Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

SKKN dạy cảm THỤ văn học 6, 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.77 KB, 42 trang )

Đặt vấn đề
Đất nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất
n ước nên nhân tố con người là vô cùng quan trọng. Yêu cầu của giai
đoạn này là đào tạo một lớp người mới phát triển toàn diện có phẩm
chất tốt, có hiểu biết và có các khả năng: làm việc, chung sống và tự
khẳng định mình. Để hoàn thành sứ mệnh đó, ngành Giáo dục – Đào
tạo đã tiến hành đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp
dạy học một cách toàn diện theo xu hướng tinh giảm, rèn luyện kĩ
năng cơ bản, thiết thực, kiến thức tích hợp từ nhiều môn, ngành khao
học, tăng cường rèn luyện khả năng tư duy, sáng tạo và năng lực thực
hành cho học sinh.
.Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát
triển tư duy của con người.Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm
công cụ ,môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học
khác.Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và
ngược lại.Môn ngữ văn được chia lam 3 phân môn : Văn – Tiếng việt
và tập làm văn. Năm học 2010 – 2011 và 2011– 2012,tôi được
phân công giảng dạy môn ngữ văn 6, 7 . .Khi học văn ,các
em còn lẫn lộn ,chưa phân biệt rõ ràng ,rạch ròi giữa cảm thụ
văn học với các thể loại văn khác ..Thực tế đó qủa là đáng lo
ngại .thực trạng vấn đề này ra sao ? vì sao học sinh gặp nhiều khó
khăn trong việc cảm thụ văn học cần phải làm gì để nâng cao
chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh THCS ?đó
là những vấn đề tôi trăn trở ,day dứt ,muốn cùng được chia
sẻ vớicác đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này

1


Giải quyết vấn Đề
1. Cơ sở lý luận của vấn đề


Văn học là nhân học. Học văn là học cách làm người. Nói chọ
cụ thể hơn học văn là để hiểu cuộc sống., hiểu con người, để có thái
độ, tình cảm đúng, hành động đúng trước cuộc sống. Đây cũng là cái
đích thiết thực cần đạt tới của công tác giáo dục, giảng dạy trong các
nhà trường hiện nay; nhằm thoả đáng yêu cầu đòi hỏi cấp bách của xã
hội về những con người toàn diện. Để tạo nên những con người phát
triển toàn diện, có hiểu biết xã hội, có tri thức, có tình cảm thái độ
rạch ròi, có khả năng giao tiếp ứng xử thì bộ môn văn trong nhà
trường là môn học có thế mạnh hơn cả. Song văn học không chỉ đơn
thuần là một môn học mà nó còn là bộ môn nghệ thuật (ngôn từ).
Trong đó tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật, lấy ngôn từ
làm chất liệu, có hình thức quy mô đa dạng và phong phú. Bởi vậy,
để học tốt môn văn là một quá trình không đơn giản, phải rèn luyện
công phu về kỹ năng cảm thụ văn học. Rèn luyện cảm thụ văn học là
một vấn đề vừa rộng, vừa khó. Nên việc rèn luyện cảm thụ văn học
cho học sinh để đạt hiệu quả cao nhất là một việc làm cần thiết.
2. Thực trạng của vấn đề
Xuất phát từ thực tiễn học tập của học sinh THCS, tuy đã trải
qua 5 năm cấp Tiểu học làm quen với văn học song với các em môn
văn là môn học trừu tượng, rất nhiều em lúng túng trong phương
pháp học, kỹ năng cảm thụ văn học yếu, phân tích kém, từ đó nhiều
em sợ không thích học văn.

2


Trong giảng dạy môn Văn Tiếng Việt ở trường THCS, các thầy
cô giáo thường quan tâm tới nhiệm vụ bồi dưỡng và nâng cao năng
lực cảm thụ văn học cho học sinh thông qua giờ học. Dưới sự hướng
dẫn của giáo viên các em được đọc, được phân tích hiểu và cảm nhận

những tác phẩm thơ văn tiêu biểu cho từng thời kỳ, từng giai đoạn
trong SGK. Từ đó, các em được mở mang tri thức, mở rộng tầm
nhìn, tâm hồn phong phú, biết nhìn đời với cặp mắt thân thiện hơn.
Nhưng muốn cảm thụ văn học tốt người học sinh ngoài việc nghe
giảng và học bài còn phải được trau dồi và rèn luyện năng lực cảm
thụ văn học theo mức độ yêu cầu của chương trình THCS hiện hành.
Có năng lực cảm thụ văn học các em mới có hứng thú viết văn,
các em càng thêm yêu quý Tiếng Việt, có ý thức giữ gìn sự trong sáng
của Tiếng Việt.
Thực tế trong các nhà trường hiện nay, các em học sinh lớp 6 –
7 còn nhiều bỡ ngỡ về môi trường sư phạm, phương pháp học và khối
lượng kiến thức. Ngược lại, bài kiểm tra và thi có thời lượng kiến
thức dày đặc không còn đơn giản theo kiểu “điền từ vào ô trống” như
ở bậc Tiểu học. Học sinh quen lối học sáo mòn thụ động, chưa có
thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao
nhiệm vụ. Năng lực cảm thụ chưa cao, khả năng tư duy còn hạn chế.
Bài làm của học sinh chỉ là sự bắt chước khuôn mẫu, hoặc các em
không làm được bài thi.
Vấn đề cảm thụ văn học, phương pháp kỹ năng cảm thụ văn
học, cảm thụ tác phẩm văn học là một vấn đề cốt lõi trong giảng dạy,
là nền tảng để tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm.

