân tự canh
Nông dân nghèo

NÔNG DÂN
LĨNH CANH

SƠ ĐỒ PHÂN HOÁ XÃ HỘI PHONG KIẾN TRUNG QUỐC (TK III TCN)

Bước 3: Học sinh dựa vào sơ đồ hoạt động nhóm trả lời các câu hỏi sau:
?Xã hội phong kiến Trung Quốc có những giai cấp nào? Các giai cấp này
được hình thành như thế nào?
Bước 4: Đại diện học sinh trong nhóm lên bảng dựa vào sơ đồ để trả lời.
Bước 5: HS nhận xét, bổ sung. GV kết luận, HS tự ghi kiến thức vào vở
Từ việc tiếp nhận thông tin bằng kênh chữ giáo viên đã tăng cường tính
cụ thể, tính hình ảnh của các thông tin về các hiện tượng xã hội bằng sơ đồ giúp
học sinh dễ tiếp thu nội dung, bản chất hiện tượng xã hội. Sơ đồ trên giúp học
sinh hiểu rõ nội dung và những đặc trưng cơ bản, sự phân biệt giai cấp trong xã
hội Trung Quốc vào thế kỉ III TCN.Trong quá trình sử dụng sơ đồ phân hoá xã

hội giáo viên đã làm cho học sinh thấy rõ mối quan hệ của các giai cấp xã hội
bằng các đường dẫn có mũi tên trong sơ đồ: Địa chủ có nguồn gốc từ tầng lớp
quý tộc và nông dân giàu có, họ là những người có nhiều ruộng đất. Nông dân
lĩnh canh là những người nông dân nghèo không có ruộng đất, phải làm thuê cho
địa chủ và nộp tô cho địa chủ nên khổ cực hơn cả nông dân tự canh. Qua cách
phân tích dẫn dắt vấn đề giáo viên đã hình thành khái niệm và giúp học sinh có
thể hiểu sâu nội dung khái niệm “địa chủ”, “nông dân lĩnh canh”, nắm được mối
quan hệ giữa địa chủ và nông dân lĩnh canh- hai giai cấp cơ bản của xã hội
phong kiến phương Đông.
Ví dụ 3: Khi dạy bài 10- Lịch sử 7: NHÀ LÝ ĐẦY MẠNH CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC

9


Đây là dạng bài không có sơ đồ được vẽ sẵn ở sách giáo khoa nhưng qua
phần kênh chữ giáo viên yêu cầu học sinh kĩ năng vẽ sơ đồ bộ máy chính quyền
ở trung ương và địa phương thời Lý, yêu cầu này được đưa vào câu hỏi cuối
mục 1 của sách giáo khoa (tr 36):
Em hãy vẽ sơ đồ bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương thời Lý.
Để thực hiện mục tiêu rèn luyện kĩ năng này tôi đã tổ chức hoạt động dạy
học như sau:
Bước 1: Học sinh đọc kênh chữ ở sách giáo khoa trang 36 “Năm 1054...
huyện, hương.”
Bước 2: Cho học sinh hoạt động theo 6 nhóm, dựa trên thông tin của kênh
chữ để vẽ sơ đồ bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương thời Lý.
Bước 3: Đại diện các nhóm vẽ sơ đồ trên bảng và trình bày tổ chức chính
quyền ở trung ương và địa phương thời Lý bằng ngôn ngữ nói.
Bước 4: Học sinh nhận xét, bổ sung hoàn chỉnh phần sơ đồ, giáo viên kết
luận, đánh giá hoạt động của học sinh.

