Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Xây dựng hệ thống bài tập trong phân môn luyện từ và câu lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 78 trang )

Lêi c¶m ¬n
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hướng dẫn của các thầy cô
giáo trong khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non đã tạo điều kiện cho tôi
trong quá trình làm khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Nga, cô đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để tôi hoàn thành khóa luận này.
Xin được gửi lời cảm ơn tới các bạn sinh viên đã giúp đỡ để tôi có thể
thực hiện khóa luận thành công.
Trong khi thực hiện đề tài này, do thời gian và năng lực có hạn nên
không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế, chúng tôi rất mong nhận được sự
tham gia đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn
chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đồng Hới, tháng 05 năm 2018
Tác giả

Trần Thị Phương Ly


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực, khách quan và chưa có ai công
bố trong bất kì một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả khóa luận

Trần Thị Phương Ly


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
A. MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 5
5.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 6
8. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 6
B. NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI ............................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI ........................................... 7
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 7
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài ......................................................... 7
1.1.1.1. Khái niệm bài tập ................................................................................. 7
1.1.1.2. Xây dựng hệ thống bài tập ................................................................... 8
1.1.1.4. Khái niệm về từ tiếng Việt ................................................................... 9
1.1.1.5. Khái niệm về câu tiếng Việt ............................................................... 12
1.1.2. Ý nghĩa của bài tập Luyện từ và câu đối với học sinh lớp 3 ................ 15
1.1.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học .......................................... 16
1.1.4. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 3 ....................................................... 18
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 18
1.2.1. Nội dung, chương trình của phân môn Luyện từ và câu lớp 3 ............. 18


CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG BÀI TẬP LUYỆN TỪ VÀ CÂU TRONG ......... 21
SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT 3 ............................................................ 21

2.1. Bài tập nhận diện. ..................................................................................... 21
2.2. Bài tập vận dụng....................................................................................... 36
2.3. Bài tập sáng tạo. ....................................................................................... 46
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP LUYỆN TỪ VÀ CÂU
CHO HỌC SINH LỚP 3 ................................................................................. 51
3.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập trong phân môn Luyên từ và câu ở
lớp 3 ................................................................................................................. 51
3.2. Xây dựng hệ thống bài tập trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3 ..... 53
3.2.1. Hệ thống bài tập nhận diện.................................................................... 53
3.2.2. Hệ thống bài tập vận dụng .................................................................... 58
3.2.3. Hệ thống bài tập sáng tạo ...................................................................... 63
C. KẾT LUẬN ................................................................................................ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 71


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu

Chú giải

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

LTVC


Luyện từ và câu

SGK

Sách giáo khoa

[10, tr. 127]

Tài liệu số 10 trang 127

TV

Tiếng Việt

TH

Tiểu học


A. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Tiểu học là bậc học nền tảng, cung cấp những cơ sở ban đầu về tri thức,
kĩ năng cho cho học sinh. Những tri thức, kĩ năng này chính là hành trang cần
thiết giúp các em có thể học tốt hơn ở những bậc học sau. Mục tiêu của giáo
dục Tiểu học hiện nay là đào tạo con người và phát triển toàn diện. Do đó,
học sinh Tiểu học được học tập nhiều môn học, trong đó môn Tiếng Việt là
môn quan trọng bậc nhất trong chương trình Tiểu học. Đây cũng là môn học
thực hành giúp hình thành và phát triển ở học sinh bốn kĩ năng cơ bản là
nghe, nói, đọc, viết. Thông qua các bài tập trong môn Tiếng Việt các em có

những kĩ năng giao tiếp phù hợp với lứa tuổi và thực tiễn cuộc sống. Ngoài
phân môn Luyện từ và câu, môn Tiếng Việt còn gồm nhiều phân môn khác
như Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập viết và Tập làm văn. Các em được
nâng cao hiểu biết, cảm nhận cái hay, cái đẹp của cuộc sống, biết quý trọng
những nét đẹp của ngôn ngữ mẹ đẻ. Góp phần hình thành và bồi dưỡng tình
yêu tiếng Việt, giúp các em có thói quen giữ gìn và phát huy sự trong sáng
của ngôn ngữ dân tộc.
Hình thành năng lực về từ và câu cho học sinh Tiểu học nói chung và
học sinh lớp 3 nói riêng là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của dạy
Luyện từ và câu ở bậc học này. Muốn thực hiện được mục tiêu này, người
giáo viên phải mở rộng và phát triển khả năng dùng từ đặt câu cho học sinh.
Bởi vậy, hệ thống hóa các bài tập Tiếng Việt là việc làm hết sức cần thiết.
Trong phân môn Luyện từ và câu, nội dung rèn luyện về dùng từ đặt câu chủ
yếu thông qua các bài tập nhưng thực tế cho thấy các bài tập trình bày rải rác,
chưa được hệ thống hóa một cách khoa học gây khó khăn cho việc dạy học
phân theo nhóm trình độ.