3


Chuyên đề bước đầu đưa ra một số phương pháp phù hợp hiệu
quả nhằm rèn luyện năng lực cảm thụ văn học cho học sinh THCS.
Giúp các em có niềm yêu thích môn học, càng thêm yêu quý Tiếng
Việt và có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt .
Phương pháp rèn luyện kỹ năng cảm thụ văn học một cách

khoa học, cụ thể dễ hiểu sẽ giúp học sinh đại trà không sợ, không
ngại học văn. Đồng thời giúp cho học sinh năng khiếu thành thạo kĩ
năng cảm thụ tác phẩm văn học , bồi dưỡng thêm năng lực văn nhằm
giúp các em học giỏi môn Ngữ Văn.

Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn cụ thể, khoa học, dựa trên
các phương pháp phù hợp chuyên đề sẽ tìm ra hướng đi góp phần đổi
mới phương pháp dạy học Ngữ Văn hiện nay và có tính khả thi cao.
Đồng thời sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh
trong việc học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp.
Chuyên đề đưa ra phương pháp cảm thụ văn học một cách
khoa học chi tiết nên học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ đó giúp các em có
niềm yêu thích môn Ngữ Văn hơn, say mê trong việc tích luỹ vốn văn
để có thể học tập tốt mộ môn này, trang bị kiến thức vững vàng để
các em bước vào học tập ở bậc THPT.
Để đạt được mục tiêu của chuyên đề tôi đã sử dụng các phương
pháp sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phương pháp này được sử
dụng nhằm đưa ra cơ sở lí luận, các kh¸i niệm khoa học cơ bản để có
cơ sở tổ chức triển khai chuyên đề.

4


2. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được
vận dụng để phân tích cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn là căn cứ xây
dựng chuyên đề. Đồng thời người viết đi từ những vấn đề cụ thể,
những đơn vị kiến thức cơ bản đến việc tổng hợp khái quát để rút ra
phương pháp tổ chức triển khai chuyên đề.
3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Người viết đã vận dụng

phương pháp này để ứng dụng trong việc dạy học Ngữ văn 6,7- năm
học 2010-2011 ở trường THCS Hạc Trì
3 các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề

Chương I
MỘT SỐ YÊU CẦU RÈN LUYỆN CẢM THỤ VĂN HỌC
LỚP 6, 7 CẤP THCS
1. Thế nào là cảm thụ văn học
Hiểu một cách đơn giản cảm thụ văn học chính là sự cảm nhận
những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc trong thực tế và cái hay, cái
đẹp của văn học thể hiện trong tác phẩm (câu truyện, bài văn, bài thơ
…) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ … thậm chí
một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ)
Để hình dung rõ những điều trên, ta hãy tìm hiểu đôi dòng tâm
sự của các nhà văn, nhà thơ khi tiếp xúc với văn học. Ngay từ khi còn
nhỏ, khi đọc những câu ca dao:
“Giã ơn cái cối cái chày
Nửa đêm gà gáy có mày có tao
Giã ơn cái cọc bờ ao
Nửa đêm gà gáy có tao có mày”

5


Nhà thơ Hữu Thỉnh đã rất xúc động, ông nhớ và kể lại: “trái
tim non nớt của tôi láng máng nhận ra cái vị đắng của cuộc đời đi ở
xưa kia đó, tôi chưa hề hiểu hết ý nghĩa của câu ca dao, nhưng tôi
thấy nó thật gần gũi “cái cối cái chày” , “cái cọc bờ ao” , những thứ
ấy quá quen thuộc với tôi nhưng cứ lạ mãi tại sao nó lại trở thành
tiếng nói buồn tủi bắt ta phải thương xót, cảm thông trí tưởng tượng

của tôi phát ra bóng người cô độc, bị vắt kiệt sức, bị ném xuống tận
đáy, bị loại ra khỏi cái thế giới người, chỉ còn biết thui thủi một mình
thổ lộ tâm sự cùng những vật vô tri vô giác “(trích)” Hồi nhỏ các nhà
văn viết văn” Sở GD Nghĩa Bình 1986)
Như vậy, cảm thụ văn học có nghĩa là khi đọc, nghe một câu
truyện, một bài thơ … ta không những hiểu mà còn phải xúc cảm,
tưởng tượng, và thật sự gần gũi “nhập thân” với những gì đã đọc.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng từng nhớ lại thửa thơ
ấu và viết: “Dế mèn phiêu lưu ký giúp tôi phát hiện tình bạn như một
sức mạnh kỳ diệu của tâm hồn … khi đói quá sắp chết Dế Trũi đã đưa
càng cho Dế Mèn đề nghị bạn lấy thịt mình để ăn mà sống, tôi nhận
ra rằng chính Mèn và Trũi là nhân vật của tâm hồn tôi, đã làm tôi
chảy nước mắt …” (sách đã dẫn)
Rõ ràng, đọc có suy ngẫm tưởng tượng ( liên tưởng) và rung
cảm thật sự sẽ giúp ta cảm nhận văn học , đúng như nhà văn Anh Đức
tâm sự: “Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng chữ, mà còn thấy cảnh
tượng ở sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi rất xa, vẽ
thêm ra lắm điều thú vị” (sách đã dẫn)

6


Cũng cần nói thêm, cảm thụ văn học diễn ra ở mỗi em không
hoàn toàn giống nhau do nhiều yếu tố quyết định như: vốn sống và
hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức, tình cảm và thái độ khi tiếp
xúc với văn học … ngay cả trong một con người sự cảm thụ văn học
về một tác phẩm nào đó trong những thời điểm khác nhau cũng có
nhiều biến đổi.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có lần thổ lộ: Riêng bài ca
dao “Con cò mà đi ăn đêm” thì ở mỗi con người, ở mỗi độ tuổi của

