Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn từ thực tiễn huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỔNG MÂY HỒNG TRÚNG

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NINH PHƯỚC,
TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỔNG MÂY HỒNG TRÚNG

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NINH PHƯỚC,
TỈNH NINH THUẬN
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 83.80.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. PHẠM VĂN BEO

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi: Đổng Mây Hồng Trúng
Học viên Cao học - Khóa VII.1 (2016 – 2018)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, dữ liệu và một số kiến thức của các tác giả khác trong luận văn này được
sử dụng trung thực, có đầy đủ nguồn dữ liệu đáng tin cậy theo quy định của
một công trình khoa học. Kết qủa nghiên cứu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả luận văn

Đổng Mây Hồng Trúng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ................7
1.1. Khái quát về các biện pháp ngăn chặn .............................................................7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp
dụng các biện pháp ngăn chặn ..............................................................................13
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KIỂM SÁT VIỆC ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ............................................................39
2.1. Qui định của pháp luật về kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ..39
2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn ................................................42

2.3. Thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn.....................................59
2.4. Đánh giá thực tiễn công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn tại
Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận .............................63
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN....................................................................................70
3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn ................70
3.2. Tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát ............................................................73
3.3. Công tác cán bộ ..............................................................................................74
3.4. Cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ ...................................................................75
3.5. Các giải pháp khác .........................................................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BPNC

Biện pháp ngăn chặn

CQĐT


Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

KSND

Kiểm sát nhân dân

KTBC

Khởi tố bị can

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.2.1.1. Số người bị Cơ quan CSĐT bắt trên địa bàn huyện Ninh Phước từ
tháng 12/2013 đến tháng 12/2017 .............................................................................42

Bảng 2.2.1.2. Số người bị VKS bắt trên địa bàn huyện Ninh Phước từ tháng
12/2013 đến tháng 12/2017 .......................................................................................45
Bảng 2.2.13. Số người bị Tòa án bắt tạm giam trên địa bàn huyện Ninh Phước từ
tháng 12/2013 đến tháng 12/2017 .............................................................................46
Bảng 2.2.2. Số người bị tạm giữ trên địa bàn huyện Ninh Phước từ tháng 12/ 2013
đến tháng 12/2017 .....................................................................................................48
Bảng 2.2.3.1. Số người bị CQĐT tạm giam trên địa bàn huyện Ninh Phước từ tháng
12/ 2013 đến tháng 12/2017 ......................................................................................50
Bảng 2.2.3.3. Số người VKS truy tố và áp dụng biện pháp ttạm giam trong thời gian
từ tháng 12/2013 đến tháng 12/2017 trên địa bàn huyện Ninh Phước......................55
Bảng 2.2.4.1. Số người bị CQĐT áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trên địa
bàn huyện Ninh Phước trong thời gian từ tháng 12/2013 đến tháng 12/2017 ..........56
Bảng 2.2.5.1. Số người bị CQĐT áp dụng biện pháp bảo lĩnh trên địa bàn huyện
Ninh Phước từ tháng 12/2013 đến tháng 2/2017 ......................................................57


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biện pháp ngăn chặn (BPNC) quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự
( BLTTHS), nhất là các biện pháp bằng hình thức bắt, giam giữ là biện pháp nghiêm
khắc nhất của Nhà nước áp dụng cho người phạm tội ngăn chặn hành vi xâm hại
đến các quyền và lợi ích của các quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ; nhằm
nhanh chóng xử lý vụ án hình sự. Tuy nhiên, nếu việc dụng các biện pháp này nhất
là các biện pháp bằng giam, giữ không có căn cứ, đúng đối tượng, áp dụng tràn lan,
tùy tiện, bắt, tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính; bắt, tạm giữ, tạm
giam, oan sai sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của người bị bắt, quyền cơ
bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận. Ngược lại, có trường hợp cần thiết phải
bắt nhưng không bắt tạm giam dẫn đến nhiều vụ án không được điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án do người phạm tội bỏ trốn, đã gây nên sự hoài nghi của quần chúng
nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm giảm sút uy tín của các cơ quan