1


Đến nay đã có một số sách tham khảo cho giáo viên, phụ huynh và học
sinh tuy nhiên chưa có tài liệu nào đề cập đến vấn đề hệ thống hóa các bài tập
trong sách giáo khoa làm cơ sở để xây dựng và phát triển khả năng dùng từ và
câu cho các em.
Là một sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học, tôi nhận thấy việc hệ thống
hóa các bài tập một cách rõ ràng và cụ thể góp phần phục vụ cho nhiệm vụ
học tập, chuẩn bị hành trang về kiến thức, kĩ năng để sau này dạy học tốt hơn.
Chính vì những lí do trên tôi lựa chọn đề tài: "Xây dựng hệ thống bài
tập trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3" làm đề tài khóa luận của mình.
Với hi vọng đóng góp một phần nhỏ vào việc cung cấp tài liệu làm cơ sở cho

giáo viên, xây dựng hệ thống bài tập mở rộng và phát triển khả năng dùng từ
đặt câu cho học sinh trong dạy học Tiếng Việt.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tiếng Việt không chỉ là môn học công cụ giúp học sinh học tập các môn
học khác tốt hơn mà đây còn là môn học thực hành, giúp học sinh vân dụng
kiến thức, kĩ năng vào cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, để giúp học sinh học tốt
môn Tiếng Việt, đặc biệt là các dạng bài tập về từ và câu trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 3 nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và cho ra đời những
cuốn tài liệu để giáo viên, phụ huynh, học sinh tham khảo như:
Trong cuốn Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 3, NXB Giáo dục (2004),
Nguyễn Minh Thuyết đã đề cập tới nhiều vấn đề xoay quanh phân môn Luyện
từ và câu thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra
một số kiểu bài tập rèn luyện về từ và câu lớp 3, kèm theo hướng dẫn cách
dạy những bài tập đó. Đóng góp của công trình này là đã giải đáp được một số
nội dung trong chương trình TV 3 mà nhiều giáo viên còn băn khoăn, thắc
mắc. Tuy nhiên, những bài tập đưa ra làm ví dụ minh hoạ được lấy từ sách
giáo khoa nên đều là những bài tập quen thuộc với cả giáo viên và học sinh.

2


Trong cuốn Luyện từ và câu Tiếng Việt 3, NXB Đại học Sư phạm
(2005), Bùi Minh Toán, Viết Hùng đã gợi ý cách giải bài tập trong chương
trình học một cách tương đối rõ ràng, dễ hiểu. Đặc biệt cuốn sách này đã đưa
thêm hệ thống một bài tập hỗ trợ cho từng bài học để giáo viên có thể sử
dụng trong giờ dạy, khiến tiết học thêm sinh động và ít lệ thuộc sách giáo
khoa hơn. Song các bài tập được trình bày chưa thực sự có hệ thống.
Cuốn Luyện từ và câu, NXB Giáo Dục (2009) của hai tác giả Đặng
Mạnh Thường, Nguyễn Thị Hạnh. Cuốn sách này gồm có 2 chương: Chương
1 trình bày một số điểm cần lưu ý về phần luyện từ và câu ở sách Tiếng Việt

3, chương 2 trình bày cách giải bài tập luyện từ và câu ở sách Tiếng Việt 3
và bài tập bổ sung. Ở chương 1, ngoài mục đích và yêu cầu chung các tác giả
đã chỉ rõ mức độ yêu cầu trong từng nội dung LTVC. Chẳng hạn, về mức độ
yêu cầu của nội dung luyện từ, học sinh lớp 3 phải nắm được khoảng 400
đến 450 từ thuộc 15 chủ điểm trong sách học; biết nghĩa của một số thành
ngữ, tục ngữ, nhận biết một số biện pháp tu từ phổ biến như so sánh, nhân
hóa; nhận biết sâu hơn ý nghĩ chung của từng lớp từ đã học ở lớp 2... Về mức
độ yêu cầu của nội dung luyện câu, học sinh lớp 3 phải biết được câu trong
lời nói và câu trong văn bản phải tương đối trọn vẹn về nghĩa, phải nhận biết
được dấu hiệu mở đầu và dấu hiệu kết thúc của câu. Ở chương 2, các tác giả
trình bày cách giải bài tập luyện từ và câu ở Tiếng Việt 3 và bài tập bổ sung.
Các bài tập trong sách giáo khoa được cuốn sách hướng dẫn cách giải tương
đối kĩ càng. Hệ thống bài tập bổ sung cũng phù hợp với nội dung chương
trình và trình độ học sinh. Song hệ thống bài tập ở đây chỉ dừng lại ở những
bài tập quen thuộc, ít thấy dạng bài tập nâng cao và dạng bài tập sử dụng trò
chơi ngôn ngữ để giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện trong giờ
ngoại khóa.
Hai cuốn Bài tập thực hành Tiếng Việt 3, Nguyễn Thị Hạnh (2008),
NXB Đại học sư phạm Hà Nội và Bài tập trắc nghiệm Tiếng Việt 3, Lê
3


Phương Liên (2008), NXB Đại học sư phạm, Hồ Chí Minh các tác giả đều
xây dựng hệ thống bài tập theo từng tuần. Các văn bản được sử dụng trong
các công trình này phần lớn đều là văn bản trong sách giáo khoa tuy nhiên
phần lớn là bài tập ở phân môn Tập đọc.
Đã có những công trình nghiên cứu chú trọng việc xây dựng hệ thống bài
tập nhưng số lượng còn hạn chế, kiểu bài tập chưa phong phú và đa dạng. Đặc
biệt chưa có một công trình nghiên cứu nào hệ thống hóa các bài tập trong
SGK một cách rõ ràng làm tư liệu cho giáo viên và học sinh lớp 3.