đời người, tôi lại cảm nhận một cái hay riêng của nó và cho đến bây
giờ tôi vẫn chưa đi thấu tận cùng vẻ đẹp của bài học thuộc lòng thủa
ấy (sách đã dẫn).
Những điều nói trên về cảm thụ văn học cho thấy các em học
sinh THCS đều có thể rèn luyện, trau dồi từng bước để nâng cao trình
độ cảm thụ văn học, giúp cho việc học tập môn Văn - Tiếng Việt
ngày càng tốt hơn và trở thành học sinh khá giỏi.
2. Yêu cầu rèn luyện về cảm thụ văn học ở cấp THCS
Chương trình môn văn học THCS từ lớp 6 đến lớp 9 luôn
chiếm một thời lượng quan trọng trong phân phối chương trình Văn
học - Tiếng Việt (lớp 6 chiếm 3/6tiết/tuần; lớp 7 chiếm 2/5 tiết/tuần;
lớp 8 – 9 chiếm 2/4 tiết/tuần) cho thấy, chương trình luôn coi trọng
nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh. Dưới sự
hướng dẫn của thầy, cô giáo với việc phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy và học, các tác phẩm văn học sẽ đem đến cho học sinh
tri thức và cả những điều kỳ thú hấp dẫn. Tuy nhiên, muốn trở thành
học sinh có năng lực cảm thụ văn học, tất cả các em phải tự giác phấn

7


đấu rèn luyện nhiều mặt. Kinh nghiệm cho thấy, để có được năng lực
cảm thụ văn học sâu sắc và tinh tế cần có:
- Sự say mê hứng thú khi tiếp xúc với văn thơ, đọc kỹ (ít nhất 3
lần) học thuộc (thơ) nắm cốt truyện, thuộc những chi tiết hay (đắt)
- Chịu khó tích luỹ vốn hiểu biết về cuộc sống và văn học .
- Nắm vững kiến thức cơ bản về Tiếng Việt (Từ Ngữ - Ngữ
Pháp) để phục vụ cho cảm thụ văn học
- Kiên trì rèn luyện kĩ năng viết đoạn về cảm thụ văn học .
Dưới đây là những yêu cầu cụ thể cho mỗi học sinh

a. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ - văn
Ngay từ khi còn nhỏ, hầu hết các em nhỏ đều thích nghe ông,
bà, cha mẹ …. kể truyện, đọc thơ. Nhiều em thuộc ngay từ hồi đó,
nhiều em thích đọc to lên. Đó chính là biểu hiện ban đầu của hứng
thú.
Một học sinh chưa thích học văn, thiếu sự say mê nhất định
chưa hề đọc lưu loát diễn cảm bài văn hay (điều thực tế này hiện còn
gặp khá nhiều ở học sinh tất cả các lớp đại trà 6 – 7 – 8 – 9 ) và nhất
định các em chưa thể xúc động với những gì đẹp đẽ được nhà văn,
nhà thơ diễn tả qua tác phẩm. Khi nhớ lại quãng đời học văn thủa
nhỏ, giáo sư văn học Lê Trí Viễn đã rút ra nhận xét quí báu: Trong
thơ văn hay, chữ nghĩa ngoài cái gọi là nội dung giao tế thông thường
của nó, còn có vốn sống của cuộc đời nghìn năm bồi đắp lại. Nếu
không “làm thân” với văn thơ thì không nghe được tiếng lòng chân
thật của nó (sách đã dẫn). Muốn làm thân với văn thơ, ta phải có tấm

8


lòng chân thật, có tình cảm với văn thơ, đến với văn học một cách tự
giác. Đây chính là yếu tốt quan trọng để cảm thụ văn học .
b. Tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế và văn học
“Vốn sống” của mỗi con người là điều quan trọng trong cảm
thụ văn học “Vốn” được tích luỹ bằng hiểu biết của bản thân qua sinh
hoạt và quan sát hàng ngày. Có những điều diễn ra quanh ta rất quen
thuộc, nhưng nếu ta không chú ý quan sát nhận xét, ghi nhớ (ghi
chép) thì cũng không làm giầu thêm vốn sống. Chính vì vậy, tập quan
sát thường xuyên bằng tai nghe, tay sờ, mắt nhìn, mũi ngửi là thói
quen rất cần thiết của học sinh. Quan sát như thế nào mới có kết quả
tốt và phục vụ cho việc tích luỹ vốn sống. Nhà thơ Tô Hoài - Người

nổi tiếng về tài quan sát và miêu tả đã mách giùm kinh nghiệm như
sau: “Quan sát giỏi phải tìm ra nét chính và đặc tính riêng, móc được
những ngóc nghách của sự vật, của vấn đề. Nhiều khi chỉ cần chép lại
những đặc điểm mà mình cảm nhận như một câu nói lột tả tính nết,
những dáng người, hình bóng, tiếng động, ánh đèn, nét mặt … Do
mình khổ công ngắm, nghe, nghĩ mới bật ra. Và khi bật ra được thì
hào hứng không ghi không chịu được” (Tô Hoài - Sổ tay viết văn –
NXB tác phẩm mới 1977).
Quan sát nhiều, kỹ giúp các em viết văn hay và còn cảm nhận
vẻ đẹp của thơ văn một cách tinh tế và sâu sắc. Đọc bài thơ “Hạt gạo
làng ta” của nhà thơ Trần Đăng Khoa - Nguyễn Thị Bích Đào, học
sinh Thành phố Hồ Chí Minh - nhờ có vốn hiểu biết về cuộc sống ở
làng quê Việt Nam đã viết đoạn cảm thụ xuất sắc: “ …. Hạt gạo đã
tích tụ biết bao nhiêu chất phù sa màu mỡ đượm đầy sức sống của