Bước 5: HS quan sát tự vẽ sơ đồ vào vở.
Với hình thức tổ chức hoạt động dạy đã nêu trên, giáo viên đã cho học
sinh hoạt động dưới hình thức nhóm, học sinh đã tự hoạt động dựa trên phần
kiến thức tiếp thu từ kênh chữ, các em trong nhóm có thể đưa ra nhiều ý kiến
khác nhau. Trên cơ sở kênh chữ trong sách giáo khoa các em có thể vẽ sơ đồ
theo 2 dạng như sau:

*Nhóm 1:Sơ đồ hai nhánh:

VUA
ĐẠI THẦN

10


QUAN VĂN

QUAN VÕ

24 LỘ, PHỦ

HUYỆN

HƯƠNG, XÃ

HƯƠNG, XÃ

*Nhóm 2:Sơ đồ rời:
+Chính quyền trung ương:


VUA
ĐẠI THẦN

QUAN VĂN

QUAN VÕ

+Chính quyền địa phương:

24 LỘ, PHỦ

HUYỆN

HƯƠNG, XÃ

HƯƠNG, XÃ

11


Cách làm này đã giúp các em rèn luyện kĩ năng vẽ sơ đồ dựa trên kênh chữ trong sách
giáo khoa, kích thích tư duy và hứng thú học tập cho học sinh đồng thời các em sẽ
hiểu bài và nhớ bài lâu hơn. cụ kim loại xuất hiện làm cho sản xuất tăng nhanh, dẫn
đến gia đình có sự thay đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ. Làng bản cũng thay
đổi từ Công xã thị tộc sang công xã nông thôn=> Xã hội có giai cấp ra đời.
Việc hệ thống hóa bài học bằng sơ đồ sẽ giúp học sinh nhanh chóng hiểu bài và nhớ
lâu hơn khi học toàn kênh chữ.
Ví dụ 2 :
Khi dạy bài 28- Lịch sử lớp 9: “ Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội…” Đây là một
bài học khá dài với nhiều nội dung sự kiện khó nhớ, giáo viên có thể kết thúc bài học

bằng cách hệ thống hóa bài học bằng sơ đồ sau :

ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC
LẦN THỨ BA

NHIỆM VỤ CỦA MIỀN BẮC Tiến
hành Cách mạng XHCN

NHIỆM VỤ CỦA MIỀN NAM Hoàn
thành CMDTDCND

THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM
LẦN THỨ NHẤT

CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN
TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐẾ QUỐC


Khi sử dụng sơ đồ này để củng cố bài học, học sinh sẽ nắm được
toàn bộ nội dung bài học dễ dàng. Nội dung cơ bản của bài là Miền Bắc và

12


Miền Nam đều thực hiện những nhiệm vụ riêng của mình do Đại hội Đảng
toàn quốc đề ra.

b. Sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức và củng cố bài.

Ví dụ 1: Khi dạy bài 11- Lịch sử lớp 6 : “Những biến chuyển về xã hội”, khi kết thúc

bài học , giáo viên có thể củng cố bài học bằng sơ đồ sau :
BIẾN ĐỎI SẢN XUẤT

BIẾN ĐỎI GIA ĐÌNH

BIẾN ĐỎI LÀNG BẢN

BIẾN ĐỎI XÃ HỘI

Trước khi đưa sơ đồ, giáo viên cho học sinh tự hệ thống bài học bằng sơ đồ. Sau khi
HS vẽ xong giáo viên mới đưa sơ đồ ra để củng cố bài học. Qua sơ đồ học sinh sẽ hiểu
được nguyên nhân làm cho xã hội biến đổi là do có công
Ví dụ 3 : Khi dạy bài 30- Lịch sử lớp 9 : “ Hoàn thành giải phóng Miền Nam
thống nhất đất nước”- tiết 2. Giáo viên có thể củng cố kết thúc bài học
bằng sơ đồ sau :

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN
( 10/3->24/3/75)