Trước nhu cầu cấp thiết của giáo viên và yêu cầu cung cấp kiến thức của
học sinh, tôi mạnh dạn xây dựng hệ thống bài tập trong phân môn Luyện từ và
câu lớp 3 trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu của
những người đi trước.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài và thực tế dạy - học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3, tôi
thực hiện đề tài này với mục đích xây dựng được hệ thống bài tập một cách
tương đối toàn diện về hình thức cũng như nội dung để làm tài liệu tham khảo
cho giáo viên và học sinh khi dạy - học môn Tiếng Việt trong chương trình
lớp 3, góp phần nâng cao chất lượng dạy - học môn này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đưa ra một số nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Tìm hiểu nội dung chương trình phân môn Luyện từ và câu trong sách
Tiếng Việt 3.
- Tìm hiểu cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài làm căn cứ xây dựng hệ
thống bài tập.
- Xác định tiêu chí và nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập.
- Xây dựng một hệ thống bài tập phong phú, đa đạng trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 3.
4


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là hệ thống bài tập trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 3.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu trong nội dung chương trình phân môn
Luyện từ và câu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3.

- Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu và khảo sát tại
trường Tiểu học Quảng Minh A, Ba Đồn, Quảng Bình.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Để nghiên cứu đề tài này, tôi tham
khảo và nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3,
nghiên cứu tham khảo sách giáo viên, đọc và hệ thống hóa các tài liệu có liên
quan đến cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu và việc phân loại các dạng bài
tập trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3. Bên cạnh đó, tôi còn nghiên cứu
các tài liệu, văn bản làm tiền đề cho việc xây dựng hệ thống bài tập Tiếng
Việt cho học sinh lớp 3 sao cho thật phù hợp và khoa học để khi giáo viên áp
dụng và thực tế dạy học phát huy được hiệu quả của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
được vận dụng trong quá trình quan sát, dự giờ để tìm hiểu về chất lượng,
hoạt động, xu thế dạy - học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3, từ đó rút
ra những nhận định về thực trạng dạy học môn Tiếng Việt để có phương
hướng trong việc hệ thống bài tập phù hợp với học sinh lớp 3.

5


- Phương pháp toán học: So sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp những
vấn đề lí luận và thực tiễn từ đó rút ra kết luận. Thống kê, phân loại các dạng
bài tập để đưa ra những kết luận cần thiết của đề tài.
7. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa các dạng bài tập của phân môn Luyện từ và câu trong
sách giáo khoa Tiếng Việt 3.
- Xây dựng hệ thống bài tập trong phân môn Luyện từ cà câu lớp 3 là tài
liệu tham khảo bổ ích cho các bạn sinh viên khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm

non, giáo viên đang giảng dạy ở trường Tiểu học.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận gồm có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài.
- Chương 2: Hệ thống bài tập Luyện từ và câu trong sách giáo khoa
Tiếng Việt lớp 3.
- Chương 3: Xây dựng hệ thống bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 3.

6


B. NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm bài tập
Xoay quanh khái niệm về bài tập cũng có những quan niệm, định nghĩa
khác nhau. Theo Nguyễn Hữu Châu: “Bài tập là những nhiệm vụ, công việc
được giao cho mỗi nhóm hoặc mỗi cá nhân trong khuôn khổ một chương trình
học tập nhằm rèn luyện kĩ năng hay tăng cường kiến thức cho người học”.
Trong sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo... thuật ngữ bài tập xuất
hiện rất nhiều như: bài tập Toán, bài tập Tiếng Việt, bài tập Tiếng Anh... Theo
nghĩa này, bài tập được hiểu là dạng bài học mô phỏng lại kiến thức và thao
tác thực hành đã được giới thiệu nhằm mục đích vận dụng lí thuyết và rèn
luyện kĩ năng cần thiết theo chương trình môn học. Theo đó, bài tập được sử
dụng chủ yếu trong hoạt động thực hành mà nhiệm vụ giải bài tập là một hình
thức thực hành.
Tuy nhiên, trước xu hướng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy
cao độ tính tích cực, tự giác, độc lập, sáng tạo trong nhận thức của người học

thì phạm vi ứng dụng của bài tập rộng hơn nhiều. Nhiều quan điểm hiện nay
cho rằng, bài tập không chỉ được dùng với mục đích giúp người học vận dụng
những tri thức đã học, rèn luyện kĩ năng tương ứng mà còn giúp họ hình
thành tri thức mới và phát triển các kĩ năng khác.
Bài tập Tiếng Việt được coi như là một trong những đơn vị nội dung
định hướng cho việc dạy học TV. Thông qua việc thiết kế bài tập Tiếng Việt
và hướng dẫn học sinh làm bài tập của giáo viên, quá trình làm bài tập của
học sinh, GV có thể kiểm tra kết quả hoạt động giảng dạy của mình. Học sinh
củng cố được những tri thức vừa tiếp nhận và nắm vững những các kĩ năng
dùng từ đặt câu.
7


Thực hành với bài tập TV là một khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định
đối với việc hình thành kĩ năng ứng dụng TV trong đời sống của học sinh. Bởi
vậy, hệ thống bài tập được xây dựng phải phong phú, đa dạng, thiết thực và hiệu
quả.
1.1.1.2. Xây dựng hệ thống bài tập
Hệ thống bài tập là các bài tập được sắp xếp một cách khoa học theo
những căn cứ nhất định.
Hệ thống bài tập trong phân môn Luyện từ và câu là một tập hợp gồm
các dạng bài tập được sắp xếp một cách khoa học, hệ thống. Có nhiều cách
phân loại bài tập dựa trên những cơ sở khác nhau: căn cứ vào hình thức thiết
kế (bài tập trắc nghiệm, bài tập tự luận); căn cứ vào nội dung chủ đề (bài tập
chủ đề 1, bài tập chủ đề 2, bài tập chủ đề 3...); căn cứ vào mục tiêu dạy học
(bài tập hình thành, bài tập rèn luyện, bài tập phát triển); căn cứ vào các mạch
kiến thức, kĩ năng (bài tập nhận diện, phân loại, phân tích, bài tập xây dựng,
tổng hợp).
Dựa theo yêu cầu về năng lực, trình độ của học sinh ta có thể chia hệ
thống bài tập tiếng Việt thành 3 dạng: bài tập nhận diện, bài tập vận dụng, bài