9


dòng sông Kinh Thầy, vị phù sa như người mẹ hiền nuôi nấng, chăm
sóc từng hạt gạo nhỏ bé lẫn trong vị phù sa là cả hương vị của đài sen
thơm ngát. Hạt gạo làng ta không những chứa đựng sức sống dẻo dai
của phù sa màu mỡ mà còn nhuốm cả hương thơm ngọt ngào, cả sự
trắng trong tinh khiết của đoá sen. Hạt gạo quyện lẫn tiếng hát “ngọt
bùi” ấm êm của người mẹ hiền, của tiếng sáo vi vu trên cánh đồng
bát ngát trong những chiều lộng gió. Hạt gạo thật đáng quý biết bao".
(Thi HSG toàn quốc 1983 – 1984)
Bên cạnh “vốn sống” thực tế, học sinh cần tích luỹ vốn văn học
thông qua đọc sách. Sách giúp ta mơ mộng tầm nhìn, khơi sâu cảm
xúc, khơi dậy cảm thụ văn học. Đọc sách gì?. Nên chọn sách phù hợp
với lứa tuổi Thiếu niên có ích cho học tập và tu dưỡng đạo đức như:

Truyện lịch sử, kho tàng cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn, truyện danh
nhân … không đọc truyện trưởng, kinh dị, truyện tranh mà văn không
thành câu văn dẫn đến văn bị cụt, què sai ngữ pháp …)
Phương pháp đọc như thế nào? Cần tập trung tư tưởng cao,
thấy cái hay, cái đẹp của tác phẩm về cả nội dung và nghệ thuật. Đọc
sách đến mức say mê có nghĩa là sống cùng nhân vật, biết buồn - vui
- sướng - yêu - ghét đồng thời cảm nhận được những câu văn hay,
hình ảnh đẹp, chi tiết xúc động.
Đọc để rung cảm sâu sắc với tác phẩm là điều cần thiết, song
học sinh cần phải chọn lọc, ghi chép công phu để tích luỹ làm giàu
vốn sống. Ghi những gì? Ghi những từ ngữ hay, những hình ảnh đẹp
những câu thơ đoạn văn mình thích những cảm nhận tâm đắc lúc
“xuất thần”.

10


Trần Đăng Khoa hồi nhỏ rất xúc động khi nghe bà đọc câu ca
dao:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Khoa đã ghi những cảm nhận vào sổ tay: “Gặp ở đâu nhỉ, hình
như trong một đêm dưới ánh trăng bên đường làng, giữa những tiếng
múc nước của cái gàu dai. Đúng rồi cô múc nước ấy là mẹ tôi” (Tập
san GD số 5 – 1997)
Đọc sách có phương pháp tốt sẽ giúp ta tự học được nhiều điều
thú vị, từ đó lớn lên về trí tuệ, tâm hồn làm cho cảm xúc phong phú,
chân thực. Đây chính là điều kiện quan trọng để cảm thụ văn học .
c. Nắm vững kiến thức cơ bản về Tiếng Việt
Để cảm thụ văn học trước hết cần phải nắm vững những kiến

thức cơ bản đã được học trong chương trình môn Tiếng Việt. Đó là
phần từ ngữ (lớp 6 - 7) phần ngữ pháp ( lớp 6 – 7 – 8 – 9). Lớp 6 có
hiểu biết về ngữ âm và chữ Tiếng Việt (âm - vần - dấu – thanh …) ta
dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp của câu thơ tả cảnh mùa hè.
“Dưới trăng quên đã họi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Bốn phụ âm đầu được lặp lại (lửa lựu lập loè), thanh điệu hài
hoà, từ láy “lập loè” có tiếng láy màng vần “ấp” (thường gợi nét
nghĩa: một trạng thái không ổn định lúc mờ lúc tỏ, lúc mạnh lúc yếu,
lúc cao lúc thấp … tương tự như các từ láy: lập lờ, mập mờ, thập thò

11


lấp ló …), những hiểu biết đó giúp ta thấy rõ hình ảnh hoa lựu đỏ như
sắc lửa khi ẩn khi hiện báo hiệu mùa hè đang tới gần.
Đọc đoan văn “Phong cảnh làng mạc ngày mùa” của Tô Hoài,
nếu nắm vững kiến thức từ ngữ lớp 6 ( từ ghép), các em sẽ chú ý
ngay tới các sắc độ của màu vàng do nhà văn sáng tạo ra bằng sự
quan sát tinh tế.
“Mùa đông, giữa ngày mùa, làng quê toàn màu vàng … Tất cả
đượm một màu vàng trù phú đầm ấm lạ lùng …”
(Tô Hoài - Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả - NXB GD
1988, trích đầu - cuối đoạn văn)
Một loại các từ ghép (phân nghĩa) chỉ màu vàng khác nhau đã
được nhà văn biến hoá không lường: vàng xuộm, vàng hoe, vàng lim,
vàng xẫm, vàng tươi, vàng xọng, vàng gióng, vàng mượt … có cả
những màu vàng không nhìn thấy bằng mắt, mà chỉ có thể cảm nhận
được bằng tâm hồn qua cách diễn tả của nhà văn. Vàng hơn thường

khi, vàng như những vạt áo nắng, màu vàng đầm ấm trù phú lạ lùng.
Nắm vững những kiến thức ngữ pháp (câu, cách dùng từ đặt
câu, kết cấu câu…) các em không chỉ nói viết trôi chảy, sáng sủa mà
còn cảm nhận sâu sắc nét đẹp của nội dung qua những hình thức diễn
đạt sáng tạo và sinh động.
Đọc đoạn văn sau của Nguyễn Phan Hách: “Thoắt cái, lác đác
là vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh
một cơn mưa tuyết trên những cánh đào, lê, mận . Thoắt cái gió xuân
hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm
quý” (Tả cảnh Sa Pa”. Nếu thiếu đi những trạng ngữ ấn tượng về thời

