Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Triết học Mác Lenin 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.58 KB, 8 trang )

1.. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức để chứng minh nhận định:
“Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ thực tế và
tôn trọng quy luật khách quan.”
Định nghĩa vật chất và ý thức
*Vật chất: Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
*Ý thức : Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ
quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý
thức ra khỏi bộ óc. Ý thức có 2 nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
- Nguồn gốc tự nhiên:
• Não người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu dài của vật chất.
• Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát triển khác nhau của
vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành phản
ánh ý thức của con người.
- Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn ngữ và những quan hệ
xã hội của loài người.
* Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất và ý thức quan hệ qua lại và chuyển hóa lẫn nhau :Vật chất có trước ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức, vật chất là nguồn gốc, là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý
thức. Hay nói cách khác vật chất thế nào thì ý thức như thế ấy, vật chất thay đổi đến đâu thì ý
thức thay đổi đến đó.
- Ý thức là do vật chất sinh ra nhưng 1 khi ý thức ra đời nó có tác dụng tích cực trở lại với vật
chất sinh ra nó theo 2 trường hợp:
+ Nếu ý thức tiến bộ: phản ánh phù hợp với thực tế thì có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Nếu ý thức lạc hậu: phản ánh không phù hợp với quy luật khách quan thì có tác dụng kìm hãm
xã hội phát triển.
- Ý thức thuần túy: ý thức này dù tiến bộ hay lạc hậu thì bản thân chúng cũng không làm thay đổi
điều kiện hiện thực mà ý thức đó phải thông qua hành động thực tiễn của con người thì mới trở
thành hiện thực.
* Ý nghĩa phương pháp luận:




- Vì vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức nên trong hành động nhận thức
cũng như hành động thực tiễn của con người phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan.
- Ý thức có tác động tích cực trở lại vật chất sinh ra nó cho nên ta phải biết phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con người.
- Cần chống bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, ngồi chờ.
Vận dụng của Đảng
Trong thời kí trước Đổi mới (Đại hội Đảng lần thứ VI 1986), Đảng ta mắc bệnh chủ quan, duy ý
chí trong việc xây dựng mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo XHCN
và quản lý kinh tế. Đảng ta đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, mong
muốn sau khi cải tạo thì XHCN chỉ còn lại hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể. Cũng
có lúc Đảng đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công
nghiệp nhẹ. Đồng thời, chúng ta cũng duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp, cơ chế xin cho và có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Như vậy, sai lầm của Đảng trước khi Đổi mới là bệnh chủ quan duy ý chí, với lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, xa rời hiện thực khách quan. Vì
vậy, để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí này, đòi hỏi phải nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý
luận của Đảng, trong thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chỉ trị, chống
bảo thủ, trì trệ và quan liêu.
Thực tế cho thấy, từ năm 1986 đến nay Đảng ta đã vận dụng quán triệt mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Đảng thừa nhận sai lầm chủ quan duy ý chí và có những biện pháp hiệu
quả để khắc phục tình hình, mà trước hết là thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Đồng thời từng
bức thay đổi nền sản xuất kinh tế, chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần theo định hướng CHXN. Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại
đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi
ích khác nhau thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới. Đồng thời phải phát huy tính năng
động, sáng tạo của ý thức. Cụ thể: chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ. Coi trọng

công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng HCM); Nâng
cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH & con đường đi lên CNXH); Kiên quyết khắc phục &
ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ, hành động giản đơn, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng; bất chấp quy luật khách quan.
2. Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Đảng và Nhà nước đã vận dụng quy luật này như thế nào trong công việc xây dựng và
phát triển đất nước?
1, Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất


- Lực lượng sản xuất ( LLSX) là sự kết hợp giữa người lao động ( sức khỏe thể chất, kinh
nghiệm,..) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật
chất nhất định.
- LLSX gồm hai yếu tố cơ bản: người lao động và TLSX nhất định. Các yếu tố trong LLSX
không thể tách dời nhau. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó yếu tố con người giữ vị trí
hàng đầu, TLSX đóng vai trò rất quan trọng.
2, Khái niệm và kết cấu của QHSX
- Quan hệ sản xuất (QHSX) là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
- QHSX kết cấu gồm có ba mặt: quan hệ sở hữu đối với TLSX, quan hệ tổ chức, quản lí sản
xuất và quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Ba mặt quan hệ này thống nhất với nhau, mỗi mặt
đều có tác động kích thích , thúc đẩy hoặc cản trở, kìm hãm những mặt khác. Trong đó, quan hệ
sở hữu đối với TLSX đóng vai trò quyết định hai mặt kia.
QHSX mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. QHSX là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các
quan hệ xã hội khác của con người.
3, Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX.
Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó LLSX
quyết định QHSX và QHSX tác động ngược trở lại LLSX.
-Vai trò quyết định của LLSX đối với sự hình thành và biến đổi của QHSX:

+Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của LLSX tất yếu đòi hỏi phải có một
QHSX phù hợp với nó trên cả ba mặt của QHSX đó.
+ Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi đó bao
giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của LLSX mà trước hết là công cụ lao động. Từ
sự biến đổi của LLSX này mà QHSX phải biến đổi cho phù hợp.
+ LLSX thường biến đổi nhanh hơn ( yếu tố người lao động luôn thúc đẩy sự phát triển của
nó), còn QHSX thường biến đổi chậm hơn (vì QHSX bị quy định bởi quan hệ về sở hữu TLSX
bị níu giữ bởi yêu cầu phải bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị hiện đang nắm giữ quyền sở
hữu TLSX.
Do đó, sự phát triển của LLSX khi đạt đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với
QHSX hiện có, đòi hỏi tất yếu phải phá bỏ QHSX lỗi thời và thay thế bằng QHSX mới phù hợp.
-Tác động ngược lại của QHSX đối với LLSX.


+ QHSX quy định mục đích, cách thức sản xuất và cách thức phân phối những lợi ích từ quá
trình sản xuất do đó nó trực tiếp tác động tới thái độ của người lao động, tới năng suất, chất
lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động.
+ Sự tác động của QHSX với LLSX diễn ra theo hai xu hướng:
Một là, Nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển.
Hai là, Nếu QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của
LLSX.
Quy luật này là quy luật cơ bản , quan trọng tác động tới toàn bộ quá trình lịch sử nhân
loại, ở đó LLSX không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của QHSX đối với
nó dẫn tới việc phá bỏ QHSX đã lỗi thời thay thế bằng QHSX tiến bộ hơn. Quá trình đó lặp đi
lặp lại làm cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao của các
hình thái kinh tế - xã hội.
c.Sự vận dụng quy luật này ở nước ta
Trước thời kì đổi mới 1986, nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.
Nước ta đã thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách ào ạt, trong khi đang tạo
địa bàn cho sự phát triển cho lực lượng sản xuất. Đồng thời, trong quá trình cải tạo nền sản xuất

chỉ tập trung cải tạo quan hệ sản xuất, chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển. Từ đó đã đến hậu quả là lực lượng sản xuất trong khoảng thời
gian này yếu kém, trong khi quan hệ sản xuất được duy trì ở trình độ quá cao. Từ đó làm nảy
sinh mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với hình thức kinh tế xã hội, để lại hậu
quả nặng nề, bao gồm kinh tế chậm phát triển, sản xuất trì trệ, thiếu vốn đầu tư,...
Chính vì vậy, mà trong Đại hội Đảng 1986, Đảng đã đề ra những đường lối, chủ trương đổi mới
toàn diện, tuân thủ theo đúng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và mối quan hệ
sản xuất. Trong đó, trình độ người lao động được nâng cao rõ rệt và hiện tại vẫn đang không
ngừng tăng cao, qua đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất cũng được chú trọng. Thứ hai, là trình độ của tư liệu sản xuất tiến bộ hơn
so với thời kì trước đổi mới. Cụ thể, công cụ lao động hiện đại hơn với sự đầu tư vào các thiết bị
công nghệ cao thay thế cho lao động chân tay truyền thống, góp phần làm tăng năng suất lao
động tăng cao. Đối tượng lao động hiện nay cũng hiện đại hơn, nếu trước đây với nền văn minh
nông nghiệp với đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất thì bây giờ, với nền văn minh cơ khí,
đối tượng lao động được mở rộng.
Về quan hệ sản xuất, chúng ta thiết lập quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, với quan hệ sản xuất này, áp bức bóc lột sẽ được dần xóa bỏ, đưa mọi
thành viên trong bộ máy sản xuất và cả xã hội đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn. Bên cạnh