tập sáng tạo.
- Bài tập nhận diện giúp học sinh nhận ra hiện tượng về từ và câu cần
nghiên cứu. Ở mức yêu cầu thấp, những hiện tượng này được nêu sẵn trong
các ngữ liệu khác. Ở mức yêu cầu cao hơn, học sinh phải tự tìm các hiện
tượng về từ, câu vừa học trong vốn Tiếng Việt của mình. Đây củng chính là
kiểu bài tập hệ thống hóa vốn từ trong các bài tập làm giàu vốn từ.
- Bài tập vận dụng là dạng bài tập yêu cầu học sinh vận dụng những kiến
thức đã học để giải quyết các bài tập, tạo điều kiện cho học sinh sử dụng
những đơn vị từ ngữ, ngữ pháp đã học vào hoạt động nói năng của mình.

8


- Bài tập sáng tạo là dạng bài tập yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến

thức một cách linh hoạt trong những tình huống mới chứ không phải là một
tình huống học tập chỉ tồn tại trong trường học. Vì vậy, bài tập đặt câu sáng
tạo chỉ có thể thực hiện khi học sinh có trình độ cao và có ý cần diễn đạt.
Tuy nhiên, xác định sự khác biệt của các kiểu bài tập này chỉ có ý nghĩa
tương đối bởi ranh giới giữa chúng không thật rạch ròi. Lí do là các yêu cầu
của một bài tập thường có sự đan xen, lồng ghép vào nhau, nhất là đối với hai
kiểu bài tập vận dụng và sáng tạo. Hơn thế, mối quan hệ giữa vận dụng và
sáng tạo trong thực tế lại rất khăng khít vì vận dụng là cơ sở, tiền đề để sáng
tạo và ở một góc độ nhất định thì sáng tạo cũng là một cái đích để vận dụng
hướng tới.
Hệ thống bài tập cần được xây dựng sao cho có khả năng giúp học sinh
thực hiện đến mức thành thục các thao tác nói năng. Nó phải phản ánh được
một cách bao quát cơ chế lĩnh hội và sản sinh lời nói.
1.1.1.4. Khái niệm về từ tiếng Việt
Theo Đỗ Hữu Châu định nghĩa về từ được hiểu như sau:

"Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang
những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất
định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong Tiếng Việt và
nhỏ nhất để tạo câu" [4, tr.16].
Định nghĩa này cho ta thấy, so với từ của tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng
Pháp,... từ của Tiếng Việt có tính cố định, bất biến ở mọi vị trí, mọi quan hệ
và chức năng trong câu. Tính cố định, bất biến về âm thanh là điều kiện hết
sức quan trọng giúp ta nhận diện từ một cách dễ dàng. Song cũng vì tính cố
định và bất biến mà bản thân hình thức ngữ âm của từ tiếng Việt không chứa
đựng những dấu hiệu chỉ rõ đặc điểm ngữ pháp của chúng. Nói cách khác, ở
tiếng Việt, "đặc điểm ngữ pháp của từ không biểu hiện trong nội bộ từ mà
biểu hiện chủ yếu ở ngoài từ, trong tương quan của nó với các từ khác trong
câu" [4, tr.21].
9


* Các thành phần ý nghĩa của từ:
Tuỳ theo các chức năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ
có những thành phần ý nghĩa cơ bản sau đây (những thành phần ý nghĩa này
được Đỗ Hữu Châu phân biệt rất kĩ):
- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.
- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.
Ba thành phần ý nghĩa trên được gọi chung là ý nghĩa từ vựng. Ý nghĩa
từ vựng thường được đối lập với thành phần ý nghĩa thứ tư, đó là:
- Ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp.
Các ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp có tính ổn định, bền vững
tương đối. Chúng không phải chỉ do quan hệ giữa từ với những yếu tố ngoài
ngôn ngữ mà có. Chúng còn do quan hệ về ý nghĩa giữa từ này với từ khác
trong ngôn ngữ quy định nên.

Sự vật, hiện tượng, đặc điểm... ngoài ngôn ngữ được từ biểu thị tạo nên ý
nghĩa biểu vật của từ. Nói cách khác, "ý nghĩa biểu vật là sự phản ánh sự vật,
hiện tượng... trong thực tế vào ngôn ngữ" [4, tr.108]. Ý nghĩa biểu vật không
phải là sự vật, hiện tượng y như chúng có thực trong thực tế, chúng chỉ bắt
nguồn từ đó mà thôi. Nói như vậy có nghĩa là nghĩa biểu vật của từ không
đồng nhất với sự vật, hiện tượng, thuộc tính, hành động... mà chỉ gợi ra sự
vật, hiện tượng, thuộc tính, hành động.
Nghĩa biểu niệm của từ "là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng,
khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét
nghĩa có những quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một hoặc một số ý
nghĩa biểu vật của từ" [4, tr. 118].
Nghĩa biểu niệm là sự liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm).
Nghĩa biểu thái là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của
người nói.
10