bảo vệ pháp luật.
Trước tình trạng trên nên ngày 21/3/2000 Bộ chính trị đã có chỉ thị số 53CT/TW “Về một số công việc cấp bách của một số cơ quan tư pháp cần thực hiện
trong năm 2000”, yêu cầu phải “Tăng cường trách nhiệm pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt, giam, giữ….sai sót trong việc bắt,
giam, giữ ở địa phương nào thì trước hết Viện kiểm sát nhân dân ở địa
phương đó phải chịu trách nhiệm”.[13]
Nghị Quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng chỉ rõ:
“… Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ bảo đảm đúng pháp
luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê
chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan
sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong
việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình…”.[1]

1


Qua đó thấy rằng, Viện kiểm sát (VKS) nhân dân có vị trí, vai trò rất quang
trọng trong việc đảm bảo các BPNC được áp dụng đúng đắn, đem lại hiểu quả cao
trong công tác phòng chống tội phạm và chống oan sai.
Việc áp dụng các BPNC của Cơ quan cảnh sát điều tra, Tòa án cũng như
công tác việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động áp dụng các biện
pháp này của VKS mặc dù đã có hiệu quả hơn nhưng còn có một số trường hợp
thực hiện chưa đảm bảo các căn cứ, tâm lý còn nể nang, chưa xem xét thấu đáo đến
quyền con người, quyền cơ bản của công dân nên chưa làm hết trách nhiệm theo
quy định của pháp luật dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Những quy định của pháp luật về các BPNC và các quy định về tổ chức hoạt
động của VKS mặc dù đã được hoàn thiện hơn trước nhưng một số quy định vẫn
còn bộc lộ nhiều bất cấp, vướng mắc cần được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình
hình mới.

Để việc áp dụng BPNC và công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
áp dụng các biện này đạt hiệu quả cao, công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm
nói chung và việc giải quyết giải quyết các vụ án hình sự nói riêng được đảm bảo,
bảo vệ an toàn xã hội cũng như quyền lợi của người bị bắt cần phải làm rõ lý luận
và thực tiễn về các biện pháp này cũng như việc áp dụng nó và vai trò của VKS
trong hoạt này.
Đó là lý do cơ bản làm cơ sở cho tác giả chọn đề tài “Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn từ thực tiễn huyện Ninh Phước,
tỉnh Ninh Thuận” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, khoa học luật tố tụng hình sự (TTHS) trong nước đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, như:
Cấp độ luận văn Tiến sĩ có đề tài:
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng
cảnh sát nhân dân của tác giả Trịnh Văn Thanh, (Bộ Công an), 2000;

2


- Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt
Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của Nguyễn Văn Điệp, Học viện Tư
pháp, 2005;
Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ có đề tài:
- Áp dụng pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của Cơ
quan điều tra trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn Văn Đồng, 2004;
- Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt,
tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn Bá Phùng,
2010;
- Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình

Phước, của Nguyễn Công Vang, 2017.
Về đề tài khoa học cấp Bộ có Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong Bộ
luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, của Viện khoa học kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2008;
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình
của các tác giả sau:
- Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự; của Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992;
- Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn
Mai Bộ, Nhà xuất bản CAND, 1997;
- Giáo trình: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học
Luật Hà Nội; giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2001;
Qua nghiên cứu một số công trình khoa học ở trong nước có liên quan đến đề
tài, phần lớn các tài liệu tập trung nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống
những khía cạnh lý luận chung nhất về các BPNC mà cụ thể trong giai đoạn điều
tra, ít đề cập đến việc áp dụng các biện pháp này trong giai đoạn truy tố, xét xử và
vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp dụng
3


các BPNC; các công trình nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát trong áp dụng
các BPNC nhưng cũng chỉ ở mức nghiên cứu ở các BPNC cụ thể như biện pháp bắt,
tạm giữ tạm giam mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống,
toàn diện và sâu sắc toàn bộ các BPNC và các hoạt động của của VKS để thực hiện
việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc áp dụng các dụng các BPNC. Từ đó
thấy được vị rí vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước ta; sự cần
thiết phải tiếp tục duy trì các chức năng này của Viện kiểm sát nhân dân như Hiến
pháp hiện hành quy định.
Đề tài “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp dụng các biện pháp ngăn
chặn từ thực tiễn huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận” là một nghiên cứu chuyên