12


gian (thoắt cái), không dùng cách đảo bổ ngữ (lác đác) đảo vị ngữ
(trắng long lanh ) … những câu văn trên sẽ không thể làm cho người
đọc cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ và huyền ảo của thắng cảnh Sa
Pa.
Tương tự như trên, cách đổi trật tự cú pháp thông thường của
các câu thơ
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
Nhằm nhấn dáng vẻ (lom khom) của chú tiều và vẻ thưa thớt
(lác đác) đìu hiu của cảnh sơn cùng thuỷ tận của xứ Đàng Ngoài thời
vua Lê Chúa Trịnh (từ đây trở vào đã là xứ khác). Cái gì cũng ít ỏi
thưa thớt, hoang vắng, xa lạ, rất phù hợp với tâm trạng thi nhân, nỗi
buồn man mác và đơn chiếc …
Nắm vững được kiến thức và kỹ năng cơ bản về Tiếng Việt sẽ
giúp các em nâng cao được năng lực cảm thụ văn học.

d. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn về cảm thụ văn học
Đây là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết nhất trong việc cảm
thụ văn học và việc nâng cao chất lượng học tập của bộ môn.
Muốn cảm thụ văn học tốt, học sinh cần phải được rèn luyện
kỹ năng viết đoạn. Để cảm thụ văn học, bộc lộ qua bài viết, học sinh
cần chú ý những điểm chính sau đây:
*Khi phân tích một tác phẩm hay một đoạn, một câu phải chú ý
đến ngữ âm. Ngữ âm là cấp độ thấp nhất của ngôn ngữ, tự bản thân

13


nó không có ý nghĩa … nhưng nhà văn sử dụng nó độc đáo có hiệu
quả vì thế có có ý nghĩa.
Ví dụ đã dẫn (trang 7, phần 3 – hai câu thơ:
“Dưới trăng quên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu (Văn 9 - tập 2), câu thơ
cuối “Đầu súng trăng treo” (không phải trăng treo đầu súng) sử dụng
ngữ âm “eo” tạo âm điệu lan toả mãi, gợi cảm giác ung dung thanh
thản biểu hiện tư thế, tâm hồn người chiến sỹ cách mạng.
* Cảm thụ văn chương qua việc tìm hiểu cách dùng các từ ngữ,
hình ảnh:
Từ ngữ, hình ảnh là yếu tố cơ bản của tác phẩm văn học.
Trong tác phẩm không phải chữ nào, từ nào cũng hay. Muốn cảm thụ
văn học tốt và tập trung (làm bài không bị loãng), cần chọn những từ
ngữ hình ảnh chính để phân tích.
Trong các loại từ, từ láy là từ có giá trị biểu cảm rất lớn (Vì dụ
đã dẫn “Đầu tường lửa lựu lập loè đầm bông”).

Cũng trong “Kiều” đọan trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, 8 câu
thơ cuối cùng có các từ láy “ầm ầm, thấp thoáng, rầu rầu, man mác”.
Từ láy “ầm ầm” là từ láy tượng thanh miêu tả âm thanh của tiếng
sóng vỗ vào bờ liên tiếp, mạnh. “ầm ầm” gợi khung cảnh bờ biển
sóng vỗ, nhưng chủ yếu qua từ láy này, người đọc thêm hiểu rõ tâm
trạng của Kiều. Nàng bị ám ảnh về những tai hoạ đang bủa vây sắp
giáng xuống đầu nàng gây xúc động cho người đọc.

14


Khai thác từ, phải tìm hiểu xem từ được dùng theo nghĩa như
thế nào. Nghĩa đen hay nghĩa bóng? Ví dụ: từ “nghiêng” trong câu
“nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng” (Khúc hát ru - Nguyễn
Khoa Điềm) từ “nghiêng” trong hình ảnh “nhịp chày nghiêng” miêu
tả chiếc chày ngả về một phía theo nhịp người giã.
Từ “nghiêng” trong hình ảnh “giấc ngủ em nghiêng”là hình
ảnh đứa bé ngủ trên lưng mẹ ngả theo động tác giã gạo của người mẹ.
Nghĩa bóng cả từ nghiêng tạo hình ảnh cụ thể về cuộc sống vất
vả của người phụ nữ, trẻ em nói riêng và của nhân dân Việt Nam nói
chung trong kháng chiến chống Mỹ gợi tình cảm xót thương và căm
giận.
Khi phân tích, bình giảng văn học, học sinh thường được giáo
viên hướng dẫn tìm những từ láy, từ đắt (trong câu, trong đoạn, trong
bài) Đó là những từ thường được coi là những từ “Thần” hay
nhãn tự của câu, của bài.
Ví dụ: chữ “hồng” trong bài “Chiều tối” (Nhật ký trong tù - Hồ
Chí Minh) được Hoàng Trung Thông đánh giá: “ Chỉ một chữ ấy thôi
cũng đủ cân lại với cả 27 chữa kia dẫu nặng đến mấy đi nữa. Đây
chính là nhãn tự của bài thơ, tương tự như chữ “Sang” trong “Tức

cảnh Pác Pó” là nhãn tự của bài.
Chữ “Reo” trong “Nắng mới” của Lưu Trọng Lư là từ “đất”
của câu thơ “Một lần nắng mới reo ngoài nội” và của đoạn thơ:
“Tôi nhớ mẹ tôi thửa thiếu thời
Những ngày còn sống tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội

15


Áo đỏ người đưa trước dậu phơi”
Có từ “Reo”, nắng mới biến thành âm thanh diễn tả niềm hân
hoan của đứa bé 10 tuổi khi được sống bên mẹ, đó là cái nắng có mẹ.
Hình ảnh : là toàn bộ đường nét, màu sắc hoặc đặc điểm của
người, vật, cảnh bên ngoài được ghi trong tác phẩm. Nhờ đó ta có thể
tưởng tượng ra người, vật, cảnh đó (Gọi là trong văn, thơ có hoạ). Bài
thơ “Đồng chí” của Chính Hữu có một hình ảnh vô cùng gợi cảm:
“Đầu súng trăng treo”. Nếu cảm thụ tốt sẽ hình dung ra được cảnh
chiến sỹ bên nhau chờ giặc, đêm khuya vầng trăng chênh chếch như
treo đầu súng vừa thực vừa thơ mộng. Câu thơ ngoài sự gợi tả còn có
ý nghĩa tượng trưng: Súng, Người chiến sỹ, Vầng Trăng – Thi Sỹ.
Hai hình ảnh hiền hoà biểu hiện tư thế và tâm hồn của người chiến sỹ
vừa dũng cảm, kiên cường mà vẫn lãng mạn, yêu đời.
e. Cảm nhận văn chương phải chú ý đến nhịp điệu của câu
văn, câu thơ
Nhịp điệu chính là nhạc thơ được tạo bởi thanh, vần, cách ngắt
nhịp. Bài “Em đi chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp sử dụng
nhiều thanh bằng và vần “ương” để tạo nên những câu thơ có nhịp
điệu diễn tả tâm trạng náo nức, hứng khởi của người đi vãn cảnh chùa
Hương. Khi phân tích bài “Tiếng chổi tre” của Tố Hữu (Văn 6 - tập

2) nên chú ý đến nhịp điệu (cách ngắt nhịp, xuống dòng, gieo vần) ta
sẽ nhận thấy mỗi câu thơ là một nhịp âm thanh rời rạc, đó chính là
tiếng chổi của chị lao công đưa đi đưa lại nhịp ngắn, nhịp dài, âm thì
rời nhưng vần thì gắn kết giúp ta cảm nhận được sự nhẫn nại, bền bỉ
trong công việc lao động bình thường của chị lao công.

16


Trong hai câu thơ:
“Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau/biết nói gì/hôm nay”
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Cách ngắt nhịp trái với lục bát diễn tả một thoáng ngập ngừng,
bối rối không biết nói gì của người chia tay. Tâm trạng nhà thơ biểu
hiện rất rõ. Khi phân tích, học sinh rèn luyện thói quen tự đặt câu hỏi:
Tai sao thế này? Mà không phải thế kia?
* Cảm nhận văn chương qua việc phát hiện và tìm hiểu các
biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn
thơ … (ở đây chỉ nêu vài biện pháp tiêu biểu)
+ So sánh:
Là phép tu từ vựng phổ biến làm tăng tính gợi hình, biểu cảm.
Khi phân tích giá trị nghệ thuật của so sánh, học sinh phải hiểu được
vì sao trong câu có A rồi tác giả lại còn phải đưa B ra. B thường là sự
vật quen thuộc có khả năng gợi ra hình ảnh hoặc cảm giác nào đó.
Thông qua so sánh mà hình ảnh hoặc cảm giác ấy của B sẽ chuyển
sang A.
Ví dụ: Mẹ như giọt nắng cuối ngày
A và B có những nét tương đồng, muốn so sánh phải tìm hiểu
đặc điểm của B. Nắng cuối ngày là nắng leo lét, yếu ớt, sắp tắt.

Chuyển đặc điểm B sang A: mẹ già yếu sắp lìa xa cõi đời. Câu thơ so
sánh diễn tả tình cảm yêu thương cùng những âu lo của con đối với
mẹ.
+ Ẩn dụ:

17


Là phép tu từ thường gặp trong thơ, văn. Ẩn dụ là so sánh
ngầm. Sự vật so sánh ẩn dụ trong thơ, văn thường là những hình ảnh
đẹp có ý nghĩa gợi nhiều liên tưởng làm câu thơ có hình tượng dễ
truyền cảm, dễ cảm thụ “Những cánh buồm” là ẩn dụ của bài thơ
cùng tên của Hoàng Trung Thông để nói lên những ước mơ, khát
vọng của con người “Cánh buồm” đưa con thuyền ra khơi có khác gì
“ước mơ” con người đang vươn tới. Ước mơ chỉ là khái niệm trừu
tượng đã được hình tượng hoá bằng ẩn dụ “Cánh buồm” cụ thể, dễ
cảm nhận lại mang chất thơ bay bổng.
Hình ảnh “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy (Văn học 7 - tập 1)
cũng là một ẩn dụ . Hình ảnh “mặt trời” trong câu thơ “Mặt trời của
mẹ con nằm trên lưng” (Khúc hát ru của Nguyễn Khoa Điềm) được
sử dụng theo nghĩa bóng. Người học sinh khi cảm thụ, phân tích nếu
nhận thấy từ không sử dụng theo nghĩa đen lập tức phải đặt câu hỏi
có phép tu từ ẩn dụ không? Phân tích gần như phép so sánh.
+ Nhân hoá
Nhân hoá trong thơ văn là để cho sự vật, cảnh vật có hồn,
giống như con người, khiến cho cảnh vật gợi cảm trở nên thân thiết
gần gũi với con người. Nhân hoá làm cho câu thơ lung linh sống
động đem đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ. Sự vật
nhân hoá trong thơ thường nhuần nhị tự nhiên, phù hợp với con
người.

“Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con”

18


Hình ảnh “cây tre” được tác giả nhân hoá như con người, dãi
dầu chịu đựng mọi thử thách trong cuộc sống. Đồng thời tre cũng
được nhân hoá giống như một người mẹ luôn hy sinh tất cả vì con,
che chở cho con. Hình ảnh nhân hoá sinh động thể hiện lòng nhân ái
bao la và tình mẫu từ thật cảm động
Ta có thể bắt gặp trong thơ văn rất nhiều hình ảnh nhân hoá:
- Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
- Sông mở nước ôm tôi vào dạ
- Giấy đỏ buồm không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Khi cảm thụ thơ văn, phân, phân tích được tác dụng của nghệ
thuật nhân hoá (có mặt trong đoạn, câu) là đã cảm thụ được cái hay
cái đẹp của taá phẩm hoặc đoạn trích đó
+ Điệp ngữ
Để điệp ngữ cũng là phép tu từ phổ biến có rất nhiều tác dụng
trong việc làm tăng hiệu quả diễn đạt.
Kết thúc bài “Nhớ con sông quê hương” Tế Hanh viết:
“ Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mong nước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tỉnh thương”
Cách sử dụng điệp ngữ có tác dụng diễn tả tình cảm của tác giả
với quê hương vô cùng thân thiết. Điệp ngữ như lời tâm niệm, nhắc
đi nhắc lại, như lời thề thiêng liêng, son sắt. tình cảm đó đã trào dâng
lên thành một quyết tâm, một niềm tin cao cả vào sự nghiệp thống

nhất đất nước, vào ngày trở về quê hương...

19


+ Đảo ngữ
(Đã dẫn ở phần 3, nắm vững kiến thức cơ bản về Tiếng Việt
trang 8)
Đọc kỹ đầu bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập (phân tích,
cảm thụ văn hay thơ để tuân thủ đặc trưng riêng của thể loại: Thơ thể
hiện qua từ ngữ, hình ảnh, cấu từ …. Truyện thể hiện qua chi tiết, lời
kể, ngôn ngữ ….)
Tìm hiểu về câu thơ, câu văn (hay đoạn trích) được nêu
trong đề bài.
Dựa vào yêu cầu cụ thể của bài tập để tìm hiểu:
 Cách dùng từ đặt câu
 Cách dùng hình ảnh? Chi tiết?
 Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuạt quen thuộc ẩn dụ,
so sánh, nhân hoá, điệp ngữ ….
 Tìm hiểu cả nội dung và nghệ thuật không coi nhẹ phần
nào, phải phân tích cảm nhận từ nghệ thuật đến nội dung.
 Lựa chọn những chi tiết, hình ảnh chính (những từ “thần”
nhãn tự, chi tiết đặc sắc) để đào sâu, mở được thế giới của
văn học.
Viết đoạn văn về cảm thụ văn học
Với học sinh lớp 6, 7 có thể:
 Viết câu mở đoạn trực tiếp đễ dẫn dắt người đọc vào thẳng
vẫn đề chính.

20



 Tiếp đó làm rõ các ý cảm nhận theo yêu cầu của đề (tuỳ
theo lượng kiến thức nhiều ít mà viết số câu văn cho phù
hợp).
 Kết đoạn bằng một vài câu ngắn gọn “gói” lại nội dung cảm
thụ.
Yêu cầu trình bày:
 Diễn đạt trong sáng, bộc lộ được cảm xúc của bản thân
 Cần tránh mắc các lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu,
tránh viết dài dòng.
 Chữ viết sạch đẹp, sử dụng tốt các loại dấu câu.
Bài tập tham khảo
Trong bài thơ “Mẹ” Trần Quốc Minh viết:
“ … Lời ru có gió mùa thu
Bàn tay mẹ quạt mẹ đưa gió về
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”
Theo em, hình ảnh nào góp phần nhiều nhất làm nên cái
hay của đoạn thơ trên? Vì sao?
Đoạn văn tham khảo:
Theo em, hình ảnh “ngọn gió” trong câu “mẹ là ngọn gió của
con suốt đời” đã góp phần nhiều nhất làm nên cái hay của đoạn thơ
trên. Hình ảnh đó cho ta thấy người mẹ giống như ngọn gió thổi cho
con mát, như mẹ đã luôn làm việc cực nhọc để nuôi con khôn lớn

21



mong cho con sung sướng và hạnh phúc. Sự so sánh đẹp đẽ và sâu
sắc đó cho ta thấy thấm thía hơn về tình mẹ con, làm cho đoạn thơ
hay hơn.
(Phạm Như Xuân – HS tỉnh Vĩnh LongHSG toàn quốc 1994 – 1995)
Nắm vững yêu cầu về cảm thụ văn học THCS, kiên trì rèn luyện
từng bước từ dễ đến khó, nhất định các em sẽ viết được những đoạn
văn hay về cảm thụ văn học, góp phần tích cực vào việc học tốt, học
giỏi môn văn cấp 2.

Chương II
MỘT SỐ BÀI TẬP VỀ CẢM THỤ VĂN HỌC
CHO HỌC SINH LỚP 6, 7 THCS

Để học sinh có nhu cầu giải thoát suy nghĩ, tình cảm qua ngôn
ngữ và các em không có cảm giác bất lực trước tác phẩm văn học,
giáo viên phải dày công tạo nề nếp cho học sinh trong mỗi giờ văn.
1. Đầu tiên cỏ thể là sự ép buộc học sinh phải nói, phải viết cho đúng
(dù đúng, dù sai).
2. Sau nữa là động viên khích lệ học sinh nghĩ kỹ để nói cho đ3.
Mức độ cao nhất là học sinh biết tự chọn ngôn ngữ để viết, nội dung,
viết, nói hay những điều mình đã hiểu rõ, đã suy nghĩ sâu sắc.
Luyện được khâu này chính là giáo viên đã luyện cho học sinh
những kỹ năng thực hành ứng dụng các kiến thức ngôn ngữ văn học,
chuyển hoá được kiến thức từ tác phẩm thành kiến thức của mình.
- Ở phần này, trong khuôn khổ đề tài cho phép, tôi chỉ đưa ra
một dạng bài một, hai đề bài tiêu biểu có gợi ý, tham khảo hoặc bài