13
CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
CHIẾN DỊCH HUẾ-ĐÀ NẴNG
( 26/4->30/4/75)
(21/3->29/3/75)


Khi sử dụng sơ đồ này để kết thúc bài học giáo viên có thể giúp học sinh
nhớ và hiểu toàn bộ kiến thức cơ bản của bài học là Cuộc Tổng tiến công

và nổi dậy Xuân 1975 gồm có 3 chiến dịch lớn và thời gian diễn ra của mỗi
chiến dịch. Sơ đồ này là một hình ảnh trực quan giúp học sinh hiểu và nhớ
bài lâu hơn.
3. Kết quả :
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy, với kinh nghiệm sử dụng sơ đồ để cụ
thể hóa kiến thức và củng cố bài học bản thân tôi nhận thấy học sinh có
hứng thú học tập hơn và nắm vững kiến thức cơ bản nhanh hơn. Hỏi ý kiến
học sinh, các em cũng rất thích phương pháp này, nhiều em rất thích thú
khi tự mình thiết kế sơ đồ sau mỗi bài học để nắm bắt bài học nhanh
chóng và nhớ lâu. Chính phương pháp này trong năm học qua kết quả chất
lượng môn Sử cao hơn so với những năm trước. 100% học sinh đạt từ trung
bình trở lên, trong đó 90% khá giỏi.

III. KẾT LUẬN
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ hiểu sâu những
kiến thức lịch sử. Chính vì thế để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử, người giáo
viên phải luôn sử dụng tốt các phương dạy học lịch sử một cách nhuần nhuyễn, trong những
14


phương pháp đó việc sử dụng sơ đồ cũng có tác dụng rất lớn . Sơ đồ chính là một đồ dùng
trực quan rất sinh động thể hiện sự sáng tạo cao của người giáo viên.

Trong những năm qua, công tác thiết bị trường học đã có nhiều thay đổi và đạt những
kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên những đồ dùng dạy học được trang cấp chưa đủ để phục vụ
cho nội dung chương trình sách giáo khoa...chính vì thế phong trào tự làm đồ dùng dạy học là
một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy học. Việc tự làm sơ đồ dạy học được
đề cập đến trong đề tài này mang ý nghĩa thể hiện sự sáng tạo của giáo viên nhằm giải quyết
nhu cầu thực tiễn của giáo viên để thực hiện đổi mới phương pháp phù hợp với khả năng sư
phạm của mình, với đặc điểm của lớp học, người học và môn học. Đồ dùng dạy học này, do

chính giáo viên thiết kế cho phù hợp từng bài dạy giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh
chóng và hiệu quả. Với việc sơ đồ hóa các kiến thức trong mỗi bài học giáo viên có thể phần
nào tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao chất lượng học tập bộ môn lịch sử trong
tình hình hiện nay.

IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Để kiểm tra kết quả học tập của học sinh học theo đề tài, tôi phát cho mỗi
học sinh một đề trắc nghiệm khách quan, đề là các nội dung của các bài học đã
giảng dạy trên lớp. Để đạt kết quả kiểm tra, đánh giá chính xác nhất, tôi thực
hiện ở cả 2 lớp sau mỗi giờ dạy.
- Tiêu chí đánh giá:
+ Học sinh trả lời đúng 80 - 100% số câu trắc nghiệm: Các em đã hiểu bài
mức độ tốt.
+ Học sinh trả lời đúng 50 - 79 %: HS hiểu bài mức độ khá
+ Học sinh trả lời đúng dưới 50 %: HS chưa hiểu bài.
- Thực hiện kiểm tra ở cả 2 lớp sau khi thực hiện đề tài đã cho kết quả: 80%
số học sinh hiểu bài mức độ khá và tốt.

15


PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Dạy học theo nội dung tích hợp, liên môn là sự vận dụng những nội dung
và phương pháp các lĩnh vực, các môn học có liên quan để nhằm tăng hiệu quả
dạy học lịch sử và làm sáng tỏ những kiến thức mà học sinh được học trong mỗi
bộ môn. Việc dạy học liên môn làm cho các em nhận thức sự phát triển của xã
hội một cách liên tục, thống nhất, mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời
sống xã hội, hiểu được tính toàn diện của lịch sử. Điều này khắc phục được tính
tản mạn trong kiến thức của học sinh..