sâu ở bậc cao học trong bối cảnh điều kiện kinh tế, xã hội của huyện Ninh Phước,
tỉnh Ninh Thuận trong thời gian 05 năm qua.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về hệ thống lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về
tổng thể các BPNC quy định trong BLTTHS và việc áp dụng các biện pháp này; vai
trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS. Đánh giá những hạn chế, tồn tại, đưa
ra một số giải pháp để góp phần bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật
về các BPNC, đồng thời làm rõ hơn vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
hoạt động này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng hợp hóa, nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ, bổ sung các quy định
của pháp luật chưa hoàn thiện về các BPNC. Đặc biệt là những vấn đề lý luận về vị
trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong vấn đề này cũng như thực
trạng hiện nay của việc áp và các hoạt động kiểm sát các biện pháp này. Trên cơ sở
đó, tìm ra giải pháp khắc phục nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao
chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động này của VKS.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn việc áp dụng các BPNC và hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong việc áp dụng các biện pháp này
trên cơ sở số liệu thực tiễn từ huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.
- Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn về công tác kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động áp dụng các BPNC của VKS trong 05 năm từ tháng
12 năm 2013 đến tháng 12 năm 2017.

Về không gian: Địa bàn khảo sát, phân tích trên phạm vi huyện Ninh Phước,
tỉnh Ninh Thuận.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp luận biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đấu tranh
và phòng ngừa tội phạm ở nước ta. Đồng thời, luận văn còn sử dụng các phương
pháp thống kê hình sự, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu dựa trên những tài
liệu tổng kết, số liệu thống kê của VKSND huyện Ninh Phước và CQCSĐT Công
an huyện Ninh Phước nhằm đánh giá thực trạng quy định pháp luật cũng như thực
tiễn của công tác kiểm sát, phân tích làm rõ nguyên nhân, điều kiện của hạn chế tồn
tại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về các BPNC và vị trí, vai trò
của VKS trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động áp dụng các
BPNC mang một ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn rất sâu sắc; về lý luận bổ sung
cho chúng ta một quan điểm pháp lý chặt chẽ về vấn đề áp dụng các BPNC nhất là
biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đó là các căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, đối
tượng áp dụng trong các biện pháp cụ thể hay trường hợp nào thì thực hiện BPNC
nào cho đúng pháp luật, đúng đối tượng, đúng thẩm quyền. Từ đó sẽ đem lại cho

5


quá trình áp dụng vào thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử được đảm bảo đúng quy
định của pháp luật. VKS có vai trò đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định trong
việc áp dụng các biện pháp này thông qua công tác việc kiểm sát các hoạt động tố
tụng nói chung và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp dụng các BPNC nói
riêng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội
phạm.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
áp dụng các biện pháp ngăn chặn của Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn của Viện kiểm sát nhân dân
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát áp dụng các biện
pháp ngăn chặn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Phước

6


Chương 1
NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
1.1. Khái quát về các biện pháp ngăn chặn
1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm các BPNC.
Trong Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái
niệm “BPNC là phương pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can,
bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm
cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có
hành động gây cản trợ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”
[25]. Tuy nhiên, khái niệm này chưa nêu rõ cơ quan có thẩm quyền áp dụng.
Còn tác giả Nguyễn Mai Bộ thì “ BPNC là những biện pháp cưỡng chế
TTHS do những cơ quan hoặc những người có thẩm quyền theo quy định pháp luật
áp dụng với bị can, bị cáo và có thể với những người chưa bị khởi tố khi có căn cứ
do pháp luật quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho công tác điều tra,

truy tố, xét xử và thi hành án hoặc không cho họ tiếp tục phạm tội mới” [9]. Khái
niệm này không nêu rõ các BPNC được quy định trong BLTTHS.
Có quan điểm khác thì cho rằng “ Biện pháp ngăn chặn là một loại biện