đó, nước ta cũng đa dạng hóa các hình thức sở hữu vì trình độ của lực lượng sản xuất không
đồng đều, đòi hỏi phải xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp.
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất đã giúp nước ta có những sự chuyển mình rõ rệt, đạt được nhiều thành tựu to
lớn và có ý nghĩa quan trọng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
3. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đảng và
Nhà nước đã vận dụng quy luật này như thế nào trong công việc xây dựng và phát triển đất
nước?
CSHT là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. CSHT
của một xã hội cụ thể bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX mầm

mống của xã hội tương lai. Trong đó, QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối
các QHSX khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, CSHT của
một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi QHSX thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, QHSX tàn dư
và QHSX mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì QHSX là hình thức phát triển của LLSX,
nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các QHSX "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội,
tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nền KTTT tương ứng.
KTTT là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, ... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể xã hội,... được hình thành trên CSHT nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, KTTT mang tính giai cấp trong đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan
trọng. Nhà nước chính là đại biểu tiêu biểu cho chế độ đang tồn tại và chính nhờ vào vai trò của
Nhà nước mà giai cấp thống trị có thể áp đặt được tư tưởng của mình đối với toàn bộ đời sống xã
hội.
Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
CSHT và KTTT là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội – đó là phương diện kinh tế và
phương diện về chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với KTTT và KTTT thường
xuyên có sự tác động trở lại đối với CSHT.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT trước hết thể hiện ở chỗ: Mỗi CSHT sẽ hình thành
nên một KTTT tương ứng với nó. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì
cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT còn thể hiện ở chỗ: CSHT thay đổi thì sớm hay
muộn, KTTT cũng thay đổi theo. Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp thay
đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay
trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Sự thay đổi CSHT dẫn đến làm thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố
của KTTT thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của CSHT như chính trị, pháp luật,...
Trong KTTT, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,... hoặc có những yếu tố

vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu
tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Tác động trở lại của KTTT đối với CSHT


Tuy CSHT quyết định KTTT, KTTT phù hợp với CSHT, nhưng đó không phải là sự phù hợp một
cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ KTTT, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập
tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với CSHT.
Tất cả các yếu tố cấu thành KTTT đều có tác động đến CSHT. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau
có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu
tố có tác động mạnh nhất đối với CSHT vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị
về kinh tế. Các yếu tố khác của KTTT như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cũng đều
tác động đến CSHT, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Sự tác động của KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai chiều. Nếu KTTT tác động phù hợp với
các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác
động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt
Nam hiện nay:
Trước thời kì đổi mới, do ảnh hưởng của chiến tranh và sự áp dụng rập khuôn của Nhà nước mà nước ta
gặp rất nhiều khó khăn trong việc phục hồi và phát triển cơ sở hạ tầng. Chúng ta xóa bỏ nền kinh tế nhiều
thành phần, xóa bỏ tư hữu và xây dựng nền kinh tế quốc hữu hóa hoàn toàn. Đồng thời, chúng ta tập trung
phần lớn vốn đầu tư vào xây dựng các ngành thủ công nghiệp nặng, thực hiện nền kinh tế khép kín, chỉ
giới hạn quan hệ trong khối các nước xã hội chủ nghĩa. Và với đường lối đó, chúng ta nhanh chóng nhận
những hậu quả nghiêm trọng. Các ngành sản xuất hàng hóa tiêu dùng không phát triển được, từ đó khiến
các sản phẩm tiêu dùng trở nên khan hiếm. Các nhà máy sản xuất ra sản phẩm không phù hợp nhu cầu,..
Bên cạnh đó, các kế hoạch điều chỉnh không phù hợp của Nhà nước đã tạo nên sự trì trệ, chập chạp của
nền kinh tế. Tất cả những điểm trên đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đề ra một đường lối, chủ trương đổi
mới toàn diện vào năm 1986.
Để giải quyết vấn đề trên, Đảng ta đã không ngừng tìm hiểu, phân tích từng mặt cụ thể và đã nhận thức
được bản chất, khuynh hướng vận động của các hiện tượng vào thực tiễn tình hình đất nước. Đảng và Nhà