Qua việc áp dụng nội dung dạy học tích hợp liên môn vào một bài học cụ
thể, tôi nhận thấy học sinh đã phát huy được tính tích cực, chủ động, hiểu bài và
hứng thú hơn với bộ môn lịch sử. Nếu các giờ dạy học môn lịch sử đều áp dụng
được phương pháp liên môn, tôi tin rằng giờ học lịch sử sẽ không còn khô khan
và sẽ tạo được niềm yêu thích bộ môn đối với học trò. Mặt khác, dạy học theo
nội dung tích hợp liên môn cho phép rút ngắn được thời gian dạy học đồng thời
vẫn đảm bảo được khối lượng và chất lượng thông tin.
Qua thực tiễn giảng dạy theo nội dung tích hợp liên môn, tôi rút ra những
ưu điểm như:
Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa hơn như hình thành ở học sinh những
năng lực rõ ràng.
Giúp học sinh phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn do việc dự
tính được những điều cần thiết cho học sinh.
Quan tâm đến việc sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể, điều này giúp
học sinh hòa nhập vào thực tiễn cuộc sống.
Giúp người học xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học.
2. Kiến nghị.
- Nhà trường cần tăng cường khuyến khích giáo viên đưa chủ đề dạy học
tích hợp, liên môn vào các dịp hội giảng.
- Đưa hoạt động trên trường học kết nối vào hoạt động bắt buộc với các tổ
bộ môn và giáo viên hằng năm.
16


- Giáo viên cần chủ động trong việc tiếp cận chủ đề dạy học tích hợp liên
môn.
- Tích cực cho học sinh tham gia các cuộc thi liên quan đến chủ đề tích
hợp, liên môn mà bộ đã phát động.
- Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được giao lưu với các đơn vị trên
địa bàn thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Quan Sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác

PHỤ LỤC
1. TƯ LIỆU LỊCH SỬ VIẾT VỀ TÌNH CẢNH NGƯỜI NÔNG DÂN
“ ...Trong một miếng đất rộng rào kín bốn bề, có 3.000, 4.000 người mặc
quần áo nâu rách rưới: họ chen chúc chật ních đến nỗi nhìn chung chỉ thấy một
đống gì rung rinh, có những cánh tay giơ lên gầy như que sậy, khúc khuỷu, khô
queo. Trong mỗi người bệnh gì cũng có: mặt phù ra hay không còn chút thịt,
răng rụng, mắt mờ hay lem nhem, mình đầy ghẻ chốc. Đàn ông chăng? Đàn bà
chăng? Hai mươi tuổi? Hay sáu mươi tuổi? Không phân biệt được! Không còn
phân biệt được trai, gái, già trẻ nữa, chỉ thấy một cái tình cảnh khốn khổ tột bậc
mà hàng nghìn miệng đen kêu lên như những tiếng kêu của súc vật”.
2. TƯ LIỆU LỊCH SỬ VIẾT VỀ TÌNH CẢNH CÔNG NHÂN VIỆT NAM
TRONG CUỘC KHAI THÁC THUỘC ĐỊA LẦN THỨ HAI
“Ở các tầng mỏ lúc nhúc công nhân. Những sinh vật mặc quần áo tả tơi.
Họ cuốc than hai cánh tay gầy còm. Đằng sau những xe goòng nhỏ, những đứa
trẻ chừng 10 tuổi còng lưng đẩy, thân hình bé tí, khô cằn, mặt đầy mệt nhọc như
đã kiệt quệ, thân hình than bám đen mò.... Những bọn người rách rưới, cánh tay
khẳng khiu gầy gộc làm việc dưới ánh mặt trời mà lương rất thấp. Có cả đàn bà
và đi sau các chiếc xe goòng là các em nhỏ mới độ 10 tuổi mà mặt mày bơ phờ
dưới lớp bụi than nên trong già đến 40… Chúng chạy đi chạy lại liên tục để mỗi
ngày kiếm được khoảng 10 đến 15 xu”. (Trích tư liệu Lịch sử 9)

17




×