pháp cưỡng chế do CQĐT, VKS, TA áp dụng đối với người bị tình nghi phạm
tội, đối với bị can, bị cáo và cả với người bị án khi các cơ quan này có căn cứ
chorằngnhững người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội” [50, Tr.502-503]. Tuy nhiên, quan điểm có
điểm mới hơn các quan điểm trên về đối tượng bị áp dụng đó là người bị tình nghi
nhưng lại không nêu được một số chủ thể khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra có thẩm quyền áp dụng.
Người bị buộc tội là một khái niệm mới, được quy định tại điểm đ Khoản 1
Điều 4 BLTTHS 2015, đó là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. [36]
7


Như vậy, qua các khái niệm trên có thể tổng hợp được như sau “BPNC là
biện pháp cưỡng chế của nhà nước được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự do
người có thẩm quyền trong các Cơ quan tiến hành tố tụng hoặc bất kỳ ai được pháp
luật quy định và cho phép có quyền áp dụng đối với người bị buộc tội khi có căn cứ
luật định nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc có căn cứ chứng tỏ người bị buộc
tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự hoặc tiếp
tục phạm tội”.
1.1.2. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS 2003( Điều 109 BLTTHS 2015) thì để
kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo
đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi
thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú,

tạm hoãn xuất cảnh. Các biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng xuyên suốt quá
trình điều tra, truy tố xét xử vụ án hình sự.
Khi cần phải kịp thời ngăn chặn tội phạm
Kịp thời ngăn chặn tội phạm là ngăn ngừa không cho tội phạm đang
được chuẩn bị xảy ra hoặc không cho tội phạm đang được thực hiện tiếp tục
thực hiện. Do vậy căn cứ này thường được áp dụng đối với người chưa bị
khởi tố bị can, trong trường hợp bị bắt quả tang theo khoản 1 Điều 82 (Khoản 1,
Điều 111 BLTTHS 2015) hoặc bắt người trong người trong trường hợp khẩn cấp
như ở điểm a khoản 1 Điều 81 (Hay giữ người trong trường hợp khẩn cấp như
điểm a, khoản 1, Điều 110 BLTTHS 2015), khi có căn cứ xác định:
Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng cho đối tượng áp dụng BPNC tạm
giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trong quá khứ.
Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho hoạt động
điều tra

8


Người bị buộc tội theo quy định tại điểm đ khoản 1, Điều 4 BLTTHS 2015,
đó là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Khi có căn cứ cho rằng người đã thực hiện hành vi phạm tội, bị can, bị cáo sẽ
gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điểu tra, truy tố, xét xử và thi hành án
được thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội có thể bỏ
trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, mua
chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, khống chế người làm chứng, người bị hại, thông cung...dẫn
đến gây khó khăn cho việc xác định, làm rõ sự thật khác quan vụ án trong quá trình
điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội
Để nhận định cáo căn cứ chứng tỏ người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa

khởi tố, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết để đánh giá một
cách tổng hợp như là: Tính chất của tội phạm mà người đã thực hiện hành vi phạm
tội chưa khởi tố, bị can, bị cáo đã thực hiện là nghiêm trọng như thế nào; Nhân thân
của người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa khởi tố, bị can, bị cáo (Người đã có
tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tội phạm có tính chất
chuyên nghiệp rất dễ tiếp tục phạm tội và bỏ trốn); Những biểu hiện cụ thể của
người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa khởi tố, bị can, bị cáo như đe dọa, khống
chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại
gặp gỡ bọn tội phạm, đe dọa trả thù người làm chứng, người bị hại, và sự đe dọa đó
có khả năng trở thành hiện thực được không được ngăn chặn kịp thời.
Để bảo đảm thi hành án
Trong trường hợp cũng cần xét xét đầy đủ tính chất,mức độ, hậu quả hành vi
của người người phạm tội (trong giai đoạn này là bị cáo, người bị kết án) đã gây ra;
lai lịch, địa chỉ, nhân thân của họ, tội mà họ đã phạm phải thì Tòa án có thể áp dụng
BPNC thích hợp trường hợp có khả năng bỏ trốn thì Tòa án có thể sử dụng BPNC
bằng tạm giam đối với họ để đảm bảo cho việc thi hành án, còn nếu có đủ cơ sở cho
rằng bị cáo sẽ không bỏ trốn, không gây cản trở khó khăn cho việc thi hành án thì