nước đã xác định rõ việc xây dựng kiến trúc thượng tầng phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế trong
từng giai đoạn.
Về cơ sở hạ tầng, Đảng và Nhà nước khẳng định sự tồn tại cũa nhiều phương thức sản xuất, nhiều quan
hệ sản xuất trong cơ cấu kinh tế quốc dân thông qua định hướng XHCN. Sử dụng các thành phần kinh tế
trong sự liên kết chặt chẽ và chủ đạo trong nền kinh tế XHCN theo nguyên tắc đảm bảo phát triển sớm
nhất năng suất cao.
Về kiến trúc thượng tầng, chúng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng HCM làm “kim chỉ nam” cho
công cuộc đổi mới cho hoạt động xây dựng hệ thống chính trị XHCN mang bản chất giai cấp công nhân,
do ĐCS lãnh đạo. Đồng thời, Nhà nước cũng đề ra đường lối chính sách để phát huy tính năng động của
cơ sở hạ tầng, phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân.
4. Phân tích nội dung hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật, Từ đó đã rút ra cho bản thân mình
được những bài học như thế nào?
* Mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.


Nội dung nguyên lý: giữa các sự vật. hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa
tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ
đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Mối liên hệ phổ biến
tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự
vật hiện tượng xãy ra trong thế giới.
Tính chất nguyên lý:
+ Tính khách quan: sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng là cái
vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí con người, con người chỉ có thể nhận thức và
vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
+ Tính phổ biến: không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự
vật, hiện tượng và quá trình khác. Đồng thời bất cứ tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống
mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
+ Tính đa dạng, phong phú: sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những liên hệ cụ thể hác

nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong điều kiện cụ thể khác nhau thì cũng có những tính chất khác
nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng vào bản thân:
+ Quan điểm toàn diện: trong nhận thức và xử lý tình huống cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong
mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của nó và sự tác động qua
lại của chúng với các sự vật, hiện tượng khác, Từ đó mới có thể xử lý hiệu quả các vấn đề của đời sống
thực tiễn. Đồng thời, tránh quan điểm siêu hình, phiến diện trong nhận thức.
+ Quan điểm lịch sử-cụ thể: trong nhận thức và xử lý tình huống cần phải xét đến những tính chất đặc thù
của đối tượng nhận thức và tình huống giải quyết khác nhau trong thực tiễn.
+ Vận dụng: Khi đánh giá bất kì người nào hay sự vật, hiện tượng nào thì không được nhìn qua vẻ bề
ngoài mà đánh giá mà phải có cái nhìn toàn diện thông qua việc tiếp xúc trong những khoảng thời gian
nhất định, từ đó mới đưa ra kết luận. Trong mối quan hệ xã hội cần phải biết cách cư xử sao cho đúng
mực, ngay cả khi cùng là một mối quan hệ nhưng trong những hoàn cảnh khác nhau thì cũng phải có
những cách cư xử khác nhau mà ông cha ta thường nói “đối nhân xử thế”. Trong học tập, cần phải xác
định mục tiêu , động cơ rõ ràng. Cần phải phân tích, xem xét các mặt của việc học một cách cụ thể phù
hợp với từng thời điểm, tránh chỉ học lý thuyết suông mà phải tìm cách vận dụng kiến thức đã học và thực
tế.


Nguyên lý về phát triển:

Nguyên lý phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ
trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là sự thay đổi về chất
theo hướng ngày càng hoàn thiện và cũng là quá trình phát sinh, giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có
của sự vật.
Tính chất của sự phát triển:


+ Tính khách quan: biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đây là quá trình bắt nguồn

từ bản thân sự vật nên có tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Tính phổ biến: các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong mỗi
quá trình biến đỗi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách
quan.
+ Tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song chúng lại
khác nhau ở mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng:
Phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển. Để nhận thức và giải quyết
bất cứ vấn đề gì, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác,
phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng.
Vận dụng: không ngừng cố phấn đấu để tự hoàn thiện bản thân nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chính
mình và toàn xã hội. Tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại va chạm với thực tế trong công việc mà thay vào
đó là luôn chủ động đương đầu với thử thách. Không nhìn nhận sự vật, hiện tượng một cách phiến diện,
một chiều mà cần phải xét sự vật, hiện tượng qua nhiều góc cạnh, từ đó đưa ra những biện pháp giải quyết
phù hợp. Luôn đổi mới tư duy và nhận thức trong thế giới quan, tránh hình thành các định kiến sai lầm
trong học tập và cuộc sống. Không chạy theo số lượng mà phải chú ý nhiều vào chất lượng, không học
tràn lan mà phải biết chọn lọc nguồn tài liệu phù hợp để sự phát triển được nâng cao rõ rệt.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×