Sự vật, hiện tượng được biểu thị trong ngôn ngữ đều là những sự vật,
hiện tượng đã được nhận thức, thể nghiệm bởi con người. Do đó cùng với tên
gọi, con người thường gửi kèm những cách đánh giá của mình.
Tóm lại, ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu thái là các
loại nghĩa tạo nên ý nghĩa từ vựng của từ. Vì từ là một thể thống nhất cho nên
các thành phần ý nghĩa trên là những phương diện khác nhau của cái thể
thống nhất đó. Sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của từ phải là sự hiểu biết thấu
đáo từng mặt một nhưng cũng phải là sự hiểu biết tổng quát về những mối
liên hệ quy định lẫn nhau giữa chúng.
* Khái niệm về trường nghĩa:
Do quá lớn và quá phức tạp, những liên hệ ngữ nghĩa trong từ vựng
không hiện ra một cách trực tiếp giữa các từ lựa chọn một cách ngẫu nhiên.
Những quan hệ về ngữ nghĩa giữa các từ sẽ hiện ra khi đặt được các từ vào

những hệ thống con thích hợp. Có nghĩa là, tính hệ thống về ngữ nghĩa trong
lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ
giữa những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng.
Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những
tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa.
Dựa vào các trường nghĩa, ta có thể phân định một cách tổng quát những
quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa các
trường nghĩa và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng mỗi trường. Nói một
cách khác, mỗi trường nghĩa là một tiểu hệ thống nằm trong hệ thống là từ
vựng của một ngôn ngữ.
Người ta có thể chia hệ thống từ vựng thành các trường nghĩa, tuỳ theo
từng tiêu chí. Có thể chia hệ thống từ vựng thành trường nghĩa biểu vật và
trường nghĩa biểu niệm.
- Trường biểu vật:

11


Trường nghĩa biểu vật "là tập hợp những từ cùng biểu thị một phạm vi
sự vật, hiện tượng thực tế khách quan" [4, tr.172]. Cơ sở để xác lập trường
nghĩa biểu vật là sự đồng nhất nào đó trong ý nghĩa biểu vật của các từ. Ví dụ,
trường nghĩa biểu vật về động vật:
+ Tên các loài: chó, bò, mèo, trâu...
+ Trường nghĩa chỉ bộ phận cơ thể: thân, chân, mỏ, đuôi, mõm...
- Trường nghĩa biểu niệm:
Trường nghĩa biểu niệm là "một tập hợp các từ có chung một cấu trúc
biểu niệm" [4, tr.178].
Căn cứ để phân lập các trường biểu niệm là các ý nghĩa biểu niệm của
từ. Cấu trúc biểu niệm không chỉ riêng cho từng từ mà chung cho nhiều từ. Ví
dụ, nói về trường biểu niệm "vật thể nhân tạo", "thay thế hoặc tăng cường

thao tác lao động", "cầm tay" có thể chia thành các trường nhỏ, chẳng hạn:
+ Dụng cụ để chia, cắt: dao, cưa, búa, rìu, liềm...
+ Dụng cụ để xoi, đục: đục, dùi, khoan...
+ Dụng cụ mài giũa: giũa, bào, đá mài, giấy ráp...
Sự phân lập từ vựng thành trường biểu vật và trường biểu niệm dựa trên
sự phân biệt hai thành phần ngữ nghĩa trong từ. Nó phản ánh hai cách nhìn từ
vựng ở hai góc độ khác nhau. Tuy nhiên, hai loại trường nghĩa này có liên hệ
với nhau: Nếu lấy những nét nghĩa biểu vật trong cấu trúc biểu niệm làm tiêu
chí lớn để tập hợp thì chúng ta có các trường biểu vật. Ngược lại, nếu cần
phân biệt một trường biểu vật thành các trường nhỏ thì lại phải dựa vào các
nét nghĩa khác trong cấu trúc biểu niệm.
Cả trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm đều thuộc loại
trường nghĩa dọc.
1.1.1.5. Khái niệm về câu tiếng Việt
Về định nghĩa câu, từ trước đến nay có trên 300 định nghĩa (theo A.
Akhmanôva - Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học). Từ thời cổ đại, Aristote đã
cho rằng: "Câu là một âm phức hợp có ý nghĩa độc lập mà mỗi bộ phận riêng
biệt trong đó cũng có ý nghĩa độc lập" [1, tr. 11].
12


Tiếp thu và kế thừa ý kiến của những người đi trước, định nghĩa về câu
của Diệp Quang Ban rất cụ thể, ngắn gọn nhưng mang tính khái quát cao:
“Câu là đơn vị của nghiên cứu ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và
bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn
hay thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền
đạt tư tưởng, tình cảm. Câu là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ" [3,
tr.107].
Đỗ Thị Kim Liên đã đưa ra định nghĩa về câu như sau: "Câu là đơn vị
dùng từ đặt ra trong quá trình suy nghĩ, được gắn với những cảnh nhất định

nhằm mục đích thông báo hay thể hiện thái độ đánh giá. Câu có cấu tạo ngữ
pháp độc lập và có ngữ điệu kết thúc" [7, tr. 101].
- Câu được phân tích ra thành nhiều thành phần, trong đó có những thành
phần chính và những thành phần phụ. Thành phần chính gồm chủ ngữ và vị
ngữ. Thành phần phụ gồm trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ, khởi ngữ.
+ Chủ ngữ:
Chủ ngữ là một trong hai bộ phận chính của câu. Chủ ngữ là từ hay cụm
từ làm thành phần chính biểu thị đối tượng được nói đến (cái được thông báo)
có quan hệ với hoạt động, trạng thái, tính chất ở vị ngữ (cái thông báo).
+ Vị ngữ:
Vị ngữ là thành phần chính biểu thị (cái thông báo) của câu. Đó là điều
nói về hành động, trạng thái, tính chất, quan hệ... của người, vật việc được
nhắc tới ở chủ ngữ [2, tr. 226].
Ngoài hai thành phần chính trên trong câu còn có các thành phần phụ
như: trạng ngữ, đề ngữ, hô ngữ, chú ngữ, liên ngữ, phụ ngữ, định ngữ, bổ ngữ.
- Theo cấu tạo ngữ pháp câu được chia thành 2 loại: câu đơn, câu ghép.
+ Câu đơn bao gồm câu đơn bình thường (có nòng cốt là kết cấu chủ vị) và câu đặc biệt (không có cơ sở để phân tích theo kết cấu chủ vị).