9


không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ cần áp dụng các biện
pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn.
1.1.3. Mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại Điều 79 Bộ luật TTHS năm 2003(Điều 109 BLTTHS
2015) thì các biện pháp ngăn chặn được áp dụng nhằm kịp thời ngăn chặn tội
phạm hoặc bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc hoặc để bảo đảm thi
hành án. Như vậy,việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nhằm các mục đích sau đây:
Ngăn ngừa tội phạm là việc:
- Ngăn chặn không cho tội phạm chuẩn bị xảy ra;

- Ngăn chặn không cho hành vi phạm tội đang được thực hiện tiếp tục
tiếp diễn;
- Ngăn chặn người phạm tội thực hiện tội phạm mới.
Đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án:
Các BPNC có ý nghĩa rất quang trọng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử cũng như công tác thi hành án. Tạo điều khiện thuận lợi về mặt pháp lý, về thời,
sự thuận tiện, nhanh chóng cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
đảm bảo được hiểu quả, kịp thời (vì bảo đảm sự có mặt của người đã thực hiện hành
vi phạm tội chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo trong các hoạt động tố tụng khi cần thiết;
làm cho người đã thực hiện hành vi phạm tội, bị can, bị cáo không có khả năng bỏ
trốn; bảo đảm bí mật điều tra; không có điều kiện thông cung; tiêu hủy chứng cứ,
mua chuộc nhân chứng ....nên không gây khó khăn hoặc cản trợ các hoạt động điều
tra điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
1.1.4. Cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
1.1.4.1. Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại điều 33 BLTTHS 2003 (Điều 24 BLTTHS 2015) thì Cơ
quan Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án có thẩm quyền áp
dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo
lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.

10


1.1.4.2. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
- Đối với bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, Điều 110 BLTTHS 2015) thì những ngưới sau đây có quyền ra lệnh bắt:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội
độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và
biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển,khi tàu bay,tàu biển đã rời khỏi sân bay,
bến cảng (Điều 81BLTTHS năm 2003).

Điều 110 BLTTHS năm 2015 bổ sung thêm những người có thẩm quyền sau:
Đồn trưởng đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng cửa khẩu cảng, Chỉ huy
trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục
trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng,Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội
phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội
phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục
nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm
phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm ngư vùng.
Lệnh bắt người bị giữ của những người trên phải gửi được VKS cùng cấp
hoặc VKS có thẩm quyền phê chuẩn thì mới có giá trị thi hành.
- Đối với bắt bị can, bị cáo để tạm giam quy định tại điều 80 BLTTHS 2003(
Điều 113 BLTTHS 2015) thì những ngưới sau đây có quyền ra lệnh bắt:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. (Trường hợp này, lệnh bắt phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành); Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện KSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp:
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân
sự các cấp; Hội đồng xét xử.
BLTTHS 2015 bỏ người có thẩm quyền bắt quy định tại điểm c, khoản 1,
Điều 80 BLTTHS 2003 là “Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao”, vì Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao đã
năng lên thành một cấp xét xử là Tòa án nhân dân cấp cao [43].

11


- Đối với bị bắt quả tang và người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng
có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy
ban nhân dân nơi gần nhất.
1.1.5. Đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn

Theo quy định tại Chương VI của Bộ luật TTHS năm 2003 (Mục 1
Chương VII Bộ luật TTHS năm 2015), thì đối tượng có thể bị áp dụng BPNC trong
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án gồm:
- Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có đủ căn cứ người đó bị nghi
thực hiện tội phạm và xét thấy cần thiết ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ; ( người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp; Người đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng (Giữ người trong
trường hợp khẩn cấp);
- Người đang thực hiện tội phạm; Người đã thực hiện tội phạm; Người có
dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, hoặc nơi làm việc hoặc trên phương
tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm (Người bị bắt phạm tội quả tang);
- Người đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm (Người này
đã áp dụng các BPNC không bằng giam giữ nhưng vi phạm nên thay đổi chuyển
sang BPNC bắt giam);
- Người không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị
can (Người này khó xác định nhân thân, lai lịch);
- Người bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
- Người tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
- Người có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian
dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ
án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng,
bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này;
- Người đã khởi tố bị can( Bị can, bị cáo).