22



làm của học sinh đã được sửa chữa. Tương tự như vậy, giáo viên có
thể tự tạo ra hàng loạt các bài tập với các đoạn, câu văn, thơ hay
trong tác phẩm văn học với những câu hỏi từ dễ đến khó phù hợp với
trình độ năng lực của học sinh. Học sinh làm được bài sẽ dần dần
hứng thú với bộ môn, dần dần tích cực học tập từ đó kết quả học tập sẽ
từng bước được nâng cao.
- Các bài tập ở đề tài này dành cho đối tượng học sinh lớp 6,7
và đầu lớp8.
- Hầu hết dữ liệu sử dụng trong các bài tập được tuyển chọn từ
sách giáo khoa (chương trình THCS hiện hành) có một số bài tập mở
rộng.
- Sau mỗi đề bài có phần gợi ý, giáo viên có thể trình bày theo
trình độ của học sinh (lớp 6, 7, 8) hoặc (lực học yếu, trung bình, khá
…) mà đặt các câu hỏi gợi ý phù hợp.
- Những đoạn tham khảo người viết tuyển chọn từ các sách
tham khảo (đã dẫn) hoặc từ bài làm của học sinh chuyên có nhận xét
sửa chữa.
1. Bài tập tìm hiểu tác dụng của cách dùng từ đặt câu sinh động
Bài tập 1 Các từ láy trong đoạn thơ sau gợi lên trước mắt hình ảnh
chú bé liên lạc sinh động như thế nào và giúp ta cảm nhận được tình
cảm gì của nhà thơ?
“Chú bé loắt choắt
Cái sắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”

23



(Lượm - Tố Hữu – Văn học 6 tập 1)
Đoạn văn tham khảo:
Bốn câu thơ, bốn từ láy, mà mỗi từ đều khắc hoạ một cách sinh
động dáng vẻ và tính tình đáng yêu của chú bé. Chính cái từ láy “loắt
choắt” làm cho cái dáng loắt choắt của chú bé trở lên lanh lợi, làm
cho người ta thấy yêu chứ không thương hại cái dáng gầy gò. Lại
thêm đôi chân thoăn thoắt rõ ràng làm tăng thêm vẻ nhanh nhẹn, hăng
hái trong nhiệm vụ liên lạc của chú. Chú cũng đeo bên sườn một cái
sắc, nhưng chẳng còn đáng yêu nữa nếu cái sắc ấy không xinh xinh.
Nếu tác giả không náy từ “xinh” thì ta chỉ thấy vì chú còn bé thì phải
đeo cái sắc bé cho nó hợp. Khi từ láy “xinh xinh” có mặt trong câu
thơ thì đâu để tả cái sắc bé, mà lại chính là nó góp phần làm hiện lên
sinh động sự thích thú của chú bé được đeo cái sắc, lại có gì hơi tinh
nghịch nữa. Nhưng đẹp hơn tất cả là cái đang “nghênh nghênh” đầy
tự hào mà trong sáng ngây thơ của chú, nếu là “nghênh” thì dễ nghĩ
đến nghênh ngang anh hùng rơm. Bốn từ láy không chỉ giàu chất tạo
hình mà còn gợi lên nhịp điệu nhanh nhẹn, âm điệu vui tươi, nhí
nhảnh chan chứa một tình yêu thương tha thiết.
Bài tập 2: Mở đầu bài thơ “Từ Cu Ba”, Tố Hữu viết:
“Anh viết cho em tự đảo này
Cu Ba hòn đảo Lửa, đảo Say
Ở đây say thật, say trời đất
Sóng biển say cùng rượu mật, say”

24


Từ “Lửa” và từ “Say” được hiểu theo nghĩa như thế nào? do
tính nhiều nghĩa, khổ thơ góp phần diễn ta điều gì về Cu Ba và về
cảm xúc của tác giả khi đặt chân tới đất nước này?

+ Gợi ý:
- Nghĩa từ “Lửa”
 Hòn đảo Cu Ba luôn rực nắng
 Hòn đảo rực lửa cách mạng của châu Mỹ và nhân dân Cu
Ba.
- Nghĩa của từ “Say”:
 Nhân dân Cu Ba say sưa xây dựng đất nước
 Người Cu Ba sôi động, nồng nàn
 Người và cảnh đẹp Cu Ba luôn làm say lòng du khách.
Cảm nhận của họ sinh:
Từ “Lửa” và từ “Say” được hiểu theo nhiều nghĩa. Từ “Lửa”
theo em có nghĩa là hòn đảo “Lửa” Cu Ba luôn luôn rực nắng và cũng
có nghĩa là hòn đảo Cách mạng của nhân dân Cu Ba và Châu Mỹ
luôn bốc cao như ngọn lửa đang rực cháy … Từ “Say” nghĩa là say
sưa nhân dân Cu Ba say sưa xây dựng đất nước. Con người Cu Ba sôi
động như điệu nhảy Cha Cha Cha, đối với bạn bè năm châu, nhất là
đối với nhân dân Việt Nam luôn nồng nàn say đắm. Con người và
phong cảnh Cu Ba với “trời tơ”, “biển ngọc”, “sóng biển”, “rượu
mật” … làm say lòng du khách tới Cu Ba … Do tính nhiều nghĩa,
khổ thơ đã góp phần diễn tả sống động hình ảnh đất nước Cu Ba xinh
đẹp và cảm xúc say sưa nồng nhiệt, chân thành của tác giả khi đặt
chân tới đất nước này.

25


×