13


Câu đơn bình thường (còn gọi là câu đơn hai thành phần hoặc câu hai
trung tâm cú pháp) có nòng cốt là một cụm chủ vị.
Câu đơn đặc biệt (còn được gọi là câu đơn một thành phần hoặc câu một
trung tâm cú pháp, có nòng cốt là một từ, cụm từ chính phụ hay cụm từ đẳng
lập. Loại câu này không có cơ sở để phân tích theo kết cấu chủ - vị.
+ Câu ghép được chia thành câu ghép không dùng từ ngữ làm phương
tiện liên kết các vế câu và câu ghép có dùng từ ngữ làm phương tiện liên kết
các vế câu.
Câu ghép không dùng từ ngữ làm phương tiện liên kết các vế câu: ở kiểu

câu ghép này, quan hệ giữa các vế câu không được đánh dấu bằng từ ngữ liên
kết mà được thể hiện chủ yếu qua trật tự các vế câu. Trong những câu ghép
kiểu này, hai vế câu được ngăn cách với nhau, dấu chấm phẩy, dấu hai chấm.
Câu ghép có dùng từ ngữ làm phương tiện liên kết các vế câu: các vế câu
được nối với nhau bằng quan hệ từ, cặp quan hệ từ cặp phụ từ hoặc cặp đại từ
hô ứng [2, tr. 238].
- Theo mục đích nói người ta lại chia thành: câu trần thuật, câu nghi
vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán.
+ Câu trần thuật hay còn gọi là câu kể. Dùng để miêu tả, nhận định về
một sự kiện, một hiện tượng. Dấu hiệu nhận biết là cuối câu kể thường ghi
dấu chấm (.).
+ Câu nghi vấn (hay còn gọi là câu hỏi) là kiểu câu có nội dung nêu điều
hoài nghi hay thắc cần được giải đáp nội dung đó bằng một câu trả lời, cuối
câu thường có dấu chấm hỏi (?).
+ Câu cầu khiến là câu nhằm đòi hỏi (người đối thoại hay bản thân người
nói được giả định ở ngôi giao tiếp thứ hai) thực hiện một hành động hay một
chuyển biến. Nội dung hành động, chuyển biến biểu hiện ở nòng cốt câu
nhằm vào đối tượng phải thực hiện hành động thường là vai đối thoại (ngôi
thứ hai) hoặc trong một số trường hợp, chính là người nói (nhưng đã được giả
định là ngôi giao tiếp thứ hai), cũng có khi bao gồm cả người đối thoại và
người nói. Khi viết thường kết thúc bằng dấu chấm than (!).
14


+ Câu cảm thán dùng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm. Dấu hiệu nhận biết có
những từ ngữ cảm thán như: ôi, than ôi, hỡi ơi, chao ơi, xiết bao, biết chừng
nào,… Cuối câu thường kết thúc bằng dấu chấm than (!).
1.1.2. Ý nghĩa của bài tập Luyện từ và câu đối với học sinh lớp 3
Phân môn Luyện từ và câu là một phân môn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng ở trường Tiểu học. Ngoài việc xây dựng thành phân môn độc lập, các

kiến thức, kĩ năng về từ và câu còn được tích hợp trong những phân môn còn
lại của môn Tiếng Việt và cả trong các môn học khác.
Việc dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú
vốn từ cho học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và
câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể
hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời giúp cho học sinh có khả năng
hiểu được các câu nói của người khác.
Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói, viết thành câu và
có ý thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn
hoá. Ở cấp Tiểu học phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ làm phong phú
vốn từ và tích cực hóa vốn từ cho học sinh: cung cấp một lượng từ ngữ nhất
định theo quy định của chương trình, giúp học sinh hiểu được nghĩa của từ
trong hệ thống, hiểu đúng nghĩa của nghĩa từ trong hoạt động giao tiếp của
mình. Học sinh có ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt trong văn hóa giao
tiếp để trẻ tích lũy những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt. Các em biết sử
dụng các từ ngữ phù hợp để giao tiếp với bố mẹ, bạn bè, thầy cô... Đó cũng
chính là đào tạo ra con người biết giao tiếp trong đời sống.
Sử dụng từ và câu tiếng Việt giúp phát triển trí tưởng tượng và năng lực
tư duy cho học sinh. Thông qua các bài thơ, bài văn... các em hiểu được tác
dụng của cách dùng từ đặt câu, sử dụng các dấu câu để viết đúng, viết hay và
vận dụng các biện pháp tu từ. Từ đó các em có thể trau dồi kĩ năng vận dụng
từ ngữ để đưa vào những ngữ cảnh phù hợp. Hơn thế nữa, khi có vốn từ dồi
dào các em sẽ tư duy chính xác và chặt chẽ hơn. Nếu không có vốn từ các em
sẽ không có đủ điều kiện thể hiện một cách sinh động ý nghĩ của mình.
15