12


1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung kiểm sát việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn
1.2.1. Khái niệm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Từ năm Hiến pháp 1960 đến Hiến pháp 1992 thì Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) ngoài chức năng thực hành quyền công tố, VKS còn có chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc
Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang và công dân.
Đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì phạm vi hoạt động
của VKS chỉ còn “ Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp”[37].
Và Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định “ Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp…..”[38].
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng Hiến định của VKS.
Vậy, hoạt động tư pháp là những hoạt động nào, do chủ thể nào thực hiện và
kiểm sát hoạt động tư pháp là gì?.
Ở Việt Nam, quyền tư pháp được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa, đó là
“quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động,
hành chính…” hoặc một định nghĩa khác “Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà
nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính
hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các
quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”[D]. Như vậy, quan niệm về quyền tư
pháp là quyền xét xử và dựa trên quan điểm này thì cơ quan tư pháp được xác định
là Tòa án.
Trên thực tế, quyền tư pháp ở Việt Nam có nghĩa rộng hơn nhiều, xuất phát
từ đặc điểm tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam không có sự phân
chia quyền lực , vì vậy quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam có nhiều điểm
đặc thù so với nhiều quốc gia trên thế giới.

13


Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật hay các công trình nghiên cứu của

Việt Nam chính thức xác định khái niệm một cách chi tiết và cụ thể tư pháp có nội
hàm gì, cơ quan tư pháp gồm những cơ quan nào và còn nhiều ý kiến, quan điểm
khác nhau, nhưng điều này đã được thể hiện qua chủ trương, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam nêu trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách
thức tổ chức bộ máy nhà nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước.
Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08) lần đầu
tiên tiếp cận khái niệm tư pháp và cơ quan tư pháp dưới góc độ đường lối chính
sách của Đảng về công tác tư pháp. Theo đó, nội dung của công tác tư pháp và cơ
quan tư pháp có phạm vi rất rộng, từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án [1].
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49) tiếp tục chỉ ra hệ thống các cơ quan tư
pháp mà trọng tâm là Tòa án nhân dân thực hiện quyền xét xử; Viện kiểm sát thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; các Cơ quan điều tra thực hiện
nhiệm vụ điều tra trong tố tụng hình sự và các cơ quan thi hành án [2].
Ngoài những cơ quan tư pháp kể trên, Nghị quyết 08 đề cập đến hoạt động
của Luật sư, Cảnh sát tư pháp, tổ chức giám định, hoạt động công chứng, thống kê
tư pháp với tư cách là các hoạt động bổ trợ tư pháp[1]; Nghị quyết số 49 xác định
nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp này như một hoạt động quan trọng
trong công tác tư pháp và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp là một khâu quan
trọng trong công tác cải cách tư pháp [2].
Như vậy, hoạt động tư pháp là các hoạt động điều tra, hoạt động truy tố,
hoạt động xét xử, hoạt động thi hành án và một số hoạt động do các cơ quan được
giao một số thẩm quyền tư pháp thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được
thực hiện trong quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, trực tiếp
liên quan tới quá trình giải quyết các vụ án.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014: “ Kiểm
sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp

14



pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư
pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc
giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.” [40]
Qua phân tích trên thấy rằng, VKS là cơ quan duy nhất được Quốc hội giao
cho chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Đối tượng bị kiểm sát là những hoạt
động do các cơ quan tư pháp kể trên tiến hành.
Mục đích nhằm làm cho hoạt động tư pháp tuân thủ các quy định pháp luật,
bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của các tổ chức, cá
nhân trong xã hội.
Vậy, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp dụng các BPNC là gì?.
Các BPNC là hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự do các chủ thể là
người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) và một
số người khác được giao thẩm quyền áp dụng trong việc giải quyết các vụ án hình
sự. Đây là hoạt động tư pháp và chịu sự kiểm sát của VKS.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp dụng các BPNC là một trong
những hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS.
Kiểm sát việc tuân theo pháp trong áp dụng các BPNC bắt đầu từ khi có
hoạt động áp dụng biện pháp bắt người và kết thúc ở giai đoạn xét xử và bị kết án,
là hoạt động xuyên suốt từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử; mục đích nhằm
bảo đảm việc áp dụng các BPNC có căn cứ, đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền; góp
phần loại trừ những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC của các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng
của công dân không bị xâm phạm.
Qua đó thấy rằng: “ Kiểm sát việc tuân theo pháp trong áp dụng các biện
pháp ngăn chặn là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm cho việc

áp dụng các biện pháp ngăn chặn của những ngườicó thẩm quyền trong Cơ quan

15


điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra có căn cứ, đúng pháp luật; góp phần loại trừ những vi phạm
pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của những người này, bảo
đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân không bị xâm phạm”.
1.2.2. Đặc điểm của kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp dụng các BPNC là một trong
những hoạt động của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói riêng của ngành kiểm
sát, nó vừa mang những đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp
nhưng cũng mang trong mình những đặc điểm riêng, đó là
Thứ nhất, hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn do các cơ
quan tiến hành tố tụng được nhà nước giao thẩm tiến hành.
Thứ hai, hoạt động nhằm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát, đảm bảo việc
áp dụng các BPNC đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, đối tượng của hoạt động này là kiểm sát việc áp dụng các BPNC do
các chủ thể là những người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng và
một số cơ quan được giao một số hoạt động điều tra hoạt động điều tra tiến hành
như quy định tại khoản 1, Điều 80, khoản 2, Điều 81 BLTTHS 2003 (Điều 35
khoản 1, Điều 113 BLTHS 2015).
Khi kiểm sát các BPNC do CQĐT áp dụng thì VKS thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố, còn khi kiểm sát các BPNC do Tòa án áp dụng thì VKS
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thứ tư, đối tượng bị áp dụng BPNC là những người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, truy nã, bị

can, bị cáo.
Thứ năm, căn cứ để áp dụng và làm cơ sở cho hoạt động của VKS trong việc
kiểm sát áp dụng các BPNC là những căn cứ được quy định trong BLTTHS, Luật tổ
chức Viện KSND, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam về trình tự, thủ tục, thẩm quyền.

16


Thứ sáu, thủ tục áp dụng là những quy định trong BLTTHS.
1.2.3. Nội dung của kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Thông qua công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp, hoạt động kiểm sát việc áp dụng các BPNC nhằm mục đích
đảm bảo cho việc áp dụng các biện pháp này có căn cứ, đúng quy định của pháp
luật, loại trừ những vi phạm trong việc áp dụng; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân.
Nội dung kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải đảm bảo đầy
đủ 05 tiêu chí sau: Căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ tục
áp dụng và thời hạn áp dụng.
Vì vậy, khi tiến hành thực hiện nhiệm vụ này, người tiến hành tố tụng của
VKS cụ thể là Viện trưởng, Phó viện trưởng và KSV phải nghiên cứu, xem xét đầy
đủ các tiêu chí trên đã đảm bảo hay chưa; các tiêu chí này không chỉ được quy định
trong BLTTHS mà còn được quy định tại các văn bản hướng dẫn cụ thể trong việc
áp dụng từng BPNC.
Do các tiêu chí về đối tượng, thẩm quyền của các BPNC đã nêu ở phần
1.1.4.2 nên ở phần này không nêu lại tránh trùng lắp.
1.2.3.1. Nội dung kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt
1.2.3.1.1. Nội dung kiểm sát việc bắt khẩn cấp (Giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp)
- Về căn cứ: VKS (thay mặt là KSV) kiểm tra việc bắt đó có thuộc một trong
những căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003(Khoản