Bồi dưỡng cho các em biết thưởng thức cái đẹp, biết thể hiện vui, buồn,
yêu, ghét của con người. Nhờ đó mà phân biệt được xấu, đẹp, thiện, ác để
hoàn thiện nhân cách bản thân. Phân môn Luyện từ và câu còn giáo dục cho

người học những tư tưởng tốt đẹp: yêu thích môn học, biết quý trọng và gìn
giữ sự giàu đẹp của ngôn ngữ dân tộc.
1.1.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học
a) Chú ý của học sinh Tiểu học.
- Khái niệm chú ý: Chú ý là một trạng thái tâm lí của học sinh giúp các
em tập trung vào một hay một nhóm đối tượng nào đó để phản ánh các đối
tượng này một cách tốt nhất. Lứa tuổi tiểu học có 2 loại chú ý: chú ý không
chủ định và chú ý có chủ định.
- Đặc điểm chú ý của học sinh Tiểu học: Chú ý không chủ định có trước
từ lúc 6 tuổi và tiếp tục phát triển, những gì mới lạ, hấp dẫn dễ dàng gây chú
ý không chủ định của học sinh. Do có sự chuyển hóa giữa hai loại này nên
khi học sinh chú ý không chủ định, giáo viên đưa ra câu hỏi để hướng học
sinh vào nội dung bài học thì chú ý không chủ định chuyển hóa thành chú ý
có chủ định. Chú ý có chủ định ở giai đoạn này được hình thành và phát triển
mạnh. Sự hình thành loại chú ý này là đáp ứng nhu cầu hoạt động học, ở giai
đoạn đầu cấp chú ý có chủ định hình thành nhưng chưa ổn định, chưa bền
vững.
b) Trí nhớ của học sinh Tiểu học.
- Khái niệm trí nhớ: Trí nhớ là quá trình tâm lí giúp học sinh ghi lại, giữ
lại những tri thức cũng như cách thức tiến hành hoạt động học mà các em
tiếp thu được khi cần có thể nhớ lại, nhận lại. Có hai loại trí nhớ: trí nhớ có
chủ định và trí nhớ không chủ định.
- Đặc điểm trí nhớ của học sinh Tiểu học: Cả hai loại trí nhớ đều được
hình thành và phát triển ở học sinh tiểu học. Do yêu cầu hoạt động học trí
nhớ có chủ định hình thành và phát triển, học sinh phải ghi nhớ công thức,
16


quy tắc, định nghĩa, khái niệm... để vận dụng giải bài tập hoặc tiếp thu tri
thức mới, ghi nhớ này buộc học sinh phải sử dụng cả hai phương pháp ghi

nhớ có máy móc và ghi nhớ có chủ định.
c) Tưởng tượng của học sinh.
- Khái niệm tưởng tượng: Tưởng tượng của học sinh là một quá trình
tâm lí nhằm tạo ra các hình ảnh mới dựa vào các hình ảnh đã biết. Ở học sinh
tiểu học có 2 loại tưởng tượng: tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo.
- Đặc điểm tưởng tượng của học sinh tiểu học: Tính có mục đích, có chủ
định của tưởng tượng học sinh tiểu học tăng lên rất nhiều so với trước 6 tuổi.
Do yêu cầu của hoạt động học, học sinh muốn tiếp thu tri thức mới thì phải
tạo cho mình các hình ảnh tưởng tượng.
d) Tư duy của học sinh Tiểu học.
- Khái niệm tư duy của học sinh Tiểu học: Tư duy của học sinh tiểu học
là quá trình các em hiểu được, phản ánh được bản chất của đối tượng của các
sự vật hiện tượng được xem xét nghiên cứu trong quá trình học tập của học
sinh. Có 2 loại tư duy: tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng.
- Đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học: Do hoạt động học được hình
thành qua hai giai đoạn nên tư duy của học sinh cũng được hình thành qua
hai giai đoạn.
+ Giai đoạn 1: Tư duy cụ thể vẫn tiếp tục hình thành và phát triển, tư
duy trừu tượng bắt đầu hình thành. Tư duy cụ thể được thể hiện rõ nhất ở lớp
1, lớp 2 nghĩa là học sinh tiếp thu tri thức mới phải tiến hành các thao tác với
vật thật hoặc các hình ảnh trực quan.
+ Giai đoạn 2: Tư duy trừu tượng bắt đầu chiếm ưu thế so với tư duy cụ
thể, nghĩa là học sinh tiếp thu tri thức của các môn học bằng cách tiến hành
các thao tác tư duy với ngôn ngữ, với các loại kí hiệu quy tắc.

17


1.1.4. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 3
Ở lứa tuổi Tiểu học chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 là ở lứa tuổi lớp 1,