1 Điều 110 Bộ luật TTHS năm 2015) hay không. Đó là các căn cứ sau:
+ Khi có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
KSV kiểm tra để xác định có hay không việc người bị bắt có hành vi chuẩn
bị thực hiện tội phạm như: Chuẩn bị công cụ, phương tiện, lập kế hoạch để thực
hiện tội phạm và điều quan trọng là đó có phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội

17


phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự ( BLHS) năm
1999 (Điều 14 của Bộ luật hình sự năm 2015) hay không.
+ Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi
xảy ra tội phạm chính mắt (trông) nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã
thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
KSV cần nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ như biên bản ghi lời khai của
người cùng thực hiện tội phạm, người bị hại hoặc lời khai của người có mặt tại nơi
xảy ra tội phạm để xác định đúng người bị bắt là người đã thực hiện tội phạm và có
chứng cứ chứng tỏ người đó sẽ bỏ trốn.
+ Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm
việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy
cần ngăn chặn ngay người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Trường hợp này, KSV cần phải nghiên cứu biên bản khám xét, thu giữ vật
chứng, tài liệu, đồ vật đã được CQĐT thu thập để xác định có dấu vết của tội phạm
ở người hoặc tại chỗ ở, nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị bắt cũng
như các tài liệu chứng cứ chứng minh việc người bị bắt có dấu hiệu
bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ ( như xóa dấu vết tội phạm, cất giấu công cụ, phương
tiện phạm tội, tẩu tán tài sản vừa lấy được).
Đối với căn cứ có dấu hiệu trốn, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ để đánh giá
nhân thân người bị bắt ( có tiền án, tiền sự, lang thang, không nghề nghiệp, không

có nơi ở rõ ràng,…), tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và loại tội
phạm đã thực hiện mà trong thực tiễn thấy rằng người thực hiện tội phạm thường
hay bỏ trốn như tội trộm cắp tài sản, tội cướp giật tài sản,tội giết người, tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tội hiếp dâm, tội mua bán trái phép chất ma túy,…
- Về thủ tục: Thủ tục giữ người Quy định tại khoản 2, Điều 80 BLTHS 2003;
mục 3, TTLT số 05/TTLT-VKSTC-BCA-BQP, ngày 07/9/2005 của VKSNDTC,
BCA, BQP về quan hệ giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định
của BLTTHS 2003 (TTLT số 05); khoản 3, 4 Điều 110 BLTTHS 2015 và khoản 2,
Điều 132 BLTTHS 2015.

18


KSV phải kiểm tra trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường
hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan ra lệnh
đã lấy lời khai hay chưa; có ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả
tự do ngay cho người đó hay chưa; Lệnh bắt có ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị
giữ, lý do, căn cứ giữ người; số, ngày, tháng, năm, địa điểm, căn cứ ban hành, nội
dung, họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành và có đóng dấu cơ quan ban hành
hay chưa.
KSV kiểm tra thủ tục đề nghị VKS phê chuẩn có đầy đủ các thủ tục quy định
tại Tiểu mục 3.3, mục 3, TTLT số 05; khoản 5, 6 Điều 110 BLTTHS 2015.
Trường hợp cần thiết, KSV phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Biên bản ghi lời khai của người bị bắt do KSV lập phải đưa vào hồ sơ vụ án.
KSV kiểm tra thủ tục giữ người, bắt người bị giữ theo quy định tại Khoản 2 Điều 80
BLTTHS năm 2003(Khoản 2 Điều 113 BLTTHS năm 2015).
- Về thời hạn:Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
Cơ quan điều tra trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho

người bị bắt. Điều 110, BLTTHS 2015 thì chỉ quy định trong thời hạn 12 giờ sau
khi giữ người thì Cơ quan ra lệnh phải ra Quyết định tạm giữ hoặc trả tự do ngay và
bổ sung quy định mới là ra lệnh bắt người bị giữ.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ, KSV phải đề xuất Lãnh
đạo ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp, VKS
quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì
người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT đã nhận người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ. Như vậy, với cách
quy định này thì cần lưu ý VKS chỉ xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn Lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chứ không phải xem xét việc phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

19


×