2, 3; giai đoạn hai là lớp 4, 5. Giai đoạn một được xem là giai đoạn đầu của
bậc tiểu học, giai đoạn 2 là giai đoạn sau của bậc TH. Giai đoạn đầu của bậc
TH là giai đoạn mà học sinh còn thiên về tư duy cụ thể, cảm tính. Tuy vậy,
học sinh lớp 3 là lớp cuối của giai đoạn này vì vậy học sinh đang chuyển dần
từ tư duy cảm tính, cụ thể sang trừu tượng, khái quát hơn. Bên cạnh đó, trí
tưởng tượng của học sinh lớp 3 được hình thành và phát triển qua quá trình
học tập. Tưởng tượng, tái tạo từng bước được hoàn thiện gắn liền với những
hình tượng đã tri giác trước, hoặc tạo ra những hình tượng phù hợp với
những điều mô tả, tranh vẽ, sơ đồ... Như vậy, biểu tượng của tưởng tượng
dần trở nên hiện thực hơn. Tưởng tượng của học sinh đã mất dần và thoát
khỏi ảnh hưởng của ấn tượng trực tiếp. Tưởng tượng của học sinh gắn liền
với sự phát triển ngôn ngữ và tư duy. Trong dạy học ở TH, giáo viên cần rèn
luyện và phát triển trí tưởng tượng cho các em thông qua hình thành biểu
tượng. Giáo viên cần sử dụng lời nói, cử chỉ, điệu bộ như một phương tiện
trực quan. Ngôn ngữ phải chính xác, giàu nhạc điệu, tình cảm; đặc biệt cần
sử dụng đồ dùng dạy học, tài liệu dạy học phong phú, sinh động. Điều này
một lần nữa khẳng định vai trò của việc hệ thống các bài tập về từ và câu
trong viêc hình thành và phát triển tâm lí học sinh. Tuy nhiên cùng một lứa
tuổi, mỗi em lại có những tư duy và đặc điểm tâm lí riêng vì vậy người giáo
viên phải có phương pháp và hệ thống các dạng bài tập phù hợp để phát triển
tối đa khả năng của học sinh.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung, chương trình của phân môn Luyện từ và câu lớp 3
Môn Tiếng Việt có 6 phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ
và câu, Tập viết, Tập làm văn. Phân môn Luyện từ và câu được dạy một tuần
1 tiết.
18


Nội dung chính của phân môn Luyện từ và câu ở đây là: Mở rộng vốn từ

(theo chủ điểm), từ loại, rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu, một số kiểu câu
được phân loại theo mục đích nói, một số biện pháp tu từ (so sánh, nhân hoá).
Tất cả các tiết học luyện từ và câu trong sách Tiếng Việt 3 không có những
bài học dạy riêng kiến thức lý thuyết về từ và câu mà tất cả các tri thức về từ
và câu đều được hình thành và củng cố thông qua việc dạy học sinh giải các
bài tập.
Chương trình sách giáo khoa có nội dung dạy học bắt đầu từ kì một lớp
1, mỗi tuần gồm 5 tiết ứng với 5 bài tập đọc (có 3 bài đọc thêm).
Ở lớp 2,3,4,5 chương trình cả năm đều gồm 35 tuần, sách giáo khoa in
thành hai tập. Mỗi tuần ở lớp 3 có 1 tiết Luyện từ và câu, 1 tiết Tập làm văn.
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 có 15 chủ điểm, mỗi chủ điểm trong 2 tuần
(riêng chủ điểm''Ngôi nhà chung" trong 3 tuần).
Cũng như ở các lớp dưới, các chủ điểm xoay quanh những lĩnh vực gần
gũi với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của các em, gồm:
Tập 1 gồm 8 chủ điểm, học trong 18 tuần:
- Măng non (tuần 1, 2)
- Mái ấm (tuần 3, 4)
- Tới trường (tuần 5, 6)
- Cộng đồng (tuần 7, 8)
- Quê hương (tuần 10, 11)
- Bắc - Trung - Nam (tuần 12, 13)
- Anh em một nhà (tuần 14, 15)
- Thành thị và nông thôn (tuần 16, 17)
Tuần 9 dùng để ôn tập giữa học kì 1, tuần 18 ôn tập cuối học kì 1.
Tập 2 gồm 7 chủ điểm, học trong 17 tuần:
- Bảo vệ tổ quốc (tuần 19, 20)
- Sáng tạo (tuần 21, 22)
19



- Nghệ thuật (tuần 23, 24)
- Lễ hội (tuần 25, 26)
- Thể thao (tuần 28, 29)
- Ngôi nhà chung (tuần 30, 31, 32)
- Bầu trời và mặt đất (tuần 33, 34)
Tuần 27 dùng để ôn tập giữa học kì 2, tuần 35 ôn tập cuối học kì 2.
Như vậy, ta thấy bài tập trong sách TV lớp 3 có sự cụ thể, được trình
bày bằng nhiều hình thức tự luận, trắc nghiệm... Chúng được sắp xếp một
cách khoa học, có chủ định, mang tính hướng đích. Đặc biệt tính sư phạm thể
hiện khá rõ trong hình thức diễn đạt của các bài tập. Sự phối hợp nhiều hình
thức, tổ chức nhiều kiểu dạng bài tập và việc sắp xếp bài tập theo trình độ
nhận thức không chỉ tránh nhàm chán mà còn tạo ra hứng thú học tập, sáng
tạo của học sinh.

***
Để hệ thống bài tập có sức thuyết phục và có tính khả thi khóa luận đã
dựa vào những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn nhất định.
Cơ sở lý luận của việc xây dựng hệ thống bài tập trong phân môn Luyện
từ và câu lớp 3 là các khái niệm liên quan đến đề tài như khái niệm: bài tập,
hệ thống bài tập, xây dựng hệ thống bài tập, khái niệm về từ tiếng Việt và câu
tiếng Việt.
Cơ sở thực tiễn chính là nội dung và chương trình phân môn Luyện từ và
câu trong sách Tiếng Việt 3.
Tất cả những cơ sở thực tiễn này đều chỉ là căn cứ vào kết quả điều tra
bước đầu của tác giả, có kế thừa kết quả điều tra của một số nhà nghiên cứu đi
trước.

20



×